Ba nhân vật trong Lặng lẽ Sa Pa gặp nhau trong hoàn cảnh nào

A. ĐỀ BÀI
Câu 1: Nêu hoàn cảnh sáng tác và chủ đề truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long
Câu 2 : Chỉ ra biện pháp tu từ trong câu thơ sau và nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó:

Gươm mài đá, đá núi phải mònVoi uống nước, nước sông phải cạn.

(Nguyễn Trãi - Bình Ngô Đại cáo)

Câu 3: Tìm khởi ngữ trong câu sau và viết lại thành câu không có khởi ngữ:Cái bàn nhỏ kê ở văn phòng, mẹ tôi thuê đóng cho tôi trong hai buổi trưa.(Lê Minh Khuê - Những ngôi sao xa xôi)

Câu 4: “Trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm” hình ảnh người mẹ Tà-ôi hiện lên như thế nào?


B. GỢI Ý

Câu 1:a) Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được sáng tác năm 1970. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế tại Lào Cai của tác giả.

b)     Chủ đề: Truyện viết về những người lao động bình thường mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh núi cao. Qua đó, truyện khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.

(Soạn văn bài Lặng lẽ Sa Pa ngắn gọn - Đọc thêm)

Câu 2: - Biện pháp tu từ trong câu thơ là: nói quá (là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện tượng được miêu tả).- Tác dụng: nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.

Câu 3: - Khởi ngữ trong câu là : Cái bàn nhỏ kê ở góc phòng

-       Viết lại thành câu không có khởi ngữ: Mẹ tôi thuê đóng cho tôi cái bàn nhỏ kề ở góc phòng trong hai buổi trưa.

Câu 4: Hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm.

1.      Đặt vấn đề-       Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc.-       Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, khi đang công tác ở chiến khu miền tây Thừa Thiên.-       Qua Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện tình yêu con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên.-         Phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài thơ, ta sẽ hiểu hơnvề những người mẹ miền tây Thừa Thiên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.  2.       Giải quyết vấn đềa)     Người mẹ Tà-ôi là người mẹ cần cù, siêng năng, chịu thương chịu khóHình ảnh người mẹ được gắn với hoàn cảnh, công việc cụ thế quạ từng đoạn thơ-        ở đoạn một, người mẹ hiện lên trong công việc lao động: “Mẹ giã gạo”. Giã gạo là một công việc rất nặng nhọc. Sự nặng nhọc, vất vả được thế’ hiện qua các chi tiết, hình ảnh:Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi

Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối.

Người mẹ Tà-ôi gầy yếu nhưng mẹ vẫn hăng say lao động. Đó chính là nét đẹp trong phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam.-        Ở đoạn hai, người mẹ Tà-ôi cũng xuất hiện trong khung cảnh lao động:Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưiLưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ.Bằng nghệ thuật đối lập “Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ”, tác giả đà miêu tả được sự vất vả và gian khổ trong lao động sản xuất làm ra lương thực của người mẹ Tà-ôi. Người mẹ gầy yếu lao động giữa rừng núi mênh mông, heo hút.-         Ở đoạn ba, người mẹ Tà-ôi cũng đang lao động: “Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng. Dù ở đâu, vào thời gian não ta vẫn gặp người mẹ luôn bận rộn với công việc.b)       Người mẹ Tà-ôi là người có tình thương bao la-         Mẹ yêu con thắm thiết+ Ở đâu, lúc nào, người mẹ cũng địu con trên lưng. Mẹ vừa địu con vừa làm rẫy. Mẹ địu con khi già gạo. Mẹ địu con khi “chuyển lán, đạp rừng”. Mẹ con không xa rời nhau. Mẹ coi mặt trời của thiên nhiên là mặt trời của bắp. Còn con là mặt trời của mẹ :Mặt trời của bắp thì nằm trên đồiMặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.Hình ảnh mặt trời ở câu thơ sau đã được chuyển nghĩa, được tượng trưng hoá. Con là Mặt Trời của mẹ. Con là nguồn hạnh phúc ấm áp và gần gũi thiêng liêng của đời mẹ. Chính con đã góp phần sưởi ấm lòng tin yêu, ý chí của mẹ trong cuộc sống. Mặt Trời con cứ trẻ trung, rực rỡ mãi trên thế gian này. Điều đó khẳng định tình cảm của mẹ đối với con rất thắm thiết, sâu nặng.+ Yêu con thắm thiết, người mẹ đã gửi trọn niềm mong mỏi vào giấc mơ của con. Mẹ mong con mình ngủ ngoan và có những giấc mơ đẹp: “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần”, “Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều”, “Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ”. Đó là giấc mơ tình thương, giấc mơ về ấm no hạnh phúc, giấc mơ về thống nhất đất nước.-         Người mẹ Tà-ôi rất thương bộ đội, thương buôn làng+ Ở đoạn 1 tình thương con của người mẹ gắn với tình thương bộ đội: “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”. Mẹ lao động vất vả làm ra hạt gạc không phải chỉ để nuôi một mình con. Tình thương yêu của mẹ đã vượt ra khỏi phạm vi gia đình. Mẹ thương các anh bộ đội vất vả chiến đấu ngày đêm vì buôn làng, vì quê hương đất nước nên mẹ để dành những hạt gạo trắng ngần mẹ nuôi bộ đội. Tấm lòng của người mẹ dành cho bộ đội thật cao quý và đáng trân trọng.+ Ở đoạn 2, tình thương con của mẹ gắn với tình thương buôn làng, quê hương nghèo khó: “Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói”. Vì vậy, mẹ ước mong con chóng khôn lớn để trở thành chàng trai cường tráng, mạnh mẽ trong lao động sản xuất.-         Người mẹ Tà-ôi là người mẹ rất yêu đất nước:Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nướcCon mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ Mai sau con lớn làm người Tự do....Ở đoạn 3, tình thương con của mẹ gắn với tình yêu đất nước đang anh dũng kháng chiến. Bởi vậy, mẹ mong con trở thành người lính chiến đấu vì nền độc lập tự do thiêng liêng, mong ước con được làm người dân của đất nước hoà bình.3.      Kết thúc vấn đề-       Hình ảnh người mẹ Tà-ôi hiện lên trong tác phẩm thật đẹp. Mẹ yêu con bằng tấm lòng tha thiết. Mẹ yêu buôn làng, yêu các anh bộ đội. Cao hơn nữa, mẹ rất yêu đất nước, yêu hoà bình. Mẹ mong nước nhà nhanh chóng thống nhất để con mẹ được làm “người Tự do”.-      Giọng điệu thơ thiết tha, ngọt ngào thể hiện được tình cảm của người mẹ đối với con, với các anh bộ đội, với buôn làng và với quê hương đất nước.

-      Từ hình ảnh, tấm lòng người mẹ Tà-ôi, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thiết tha, ý chí chiến đấu cho độc lập tự do và khát vọng thống nhất nước nhà của nhân dân ta trong thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ.

Xem thêm >>> Nhân vật văn học thường có tình cảnh và số phận

Trên đây là bài viết mà Cunghocvui đã tổng hợp được về nhiều tác phẩm khác nhau như: Lặng lẽ Sapa, Những ngôi sao xa xôi, Bình Ngô Đại cáo, mong rằng bài viết sẽ giúp ích được nhiều cho quá trình học tập của bạn. Chúc bạn học tập tốt <3

Câu hỏi: Nêu hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa và nhận xét về tình huống truyện

Trả lời:

– Hoàn cảnh ra đời: Truyện ngắn Lạng lẽ Sa Pa được viết vào mùa hè năm 1970, là kết quả của chuyến đi lên Lào Cai của tác giả và được in trong tập “Giữa trong xanh” (1972)

– Tình huống truyện: Truyện ngắn lặng lẽ Sa Pa được xây dựng xoay quanh một tình huống truyện đơn giản mà tự nhiên: đó là cuộc gặp gỡ tình cờ của ông họa sĩ, cô kĩ sư với anh thanh niên làm công tác khí tượng khiêm vật lí địa cầu trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m.

– Nhận xét về tình huống:

+ Tình cờ, nhẹ nhàng

+ Hoàn cảnh thuận lợi để tác giả khắc họa chân dung anh thanh niên, nhân vật chính, một cách khách quan, chân thực không chỉ qua hành động, việc làm của anh mà còn qua những cảm xúc, suy nghĩ của các nhân vật khác.

Tìm hiểu thêm một số bài văn phân tích Lặng lẽ Sapa cùng Top Tài Liệu để hiểu hơn về tác phẩm nhé!

Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được Nguyễn Thành Long sáng tác năm 1970. Lúc này miền Bắc đang trong thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa, làm hậu phương lớn cho miền Nam. Trong chuyến đi thực tế dài ngày ở Lào Cai, được trực tiếp hòa mình vào cuộc sống lao động, chiến đấu của con người nơi đây tác giả đã viết lên tác phẩm này. Tác phẩm là lời khẳng định về vẻ đẹp của người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng đối với Tổ quốc.

Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa có cốt truyện hết sức đơn giản, xoay quanh tình huống là cuộc gặp gỡ ngắn ngủi của giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ và anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Qua tình huống ấy vẻ đẹp phẩm chất của các nhân vật dần dần được hé mở.

Mở đầu tác phẩm là khung cảnh Sa Pa vô cùng nên thơ, trữ tình với những rặng đào, những đàn bò lang cổ có đeo chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường, khiến mọi người ngỡ ngàng trước đẹp một cách kì lạ của mảnh đất này. Những hàng thông xanh rì rung tít trong nắng như những ngón tay bằng bạc, cây tử quang, với ánh nắng vàng tươi len tới đốt cháy rừng cây, rồi tinh nghịch xua mây cuộn tròn lại thành từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương. Vẻ đẹp huyền ảo của mây khói hòa trong màu xanh rì của các loài cây đã tạo nên chất thơ, chất trữ tình cho tác phẩm. Đến với căn nhà nhỏ của anh thanh niên, người đọc cũng không khỏi ngỡ ngàng, bất ngờ trước vườn hoa rực rỡ màu sắc: hoa dơn, hoa thược dược,… những con ong cái bướm dập dờn bay lượn. Thiên nhiên nơi đây thật đa dạng, phong phú, nó là sự hòa quyện của vẻ đẹp nên thơ với vẻ hùng vĩ.

Trong bức tranh thiên nhiên ấy, anh thanh niên hiện lên thật đẹp đẽ, mang trong mình những phẩm quý báu, đáng trân trọng. Anh thanh niên làm việc trên đỉnh Yên Sơn quanh năm suốt tháng mây mù bao phủ. Công việc của anh là đo gió, đo mưa, tính mây,.. dự báo thời tiết hàng ngày để phục vụ cho sản xuất và chiến đấu. Công việc của anh tuy thầm lặng, những có ý nghĩa to lớn với sản xuất, chiến đấu.

Anh thanh niên trước hết là người thiết tha yêu cuộc sống. Tình yêu cuộc sống ấy thể hiện qua tình cảm gắn bó, sự quan tâm chân thành của anh với những người xung quanh. Những ngày đầu mới lên công tác, anh nhớ và thèm người nên đã đẩy khúc gỗ chắn ngang đường để xe dừng lại. Hành động ấy của anh cho thấy khao khát được giao tiếp, được sẻ chia, trò chuyện với mọi người. Không chỉ vậy những hành động nhỏ của anh như đưa củ tam thất cho bác lái xe, tặng hoa hay giỏ trứng cho những người lần đầu gặp gỡ lại càng cho thấy rõ trái tim biết yêu thương và sẻ chia với những người xung quanh. Anh thanh niên là người có trái tim nhân hậu, biết yêu thương và sẻ chia với mọi người. Trong hoàn cảnh sống cô đơn, chỉ có một mình làm bạn với cây cỏ nhưng anh luôn bộc lộ tinh thần lạc quan. Anh trồng hoa trước nhà, chăn nuôi để xua đi cuộc sống nhàm chán, buồn tẻ. Anh tổ chức cuộc sống gọn gàng, ngăn nắp khiến cho ông họa sĩ cũng phải ngỡ ngàng, bất ngờ. Không chỉ vậy anh còn làm giàu có vốn tri thức của bản thân bằng việc đọc sách hàng ngày. Dù cuộc sống vật chất còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng anh thanh niên biết cách vượt lên, tìm cách làm phong phú đời sống tinh thần cho bản thân.

Vẻ đẹp phẩm chất của anh thanh niên còn thể hiện ở phương diện anh là người sống có lí tưởng, có niềm say mê và trách nhiệm với công việc. Dù tuổi đời còn trẻ, anh không sợ cái buồn, anh chấp nhận sống và làm việc trên đỉnh núi cao mấy nghìn mét. Hẳn là anh phải có tình yêu công việc tha thiết mới chấp nhận và có thể vượt lên nỗi cô đơn để nhận nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Anh có những quan niệm về công việc và hạnh phúc rất đẹp: ta với công việc là đôi hay niềm hạnh phúc của anh là khi làm việc, dự báo thời tiết chính xác giúp người nông dân sản xuất, giúp không quân bắn rơi máy bay địch. Dù công việc gian nan, có những lần đi ốp vào một giờ sáng, mưa gió cũng không làm anh chùn bước, anh vượt qua cái gió, cái lạnh để hoàn thành công việc của mình. Anh là người có trung thực và ý thức trách nhiệm cao cả với nghề. Tất cả những vẻ đẹp ấy đều bắt nguồn từ lí tưởng sống đẹp của anh: anh muốn góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Anh không thấy cô đơn lẻ loi vì luôn có những người đồng nghiệp đồng hành bên anh như ông kĩ sư vườn rau, cán bộ lập bản đồ sét. Tất cả họ đều kiên trì, bền bỉ và thầm lặng với công việc của mình. Anh thanh niên là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của những người đang thầm lặng góp sức xây dựng cuộc sống mới cho quê hương, đất nước.

Ngoài nhân vật anh thanh niên ta cũng không thể nhắc không đến một ông họa sĩ dày dặn kinh nghiệm sống, có tình yêu tha thiết với công việc. Dù tuổi đã cao nhưng trước khi về hưu ông vẫn muốn đi tìm cảm hứng nghệ thuật cho mình. Ông là người có tâm hồn nhạy cảm để phát hiện ra vẻ đẹp Sa Pa và con người nơi đây. Ông họa sĩ hội tụ đầy đủ vẻ đẹp phẩm chất của người họa sĩ chân chính. Cô kĩ sư trẻ xuất hiện góp phần tô đậm vẻ đẹp của anh thanh niên nhưng cũng là nét vẽ không thể thiếu về vẻ đẹp của con người mới. Cô mang trong mình lí tưởng cao cả, nhiệt huyết tuổi trẻ: bỏ lại mối tình nhạt nhẽo, xa gia đình xung phong công tác ở vùng núi cao. Cô mang trong mình bản lĩnh nghị lực phi thường. Bên cạnh đó cũng cần nhắc đến ông kĩ sư vườn su hào, cán bộ bản đồ sét những con người cống hiến thầm lặng cho đất nước.

Tác phẩm được trần thuật ngôi thứ ba, các nhân vật được nhìn nhận một cách khách quan, chân thực. Truyện có sự kết hợp giữa tự sự, miêu tả và bình luận, làm cho tác phẩm sâu sắc hơn. Ngoài ra tác phẩm thẫm đẫm chất trữ tình, với ngôn ngữ nhẹ nhàng, giản dị, chân thực, giàu chất suy tư.

Lặng lẽ Sa Pa là thiên truyện ngắn giàu chất trữ tình, bàng bạc chất thơ. Tác phẩm đã xây dựng thành công vẻ đẹp của thế hệ trẻ giai đoạn đất nước xây dựng cuộc sống mới mà tiêu biểu là anh thanh niên. Qua đó tác phẩm khẳng định vẻ đẹp của người lao động và ý nghĩa của những hi sinh, cống hiến thầm lặng.

Ba nhân vật trong Lặng lẽ Sa Pa gặp nhau trong hoàn cảnh nào

Trong cuộc sống lao động mới, con người là nòng cốt cơ bản để có sự tạo dựng vững chắc. Những phẩm chất tốt đẹp sẽ khẳng định vai trò làm chủ cuộc sống mới. Nhân vật anh thanh niên trong thiên truyện Lặng lẽ Sa Pa là một người như thế.

Để nhân vật anh thanh niên hiện rõ những đức tính đáng quý, Nguyễn Thành Long đã để ông họa sĩ làm việc đó qua điểm nhìn của mình. Nội dung truyện đơn giản, không có tình huống thắt nút, gay cấn cho nên câu chuyện giàu chất trữ tình hơn là tự sự. Sự xuất hiện của anh thanh niên, tuy là nhân vật chính với nhiều biểu hiện tốt đẹp nhưng đến rất bất ngờ, gián tiếp qua lời kể của bác lái xe.

Và cũng như khi đến, anh lại lặng lẽ khuất lấp vào mây mù trong cái tĩnh lặng muôn thuở của Sa Pa. Hình ảnh anh thanh niên với nhiều phẩm chất như khiêm tốn, yêu lao động, tận tâm với công việc… tất cả thể hiện trên một bức họa lớn nhưng đến ông họa sĩ cũng phải thốt lên: ông biết rõ sự bất lực của nghệ thuật. Con người bé nhỏ nhưng những nét đáng quý khiến anh trở nên lớn lao đến như thế.

Trong lao động, anh thanh niên hiện ra là một con người yêu lịch sử và sẵn sàng cống hiến vì lao động. Quan niệm rất mới lạ khi anh nhận xét về công việc được coi là cô độc nhất thế gian này: khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Từ quan niệm ấy, anh vượt lên chính bản thân mình để đi tìm niềm hạnh phúc trong lao động. Có lẽ chỉ có quan niệm như thế mới khiến anh thấy mình không cô đơn, không lẻ loi một mình.

Từ tâm sự của anh thanh niên, ngay ông họa sĩ và cả người đọc đều sửng sốt trước thái độ trân trọng, gắn bó với lao động như đã ngấm sâu vào máu của con người trẻ tuổi này: công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn chết mất. Tự xác định với bản thân về vai trò quan trọng không thể thiếu của lao động đối với mọi người nói chung và đặc biệt đối với chính bản thân anh.

Một suy nghĩ mới và độc đáo khi anh lấy gian khổ nhiều hay ít để xem ai một mình hơn, cô đơn hơn anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu. Phải chăng chính những suy nghĩ và tâm sự vượt hơn cả tuổi tác như anh thanh niên đã giúp anh hạnh phúc hơn khi ý thức được mối liên quan giữa bản thân với tập thể trong sự đóng góp cho đất nước: cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa… phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.

Trong công việc anh thấy được vai trò của mình và hơn cả biết được mình vì ai mà lao động. Những suy nghĩ ấy khiến cho con người nhỏ bé này cảm nhận được niềm hạnh phúc trong lao động nhiều hơn nữa. Thấy được vai trò của lao động đối với bản thân nên anh đã có những thái độ tự giác và nghiêm túc đối với lao động. Công việc của anh thanh niên rất đặc biệt với sự cô lập tuyệt đối.

Tuổi trẻ, sức xuân của anh bị đánh đổi bởi công việc tẻ nhạt cắt vụn ngày đêm: công việc của cháu cũng quanh quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn này thôi. Cháu lấy những con số báo về nhà bằng máy bộ đàm: bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối và một giờ sáng. Bất chấp tất cả công việc vẫn được hoàn thành một cách xuất sắc.

Không phải là người có lòng kiên nhẫn, tự giác cao thì anh không thể làm đi làm lại công việc buồn chán này đặc biệt giờ ốp lúc một giờ sáng: gió tuyết và lặng im… chỉ trực đợi mình ra là ào ào xô tới. Ngay cả thời tiết khắc nghiệt cũng không khuất phục được con người yêu lao động và sống rất có trách nhiệm đối với lao động.

Chẳng ai kiểm tra thường xuyên nhưng không vì thế mà anh lơ là, làm việc cho xong, cho nhanh. Công việc luôn được hoàn thành chính xác, tỉ mỉ, cẩn thận với tinh thần trách nhiệm nghiêm túc tự giác cao. Anh thanh niên không chỉ đẹp trong lao dộng mà anh còn đẹp trong lối sống.

Anh thanh niên còn là một con người sống cởi mở, chân thành và hiếu khách. Ngay từ cách anh muốn tìm người trò chuyện, đẩy khúc thân cây chắn ngang đường để xe đi qua có dịp nghỉ chân, anh chạy xuống trò chuyện cho đỡ thèm người đã thấy trong đó một trái tim rộng mở muốn quen và muốn thân. Khi được bác lái xe giới thiệu những vị khách sẽ lên thăm nhà anh thì anh mừng ra mặt và chân thành, có thiện ý mời họ lên nhà anh trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét.

Ông họa sĩ, cô kĩ sư chỉ là những người xa lạ chưa một lần gặp mặt và cũng có thể đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng họ gặp nhau nhưng anh vẫn rất nhiệt tình trao bó hoa đã cắt cho người con gái rồi mời hai người uống thứ trà pha nước mưa, thơm như nước hoa của Yên Sơn nhà anh.

Anh thân thiện vô cùng, đãi khách bằng những thứ bình dân nhưng rất quý đối với bản thân anh cũng như với hai vị khách đặc biệt từ dưới xuôi lên. Giữa họ giờ như không còn khoảng cách bởi chính tình người, sự tự nhiên của anh thanh niên đã xóa đi sự xa lạ. Anh nói: cái này để ăn trưa cho bác, cho cô, và bác lái xe – một giỏ trứng thể hiện tình cảm rất chân thành.

Anh sống một mình không những không đòi hỏi sự quan, tâm của người khác mà chính bản thân anh lại rất quan tâm chu đáo với những người sống xung quanh.

Củ tam thất cháu vừa đào thấy, cháu gửi bác gái ngâm rượu uống, Hôm nọ bác chẳng bảo bác gái vừa ốm dậy là gì? Anh quan tâm đến cả người anh chưa một lần gặp mặt, người có lẽ chỉ qua lời kể của bác lái xe. Một con người biết cách sống tốt với mọi người chỉ đơn giản là qua sự quan tâm rất chân thành. Ngay trong cuộc trò chuyện với ông họa sĩ việc anh thanh niên nhắc đi nhắc lại những cái máy vườn trạm khí tượng nào cũng có thể hiện sự khiêm tốn trong lối nói và lối nghĩ.

Không khoe mẽ, tự cao, anh coi mình cũng chỉ là con người thật bình thường và giản đơn như bao người khác. Thế cho nên việc ông họa sĩ tay hí hoáy vào cuốn sổ tì trên đầu gối khiến anh phải ngăn lại bởi anh thấy bản thân chưa xứng đáng với niềm vinh dự mà với anh thật lớn lao như thế. Không những không để ông họa sĩ vẽ mình, anh còn giới thiệu cho ông: ông kĩ sư vườn rau và đồng chí nghiên cứu khoa học – họ cũng cống hiến quên mình cho Tổ Quốc, cho xã hội, cho cuộc sóng mới.

Anh có suy nghĩ thật đúng đắn khi thấy cuộc đời đẹp quá bởi có những người đang ngày đêm hết lòng hết sức lao động bằng trách nhiệm và tinh thần cao. Một điều khiến ông họa sĩ và ngay chính người đọc cũng ngỡ ngàng vì sự sắp xếp cuộc sống hết sức khoa học và ngăn nắp của anh thanh niên. Hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong… – đó là vườn của do bàn tay của chàng trai trẻ tuổi này tạo dựng nên.

Cuộc sống một mình mà muôn màu muôn vẻ rực rỡ sắc hoa. Phải là con người có nghị lực sống phi thường thì mới có thể có đời sống tinh thần phong phú đến như thế. Và ngay cả khi công việc trên trạm khí tượng này của anh đã có thể coi là yên ổn thì ngày ngày anh vẫn nhờ bác lái xe mua sách dưới xuôi gửi lên, anh vẫn không ngừng trau dồi thêm vốn kiến thức để rồi anh lại có thể tìm ra một cái gì đó mà cống hiến hơn nữa cho một đất nước thời kì đổi mới này.

Những con người như anh thanh niên đang ngày ngày làm giàu có thêm cho đất nước Việt Nam. Anh là lớp người trẻ tuổi tiếp bước lòng nhiệt huyết lao động của lớp người đi trước như bác lái xe, ông họa sĩ… Anh thanh niên và chính vẻ đẹp tâm hồn của anh đã tác động mạnh mẽ tới ông họa sĩ và đặc biệt cô kĩ sư dưới xuôi lên Sa Pa nhận công tác.

Và không chỉ các nhân vật trong truyện ngắn này mà ngay chính người đọc chúng ta cũng cần suy nghĩ nhiều hơn nữa về công việc lao động hiện tại của bản thân và sẽ cần phải cố gắng nhiều hơn nữa theo hướng tích cực để xã hội sẽ tốt đẹp hơn, phát triển hơn bởi có những con người với nhiều phẩm chất cao quý như anh thanh niên.

Thiên truyện Lặng lẽ Sa Pa gấp lại để lại vấn vương cho mỗi người đọc. Đặc biệt nhân vật anh thanh niên đã có sức hấp dẫn, lay động tâm hồn mỗi người. Ngợi ca con người anh chính là cách chúng ta ngợi ca lao động và không quên đánh giá lại bản thân.

Trong văn học Việt Nam, hiện đại có những cây bút văn xuôi chỉ chuyên về truyện ngắn và kí. Nguyễn Thành Long (1925- 1991) là một trong số đó. Bắt đầu viết văn trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở liên khu V, Nguyễn Thành Long được khẳng định như một cây bút truyện ngắn và kí đáng chú ý trong những năm 60-70 với cả gần chục tập sách đã in. Ông là một cây bút cần mẫn và nghiêm túc trong lao động nghệ thuật, lại rất chú trọng thâm nhập thực tế đời sống. Nhiều sáng tác của Nguyễn Thành Long là kết quả trực tiếp của những chuyến “thâm nhập thực tế” như thế, nhưng truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa lại là một trường hợp đặc biệt.

Mùa hè năm 1970 theo lời kể tác giả, ông cùng một người bạn văn quyết định đi nghỉ ở Sa Pa. Vì thế mà nhà văn không vào các cơ quan, đơn vị của địa phương để tìm hiểu thực tế hay tìm gặp những “điển hình tiên tiến” như những lần đi thực tế của các văn nghệ sĩ. Nhưng điều may mắn lại chính là do chỗ không lăm le tìm hiểu thực tế theo lối khá công thức lúc bấy giờ của giới văn nghệ sĩ mà Nguyễn Thành Long đã bắt gặp câu chuyện về người thanh niên công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn một mình giữa lặng lẽ của Sa Pa. Bằng sự nhạy cảm nghề nghiệp, nhà văn đã nắm lấy chất liệu thực tế ấy, bồi đắp thêm bằng sức tưởng tượng sáng tạo và truyền vào đấy những suy ngẫm, quan niệm về đời sống, về nghệ thuật của một cây bút từng trải làm nên một truyện ngắn hay.

Thành công của Nguyễn Thành Long trong truyện ngắn này, có lẽ trước hết là đã tạo dựng một chất thơ trong sáng, làm nên không khí và sắc điệu riêng của tác phẩm được toát lên từ sự hài hòa giữa phong cảnh thiên nhiên đẹp lộng lẫy và mơ màng của Sa Pa với vẻ đẹp trong những suy nghĩ, cảm xúc và công việc của các nhân vật cùng mối quan hệ của họ. Lặng lẽ Sa Pa có một cốt truyện đơn giản, xoay quanh tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư vừa mới ra trường với anh thanh niên một mình sống và làm việc ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Cuộc gặp gỡ chỉ trong chốc lát nhưng đã đủ để nhân vật chính xuất hiện gây được ấn tượng và gợi ra những suy nghĩ, cảm xúc với nhiều âm vang ở những nhân vật khác trong truyện. Sáng tạo được tình huống ấy và lựa chọn được nhiều điểm nhìn trần thuật từ cái nhìn và tâm trạng người họa sĩ già – Một nghệ sĩ nhiều từng trải và chiêm nghiệm về cuộc đời và nghệ thuật, thì có thể nói tác giả đã nắm chắc được sự thành công của đứa con tinh thần của mình.

Truyện có 4 nhân vật: Bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư và anh thanh niên. Họ thuộc hai thế hệ già và trẻ, nghề nghiệp khác nhau nhưng ở họ có rất nhiều điểm rất gần gũi mà trước hết là những nét đẹp trong suy nghĩ, trong thái độ đối với cuộc sống với công việc và với những người khác. Những nhân vật ấy (và cả những nhân vật chỉ được nói đến trong lời kể của người thanh niên) đều không được tác giả đặt tên. Điều này hẳn không phải là không có dụng ý của tác giả: Nhà văn muốn thể hiện họ là những con người bình thường, bình dị trong cuộc gặp gỡ bất ngờ trên hành trình của một chuyến xe khách, như là chúng ta có thể gặp những con người như thế ở nhiều nơi trên đất nước. Những nhân vật trong truyện ít nhiều đều có màu sắc lý tưởng, nhưng họ cũng những hình ảnh những con người mang vẻ đẹp của một thời kì lịch sử.

Nhân vật chính của truyện – anh thanh niên chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng vẫn là điểm sáng chói nổi bật nhất của bức tranh mà tác giả tập trung thể hiện. Để chuẩn bị cho sự xuất hiện của anh, tác giả đã qua lời bác lái xe để giới thiệu về anh: Hai mươi bảy tuổi, người cô độc nhất thế gian, một mình trên trạm khí tượng ở đỉnh cao hai ngàn sáu trăm mét, rất “thèm người” … Cách giới thiệu ấy đã gây hứng thú và chuẩn bị tâm thế cho nhân vật ông họa sĩ trước cuộc gặp gỡ. Khi xe dừng, người thanh niên xuất hiện với dáng vẻ nhanh nhẹn tự nhiên và vóc dáng hơi nhỏ bé dường như không có gì đặc biệt. Sức thu hút của anh chính là ở thái độ và những suy nghĩ về cuộc sống và công việc của một người một mình lặng lẽ của thiên nhiên. Cái mà tác giả muốn làm nổi bật ở những nhân vật này không phải là những công việc khó khăn đòi hỏi phải có tinh thần trách nhiệm cao, mà là một hoàn cảnh sống và làm việc thật đặc biệt: một mình trên đỉnh núi cao Yên Sơn quanh năm suốt tháng giữa cái lặng lẽ mênh mông của cỏ cây mây núi. Cái khó khăn, thách thức lớn nhất với anh chính là sự cô độc. Cái gì giúp anh vượt qua được hoàn cảnh ấy?

Trước hết đó là ý thức trách nhiệm và tình yêu với công việc. Công việc hằng ngày của anh “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Anh hiểu rõ công việc thầm lặng của mình là cần thiết và có ích cho mọi người, nó gắn liền anh với mọi người và cuộc sống chung của đất nước. Anh yêu công việc của mình: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ nếu cháu cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”.

Nét đẹp ở nhân vật này không chỉ là ở cách sống có lí tưởng mà còn ở những suy nghĩ sâu sắc về công việc và cuộc sống. Chẳng hạn, về sự cô độc, anh đã nghĩ thế nào?

“Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kỹ mới thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa. Vả khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi, việc của cháu gắn liền với việc của bao an hem, đồng chí dưới kia”. Còn đây là về nỗi “thèm người” – như cách nói của bác lái xe, anh nghĩ “Con người thì ai mà chả “thèm” hả bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?” Những nỗi “nhớ người” với anh, quyết không thể là nỗi nhớ “phồn hoa đô thị”.

Trong cuộc sống lẻ loi của mình, anh còn tìm thấy một nguồn vui, đó là sách, mà anh thấy lúc nào đọc cũng như có người bạn để trò chuyện.

Chính vì tất cả những điều trên mà cuộc sống của người thanh niên ấy giữa núi cao mây mù không buồn tẻ. Anh tổ chức cuộc sống một mình ở trạm khí tượng thật ngăn nắp và chủ động: trồng hoa, trồng rau, nuôi gà, đọc sách ngoài những giờ làm việc có mối giao lưu thân thiết với bác lái xe, những cuộc gặp gỡ với mọi người. Ở người thanh niên ấy còn có một nét rất đáng mến nữa là sự cởi mở, chân thành với mọi người, khao khát được gặp gỡ, trò chuyện với người khác. Tình thân của anh với bác lái xe, thái độ ân cần, nhiệt thành, sự săn sóc chu đáo của anh với ông họa sĩ và cô gái mới lần đầu gặp gỡ đã nói lên nét đáng mến ấy ở anh.

Trong truyện, ngoài nhân vật người thanh niên, các nhân vật phụ (bác lái xe, ông họa sĩ già, cô kĩ sư mới ra trường …) không chỉ tham gia vào câu chuyện, làm rõ nét hơn cho nhân vật chính, mà còn làm phong phú và sâu hơn cho chủ đề truyện. Trong số đó, đáng chú ý nhất là nhân vật ông họa sĩ già. Tác giả đã hầu như “nhập” vào cái nhìn và tâm trạng của nhân vật này để trần thuật, bao gồm cả quan sát, miêu tả và suy ngẫm, bình luận. Qua cái nhìn của ông họa sĩ, chân dung nhân vật chính được hiện ra rõ nét hơn, đẹp hơn và khơi gợi những suy ngẫm về cuộc đời con người và nghệ thuật.

Ngay những phút đầu gặp gỡ với người thanh niên, bằng sự từng trải của một người nghệ sĩ, ông xúc động đến bối rối vì đã “bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác”. Và với ông “người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá: với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh và những điều anh suy nghĩ. Và đúng như người họa sĩ đã nghĩ: “Những điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác”. Ví như, từ câu chuyện với người thanh niên, ông họa sĩ đã suy nghĩ về nghệ thuật với cả sức mạnh và sự bất lực của nó so với cuộc đời, về con người và mảnh đất Sa Pa.

Còn với cô kĩ sư trẻ mới ra trường thì cuộc gặp gỡ với anh thanh niên cùng với những điều anh kể đã khiến cô bàng hoàng, “cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới của những con người như anh”. Quan trọng hơn nữa, cô hiểu và tin hơn vào con đường mà cô đã lựa chọn.

Như vậy qua cảm xúc và suy nghĩ của các nhân vật khác, hình ảnh người thanh niên như được soi rọi dưới một ánh sáng trong trẻo và rực rỡ khiến nó đẹp hơn, ánh lên nhiều màu sắc hơn. Đó là cái thủ pháp mà người xưa gọi là “vẽ mây để nảy trăng”.

Lặng lẽ Sa Pa chưa phải là một truyện ngắn xuất sắc. Có thể ra những chi tiết chưa thật đắt, những chỗ tác giả đã nói thay nhân vật, phát biểu quá lộ liễu về chủ đề của tác phẩm. Nhưng dù sao truyện ngắn này cũng là một thành công đáng ghi nhận của cây bút truyện ngắn Nguyễn Thành Long. Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật trong sáng đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy cũng gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống, của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật.