Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phân môn lịch sử ở tiểu học

Tải miễn phí bài Tiểu luận: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4, các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí, đây là đề tài tiểu luận môn Sáng kiến kinh nghiệm được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học và tiểu luận về môn Lịch sử lớp 4 trên chuyên mục tiểu luận Sáng kiến kinh nghiệm.

Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Sáng kiến kinh nghiệm nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: //zalo.me/0932091562

II. Phần nội dung: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4

II.1. Cơ sở lí luận

Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học đã được thực hiện ở tất cả các trường tiểu học trong cả nước. Đây là con đường giúp HS tiếp cận với tri thức mới, nhằm thay đổi cách dạy học truyền thống “thầy giảng trò nghe, thầy đọc trò chép”. Theo quan điểm dạy học mới, dạy học là quá trình HS tự khám phá, tự tìm ra chân lí. Phương pháp dạy môn Lịch sử cũng không nằm ngoài định hướng đó. Đặc trưng nổi bật của nhận thức Lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Lịch sử là những việc đã diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, nó tồn tại khách quan không thể phán đoán, suy luận. Vì vậy nhiệm vụ tất yếu của dạy Lịch sử là phải tái hiện lại bức tranh Lịch sử, cho HS tiếp cận những thông tin từ sử liệu, tiếp xúc những chứng cứ, những dấu vết của quá khứ. Tạo ra ở HS những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các nhân vật, sự kiện Lịch sử. Đây là môn học không chỉ có tác dụng quan trọng trong việc phát triển trí tuệ mà còn giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho thế hệ trẻ. Nghị quyết Hội nghị TƯ 5 (khóa VIII) chỉ rõ: “Để nền giáo dục phát triển bền vững, xây dựng lớp thế hệ  trẻ có đủ đức, tài thì bên cạnh các môn khoa học tự nhiên, cần coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý và văn hóa Việt Nam”. Nhưng trong thực tế, một bộ phận GV và cả học sinh vẫn còn những nhận thức chưa đúng về môn Lịch sử, xem nhẹ vai trò của Lịch sử, thờ ơ với môn học này dẫn đến chất lượng dạy và học không cao. Như vậy muốn đào tạo con người phát triển toàn diện thì vấn đề cấp thiết là thay đổi cách dạy, cách học môn Lịch sử.

II. 2. Thực trạng biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4

          Thuận lợi  

          Được sự quan tâm của các cấp và nhà trường, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho GV và HS về cơ sở vật chất. Đồ dùng dạy học được trang bị tương đối đầy đủ. Bên cạnh đó sự giúp đỡ của đồng nghiệp nhất là những GV trong tổ 4 đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.

          Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin như hiện nay GV có điều kiện để tham khảo các tài liệu, sử liệu trên internet, sách báo có liên quan, tự học để nâng cao tay nghề và góp phần làm cho bài giảng thêm phong phú, sinh động hơn .

Chương trình Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới Việt Nam gọi tắt là VNEN được phân chia theo từng giai đoạn lịch sử. Các đề mục trong sách giáo khoa đã được các nhà biên soạn sắp xếp thành một hệ thống và rất khoa học, kênh hình, kênh chữ rõ ràng, màu sắc đẹp. Phần nội dung cần thiết dễ nhớ, dễ thuộc.

Giáo viên được thực hiện mô hình dạy học mới VNEN nên đã quen dần với việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học của học sinh.

Học sinh lớp 4 đã có ý thức hơn trong học tập, ham học hỏi, thích tìm tòi, khám phá về  Lịch sử.

Khó khăn

Về nội dung chương trình Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới VNEN cũng giống như chương trình trước đây nhưng cách chia nội dung bài theo sách VNEN thì mỗi bài học là được tích hợp nhiều nội dung, gồm một chuỗi sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch sử nhất định. Thời lượng dành cho mỗi bài học thường là 2 đến 3 tiết. Nội dung bài khá dài và dàn trải.

Thiết bị dạy học phục vụ cho việc dạy học môn Lịch sử còn nhiều hạn chế, thiếu tranh ảnh, mô hình, sa bàn,…

Một số giáo viên và cả học sinh còn quan niệm Lịch sử không phải là môn học chính mà chỉ chú trọng vào hai môn Toán và Tiếng Việt. Chính vì vậy nên không đầu tư vào chất lương dạy và học cho môn Lịch sử. Dẫn đến tình  trạng GV cắt xén thời gian, nội dung chương trình còn HS học Lịch sử chỉ để đối phó. Ở lớp 4, môn Lịch sử là môn học hoàn toàn mới mẻ đối với chính các em, việc dạy môn Lịch sử không hấp dẫn cho học sinh khiến các em chỉ học thuộc lòng, học vẹt để trả bài, chứ đầu thì trống rỗng.

          Phần lớn học sinh của lớp tôi là dân tộc thiểu số (9 em chiếm 45%) nên sự hiểu biết của các em về lịch sử còn nhiều hạn chế. Khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, tưởng tượng, khái quát hóa còn yếu, khả năng ghi nhớ của các em còn chậm mà các nhân vật, mốc lịch sử, sự kiện lịch sử lại nhiều nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy móc (nhanh nhớ nhưng lại mau quên). Kĩ năng đọc, kể, tường thuật của các em chưa lưu loát, do đó ảnh hưởng đến thời gian và tiến trình chung của môn học. Tinh thần hợp tác học chưa cao, nhiều em chưa tự tin khi hợp tác trong nhóm, một số em còn học thụ động.

          * Thành công

Sau khi đã vận dụng những kinh nghiệm đã tích lũy được, tôi nhận thấy:

Cả GV và HS đã thay đổi cách nghĩ về môn Lịch sử từ đó cũng thay đổi cách dạy, cách học theo hướng tích cực. Giờ học Lịch sử không còn nhàm chán, nặng nề, khô khan như trước, học sinh ham thích học vì giáo viên biết cách tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp. Môn học này không còn là môn học “khó nuốt” nữa.

GV đã biết vận dụng các phương pháp dạy học linh hoạt, phù hợp với từng loại bài. Biết cách sử dụng các đồ dùng dạy học môn Lịch sử nhuần nhuyễn, biết cách khai thác đồ dùng dạy học một cách hiệu quả.

Giáo viên không nhất thiết phải rập khuôn và gói gọn kiến thức trong sách giáo khoa mà giáo viên phải biết chủ động gợi mở, hướng dẫn cho học sinh nắm bắt được những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa và mở rộng những kiến thức mới.

* Hạn chế:

Một số giáo viên áp dụng các biện pháp này vào dạy Lịch sử còn khá máy móc, chủ yếu chỉ hướng học sinh đến việc hoàn thành mục tiêu bài học, môn học chứ chưa chú ý đến việc học sinh có hứng thú học tập và hình thành cho HS những kĩ năng khi học Lịch sử.

* Mặt mạnh

Khi vận dụng đề tài này vào thực tế, tôi thấy HS biết cách làm việc khai thác tư liệu lịch sử, bước đầu các em đã có một số kĩ năng như quan sát và phân tích tranh ảnh lịch sử; kĩ năng đọc, phân tích bản đồ, sơ đồ, lược đồ; kĩ năng so sánh, đánh giá, giải thích; kĩ năng sắp xếp hệ thống hóa các sự kiện, hiện tượng lịch sử …Từ đó giúp các em mạnh dạn nêu thắc mắc, đặt câu hỏi và cùng tìm câu trả lời, trình bày kết quả học tập bằng cách diễn đạt của chính mình. Học sinh ham thích học môn Lịch sử hơn, thích tìm tòi, khám phá về Lịch sử. Môn học này đã hình thành ở các em lòng yêu mến, tự hào về lịch sử dân tộc, khơi gợi ở các em tính tò mò thích tìm hiểu về quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, quá trình lao động sáng tạo của cha ông trong suốt chiều dài lịch sử từ buổi đầu dựng nước (khoảng năm 700 TCN) đến năm 1858. Từ đó các em thấy được trách nhiệm của người học sinh đối với quê hương, đất nước thân yêu.(Tiểu luận: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4)

* Mặt yếu

Để giờ học Lịch sử không khô khan, nhàm chán thì cả thầy và trò đều phải nỗ lực, hợp tác với nhau một cách hiệu quả. Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài, nghiên cứu kĩ nội dung khi lên lớp, chuẩn bị đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết dạy. Chính vì vậy mà làm mất nhiều thời gian, công sức do đó một số giáo viên ngại dạy môn Lịch sử.

  1. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động

* Nguyên nhân dẫn đến thành công của đề tài:

            Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp quản lí giáo dục, sự giúp đỡ nhiệt tình của chị em trong tổ 4. Là một giáo viên khi được phân công dạy một lớp có nhiều HS dân tộc thiểu số, chất lượng đầu vào thấp nên tôi luôn trăn trở, tìm tòi biện pháp dạy học để mang lại hiệu quả. Bên cạnh đó tôi nhận được sự đồng lòng hưởng ứng cách dạy học mới từ phía phụ huynh, sự phối hợp giáo dục của 3 lực lượng nhà trường-gia đình-xã hội giúp cho việc dạy học mang lại kết quả khả quan hơn.

* Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém:

            Năm học 2013 – 2014 là năm đầu tiên chúng tôi sử dụng Sách Hướng dẫn học môn Lịch sử, đây là sách thử nghiệm nên vẫn còn một số bất cập, các bài học nội dung không tách bạch rõ ràng theo từng tiết như sách giáo khoa của chương trình hiện hành mà được tích hợp nhiều nội dung và mỗi bài thường học từ 2 đến 3 tiết do vậy nội dung bài khá dài và dàn trải. Một số GV chưa thật sự coi trọng môn học này vì cho rằng đây là môn phụ, vẫn còn cứng nhắc, chưa mạnh dạn sáng tạo trong việc dạy học nên nhiều khi áp dụng máy móc, rập khuôn theo sách. Đồng thời khi tổ chức dạy học giáo viên ngại phải chuẩn bị nhiều thứ như bảng phụ, phiếu học tập, tranh ảnh, bản đồ,… gây tốn kém thời gian, kinh phí. Đồ dùng như tranh ảnh, bản đồ, hay các giáo cụ phục vụ cho việc dạy học còn ít, giáo viên phải tự làm đồ dùng dạy học nhưng số lượng cũng như chất lượng đồ dùng tự làm còn hạn chế. Thiết bị dạy học còn chưa phong phú. Tài liệu về bồi dưỡng nghiệp vụ, rèn kĩ năng dạy học môn Lịch sử vẫn chưa đồng bộ, nội dung còn chung chung.

  1. e) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra

Trong những năm gần đây, tình hình học sinh tiếp thu, ghi nhận những kiến thức lịch sử của dân tộc, của đất nước quá hạn chế. Qua các thông tin đại chúng đưa tin, đặc biệt là kết quả các lần thi của học sinh trung học phổ thông quá thấp làm cho dư luận không khỏi băn khoăn suy nghĩ và đặt câu hỏi tại sao kiến thức về môn lịch sử của các em lại kém như vậy. Đây cũng chính là nỗi đau của người thầy, người cô. Phải chăng lịch sử bây giờ dài hơn ngày xưa  nên học sinh không tiếp thu được. Kết quả học môn lịch sử ở đơn vị tôi đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn một số em nắm bắt, ghi nhớ kiến thức lịch sử còn thụ động, nhanh quên, các em chưa biết cách quan sát sơ đồ, lược đồ, mô phỏng, tường thuật lại các sự kiện, thời gian lịch sử. Năm học 2013 – 2014 là năm học tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4D, chất lượng đầu vào của HS thấp và đa số các em là người dân tộc, bố mẹ thường đi làm ăn xa không quan tâm nhiều đến việc học hành của con cái, nhiều em gia đình rất khó khăn. Chính vì vậy mà tôi luôn trăn trở để tìm biện pháp giúp HS yêu thích học Lịch sử hơn, chất lượng môn học này khả quan hơn.

Năm học này cũng là năm thứ hai trường tiểu học Lý Tự Trọng thực hiện mô hình dạy học kiểu mới gọi tắt là VNEN. Với mô hình dạy học này cả giáo viên và học sinh phải chuyển đổi từ lối truyền thụ một chiều của giáo viên (thầy giảng trò nghe, thầy đọc trò chép) sang dạy học hợp tác theo nhóm (học sinh chủ động học tập, tự khám phá chiếm lĩnh kiến thức, GV là người hướng dẫn, gợi mở để HS nắm được kiến thức). Việc học theo nhóm này hình thành cho các em các kĩ năng như kĩ năng hợp tác trong nhóm, trong lớp; kĩ năng giao tiếp, tương tác giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn.(Tiểu luận: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4)

Sách Hướng dẫn học môn Lịch sử Địa lí vừa là sách dùng cho học sinh vừa là sách dùng cho giáo viên, đồng thời cũng là sách bài tập. Sự kết hợp ba trong một này vừa tiện lợi nhưng cũng gây khó khăn cho giáo viên vì không có sách thiết kế bài giảng hay sách giáo viên để làm cơ sở cho việc dạy học.

Học sinh chỉ được sử dụng sách Hướng dẫn học trên lớp mà không được mang về nhà nên khó khăn trong việc ôn lại bài cũ và chuẩn bị nội dung cho bài mới. Phụ huynh cũng gặp khó khăn trong việc hướng dẫn con em học tập ở nhà. Muốn có sách để học ở nhà phụ huynh phải phô tô sách cho con em mình học vừa tốn kém mà chất lượng của sách phô tô thì không cao.

Học sinh phải đọc hiểu tốt mới tự học theo các câu lệnh trong sách nhưng trong thực tế một số em đọc hiểu còn chậm vì vậy ảnh hưởng đến tiến độ bài học. Mặt khác các kĩ năng như giao tiếp, hợp tác, lãnh đạo, giải quyết vấn đề của một số em còn rất hạn chế nhất là các em người dân tộc thiểu số các em rất rụt rè trong giao tiếp. Vả lại môn học Lịch sử chỉ được học 1 tiết/tuần mà đối với học sinh tiểu học các em nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên cho nên nhiều nội dung các em không nhớ hết được dẫn đến việc hổng kiến thức.h phải i giáo viên lo ngại việc dạy học theo n

II.3. Giải pháp, biện pháp

  1. a) Mục tiêu của giải pháp, biện pháp

 Để nâng cao hiệu quả dạy và học môn Lịch sử lớp 4, tôi đã tiến hành một số biện pháp nhằm thay đổi cách dạy, cách học Lịch sử, hình thành cho HS một số kĩ năng khi học Lịch sử. Đồng thời giúp giáo viên giảng dạy môn học này một cách hiệu quả hơn.

  1. b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

b.1. Thay đổi nhận thức của người dạy, người học

* Đối với giáo viên

Tôi luôn xác định rằng muốn các em học tốt môn Lịch sử thì giáo viên phải là người yêu thích Lịch sử, phải tự trang bị cho mình kho tàng kiến thức về lịch sử. Việc bồi đắp kho tàng này không bao giờ là đủ mà phải được thực hiện liên tục, thường xuyên suốt cuộc đời. Bởi vậy tôi luôn tìm đọc những cuốn sách về lịch sử, những câu chuyện, bộ phim lịch sử, xem các tài liệu trên mạng internet để hiểu hơn về lịch sử dân tộc cũng như thế giới. Giáo viên có yêu lịch sử thì mới có thể truyền được tình yêu đó đến học sinh của mình bởi vì ở cấp tiểu học các em xem giáo viên như thần tượng, như một chuẩn mực để các em hướng đến, các em bắt chước, làm theo như giáo viên. Mặc dù trường tôi đang thực hiện mô hình dạy học mới VNEN trong đó học sinh chủ động học tập tuy nhiên giáo viên vẫn đóng vai trò quan trọng. Lời giảng của giáo viên rõ ràng, truyền cảm sẽ gây được sự chú ý của học sinh.

          Bản thân tôi luôn nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, tài liệu, nắm vững các kiến thức cơ bản cần truyền đạt, đảm bảo hệ thống kiến thức chính xác, có hệ thống để từ đó có phương pháp giảng dạy  thích hợp.(Tiểu luận: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4)

          GV phải hiểu và tái hiện được bức tranh lịch sử một cách sinh động, chân thực bởi dạy lịch sử phải đảm bảo tính chính xác, nói đúng sự thật, điều đó có tác dụng giáo dục niềm tin và gây hứng thú học tập, từ đó sẽ phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Vì vậy tôi không ngừng nghiên cứu, sưu tầm tài liệu để phục vụ cho việc giảng dạy, khi dạy phải có dẫn chứng minh họa cụ thể vì “Nói có sách, mách có chứng” thì mới thể hiện tính chân thực của lịch sử và như thế mới thuyết phục được học sinh.

Chẳng hạn khi dạy bài “ Nước Đại Việt thời Lý” (Lịch sử lớp 4, tập 1, trang 45), người giáo viên phải giúp học sinh hiểu được hoàn cảnh lịch sử của sự kiện Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập ra triều đại nhà Lý. Cụ thể là khi dạy đến bài này giáo viên cần phải nghiên cứu để dẫn dắt HS đi từ các vấn đề lịch sử: Năm 1005 vua Lê Đại Hành mất, Lê Long Đĩnh lên ngôi. Nhà vua tính tình bạo ngược nên lòng dân oán hận. Không lâu sau Lê Long Đĩnh mất. Trước tình hình đó triều đình cử một vị quan là Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Ông là người thông minh, văn võ song toàn, đức độ cảm hóa được lòng người.

          Qua những bài học Lịch sử, tôi luôn khơi dậy những tình cảm của học sinh  đối với nhân vật, sự kiện lịch sử. Qua đó, giáo dục tinh thần đoàn kết, truyền thống uống nước  nhớ nguồn. Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn dựa vào trình độ của học sinh lớp mình để lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp nhất đồng thời tôi sử dụng linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học đàm thoại, vấn đáp hay thảo luận nhóm, trao đổi, theo hình thức  cá nhân, nhóm 2 hay nhóm 4….để giải quyết những vấn đề được đặt ra. Việc linh hoạt tổ chức đối tượng học sinh hoạt động theo nhóm cũng cần được quan tâm, tránh áp đặt cố định số lượng hoặc trình độ học sinh hay để học sinh quá đông trong một nhóm. Hệ thống câu hỏi cũng được tôi lựa chọn kĩ lưỡng, tôi thường xây dựng những câu hỏi ngắn, gọn, dễ hiểu, vừa sức, đi từ dễ đến khó và cần nhất là nổi bật trọng tâm bài học.

             Ví dụ: Nếu giải quyết chung một đề tài khó, cần có sự đan xen về trình độ học sinh trong cùng một nhóm để các em hỗ trợ cho nhau. Nhưng cũng có lúc, tôi tạo điều kiện cho các em học sinh còn chậm, còn nhiều hạn chế cùng làm việc với nhau theo nhóm và dành riêng cho các em một đề tài dễ hơn . Đây cũng là lúc tôi phát huy vai trò của mình “ Dạy học phân hóa đối tượng học sinh.”

          Trong quá trình giảng dạy, tôi hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bài học qua từng hoạt động học tập. Phân chia thời gian hợp lý. Có hình thức khen thưởng, khuyến khích học sinh tích cực phát biểu ý kiến, tham gia xây dựng bài, tránh tối đa hình thức xử phạt, la mắng.         

          * Về phía học sinh

           Phải thay đổi nhận thức về môn Lịch sử bởi đây chính là môn học giúp HS tìm về cội nguồn dân tộc. Đây cũng là môn học bổ trợ kiến thức cho các môn học khác.(Tiểu luận: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4)

           HS phải có sự chuẩn bị bài ở nhà trước khi đến lớp. Tích cực sưu tầm tài liệu, sử liệu có liên quan đến bài học để việc học tập được tốt hơn. Đọc thêm sách báo, sách lịch sử, truyện kể lịch sử, xem phim lịch sử để bổ sung, tích lũy kiến thức về môn học. Khi vào lớp chú ý nghe giảng, nghe theo sự hướng dẫn của giáo viên, biết hợp tác với các bạn trong nhóm, trong lớp để tập trung và hoàn thành tốt nội dung bài học.

          b.2. Sử dụng kênh hình hiệu quả

Cũng giống như một số môn học khác, trong SGK Lịch sử 4, kênh chữ giữ vai trò chủ yếu trong việc cung cấp kiến thức. Tuy nhiên, kênh hình vẫn có vai trò quan trọng; nó không chỉ minh hoạ cho kênh chữ, mà còn là nguồn cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho HS. Trong giờ dạy Lịch sử, có những giáo viên không hiểu kênh hình nên không khai thác được kênh hình với đúng vai trò của nó mà chỉ đưa ra như một sự minh hoạ đơn thuần. Kênh hình trong sách giáo khoa của phân môn Lịch sử hiện nay nhiều, phong phú, màu sắc và trình bày đẹp, ngoài tính minh hoạ mỗi bức tranh, bức ảnh còn hàm chứa những thông tin lịch sử với mức độ khác nhau phục vụ việc dạy và học đạt hiệu quả. Tôi phân loại kênh hình trong sách giáo khoa phân môn Lịch sử lớp 4 như sau:

– Loại thứ nhất là bản đồ, lược đồ: Chủ yếu được bố trí ở loại bài về các cuộc khởi nghĩa, các chiến dịch, các trận đánh nhằm giúp học sinh hiểu được vị trí của cuộc khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh… cách bố trí lực lượng hai bên và diễn biến của cuộc khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh… Khi khai thác lược đồ giáo viên phải giúp học sinh hiểu được ý nghĩa sâu xa của cách chọn vị trí trận địa, việc bố phòng và hướng tấn công của hai bên qua đó làm nổi bật âm mưu của địch, sự mưu lược và nghệ thuật quân sự tài tình của những vị tướng chỉ huy trận đánh cũng như tinh thần chiến đấu dũng cảm của ta từ đó giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc cho các em.

Ví dụ ở bài: “Nước Đại Việt thời Lý (từ năm 1009 đến năm 1226) khi hướng dẫn trên lược đồ người giáo viên không dừng lại ở mức độ chỉ cho học sinh thấy các hướng tấn công của địch và cách chọn vị trí tiêu diệt địch của ta một cách đơn thuần mà còn phải giúp các em phân tích để thấy âm mưu thâm độc của địch và bằng nghệ thuật quân sự tài tình Lý Thường Kiệt đã đập tan âm mưu của chúng. Thông qua lược đồ HS tường thuật lại diễn biến của trận đánh trên sông Như Nguyệt. 

– Loại kênh hình thứ hai là tranh, ảnh tư liệu: Đó là tranh ảnh về các cuộc khởi nghĩa, các cuộc biểu tình, về tình hình chính trị, kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân, về các thành tựu kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật…của mỗi triều đại ứng với mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Đối với loại bài này người giáo viên phải am hiểu đầy đủ về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật của mỗi thời kỳ mới có thể hiểu và khai thác tốt kênh hình phục vụ việc giảng dạy đạt hiệu quả cao. Việc khai thác tranh ảnh thể hiện các thành tựu văn hoá như điêu khắc, kiến trúc, các giá trị văn hoá phi vật thể là khó khăn hơn cả với người giáo viên vì đây là những lĩnh vực không dễ hiểu và càng không dễ chuyển tải đến học sinh, nhất là học sinh tiểu học.Vì vậy giáo viên cần có sự đầu tư sưu tầm tranh ảnh liên quan đến nội dung bài học, chuẩn bị chu đáo các tư liệu về các giá trị văn hóa của các nhà nghiên cứu Lịch sử có ở trên sách báo và trên các trang mạng. Tất nhiên khi diễn đạt ý này cho học sinh tiểu học phải bằng thứ ngôn ngữ và cách diễn đạt phù hợp với nhận thức của các em, đặc biệt phải bằng các hình ảnh tư liệu trực quan.

Ví dụ: Khi dạy bài “Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê” tôi cho HS quan sát tranh, ảnh về văn miếu Quốc Tử giám, các tấm bia tiến sĩ trong văn miếu để HS hiểu hơn về trường học và việc tổ chức thi cử ở thời Hậu Lê. 

          – Loại kênh hình thứ ba là ảnh chân dung nhân vật lịch sử: Đây là ảnh của các nhân vật lịch sử trong loại bài dạy về nhân vật lịch sử. Số bài dạy về các nhân vật lịch sử tiêu biểu trong chương trình Lịch sử lớp 4 không nhiều. Cái mới của loại bài này so với chương trình cũ là dạy nhân vật lịch sử thông qua và gắn liền với sự kiện lịch sử chứ không thuần tuý kể về nhân vật lịch sử như trong chương trình cũ. Vì vậy, việc khai thác ảnh chân dung của nhân vật phục vụ bài dạy phải đảm bảo nguyên tắc: Làm nổi bật tư chất, nhân cách nhân vật nhưng không quá xa đà, không tách rời nhân vật lịch sử ra khỏi mối quan hệ với thời đại của nhân vật và sự kiện lịch sử mà nhân vật có vai trò quyết định.

Ví dụ khi dạy một số bài: “Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê (giới thiệu chân dung nhân vật Nguyễn Trãi), Phong trào Tây Sơn và vương triều Tây Sơn (giới thiệu anh hùng Nguyễn Huệ- Quang Trung). Đây là những bài gắn với sự kiện và giai đoạn lịch sử với sự xuất hiện của các nhân vật Lịch sử tiêu biểu, vì vậy giáo viên cần sử dụng triệt để các hình ảnh, chân dung các nhân vật lịch sử và có sự so sánh vai trò của họ ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. (Tiểu luận: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4)

XEM THÊM ==> DOWNLOAD 999+ TIỂU LUẬN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

b.3.Vận dụng các kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử

Việc vận dụng một cách hợp lý kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử sẽ làm cho giờ Lịch sử hay hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, cuốn hút học sinh hơn và cuối cùng là làm cho tiết dạy – học Lịch sử mang lại hiệu quả cao hơn. Thường là việc người giáo viên đọc những trích đoạn thơ, văn về nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử ở phần giới thiệu bài học, phần củng cố, liên hệ, cũng có khi là cả trong phần chính của bài.

Ví dụ khi dạy về “ Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng” Sau khi kể nguyên nhân Hai Bà Trưng nổi dậy khởi nghĩa tôi đọc cho học sinh nghe 1 số câu thơ: “Giận thay Tô Định bạo tàn. Nay ta dấy nghĩa diệt loài sói lang ! Một xin rửa sạch nước thù. Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng. Ba kẻo oan ức lòng chồng. Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”. Tôi cố gắng đọc thật truyền cảm, khi đọc với giọng căm hờn, có lúc lại đọc với giọng quyết tâm tạo được sự tập trung chú ý của HS đồng thời cũng giúp các em hiểu rõ hơn nguyên nhân nổ ra cuộc khởi nghia Hai Bà Trưng.

Thường thì các anh hùng dân tộc và các sự kiện lịch sử hào hùng của ông cha ta đều được phản ánh trong văn học nên rất dễ để người giáo viên lựa chọn những câu thơ hay, những đoạn trích hay, phù hợp, trong các tác phẩm văn học đưa vào bài giảng của mình, làm cho tiết dạy – học Lịch sử có được những hiệu ứng mà một tiết dạy sử thông thường không thể đạt được. Mặt khác, các bài thơ gắn với các sự kiên lịch sử giúp cho các em dễ nhớ các sự kiện lịch sử đã học vừa bổ trợ thêm các kiến thức về văn học, cảm thụ văn học cho các em.

Ví dụ: khi dạy về cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ 2. Trong khi kể cho HS nghe về diễn biến của trận chiến trên sông Như Nguyệt tôi kết hợp đọc (hoặc ngâm) bài thơ: Sông núi nước Nam vua Nam ở, Rành rành định phận ở sách trời, Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Tôi thấy HS như bị cuốn hút vào bài giảng của tôi, các em chăm chú lắng nghe và nhớ kiến thức lâu hơn.

b.4. Chia các bài học thành các dạng bài cơ bản và đưa ra phương pháp dạy học đặc trưng cho các dạng bài đó

     * Dạng thứ nhất: Dạng bài về thành tựu kinh tế – chính trị, văn hoá – xã hội.

          Nội dung chính:

– Hoàn cảnh ra đời của thành tựu đó.

– Vài nét tiêu biểu của thành tựu.

– Giá trị thực tiễn của thành tựu.

– Kết quả, ý nghĩa của thành tựu.

Gồm các bài dạy: Nước Đại Việt thời Lý, Nước Đại Việt thời Trần, Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê. Trịnh – Nguyễn phân tranh. Công cuộc khẩn hoang và sự phát triển của thành thị.

          Vấn đề cần lưu ý: Phải mô tả được tình hình nước ta như thế nào, tình cảnh đất nước, quan lại, chính quyền, cuộc sống nhân dân. Trong tình cảnh đó, chính quyền (hay nhân dân, nhân vật lịch sử) đã làm gì, làm như thế nào và kết quả của những việc làm đó.

Phương pháp dạy học đặc trưng cho dạng bài này là: Kể chuyện, vấn đáp, tìm tòi, thảo luận nhóm, sử dụng đồ dùng dạy học.

Ví dụ: Bài “Trịnh – Nguyễn phân tranh. Công cuộc khẩn hoang và sự phát triển của thành thị.” Để các em mô tả đúng ba thành thị lớn của nước ta thế kỉ XVI – XVII. Tôi đưa ra bài tập sau:

Điền các thông tin vào bảng dưới đây:

       Đặc điểm

Thành thị

Dân cư Quy mô thành thị Hoạt động

buôn bán

Thăng Long      
 Phố Hiến      
Hội An      

Tôi tiến hành theo các bước sau:

– Trước hết tôi yêu cầu học sinh đọc kênh chữ SGK, kết hợp quan sát các tranh về ba thành thị này, thảo luận nhóm 4 hoàn thành bảng thống kê trên

– Tôi yêu cầu mỗi nhóm mô tả về một thành thị.

– Nhận xét, tuyên dương nhóm mô tả đúng, đầy đủ.

Cách học này giúp các em mô tả đúng về thành thị và ghi nhớ kiến thức đã học.

* Dạng thứ hai: Dạng bài về nhân vật lịch sử.

          Nội dung chính:

– Nhân vật lịch sử nảy sinh trong hoàn cảnh lịch sử như thế nào?

– Hoàn cảnh cụ thể của nhân vật (tên, nơi sống, nguyện vọng )

– Suy nghĩ, hành động cụ thể của nhân vật

– Những đóng góp của nhân vật.(Tiểu luận: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4)

          Gồm các bài dạy: “Hơn một nghìn năm đấu tranh giành độc lập, Buổi đầu độc lập, Nước Đại Việt thời Lý, Nhà Hồ, Chiến thắng Chi Lăng và nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê, Phong trào Tây Sơn và vương triều Tây Sơn.

Vấn đề cần lưu ý: Ở dạng bài này GV cần khai thác tốt hình ảnh (tranh vẽ hoặc chân dung) nhân vật lịch sử. Cho HS biết nhân vật lịch sử là người như thế nào? (sinh năm nào, ở đâu, làm gì, có đặc điểm tính cách gì nổi bật, đời sống nội tâm, tư tưởng, tình cảm thế nào, tài năng đức độ ra sao? Có những cống hiến to lớn gì cho đất nước?) Qua đó GV tiến hành giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ cho HS về lòng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng đối với nhân vật lịch sử.

Phương pháp dạy học đặc trưng cho dạng bài này là: Kể chuyện, sắm vai

GV yêu cầu học sinh sưu tầm tranh, ảnh hoặc tư liệu về cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật lịch sử đó. Kết hợp đọc SGK trước ở nhà để nắm được nội dung bài mới về cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật lịch sử trước khi đến lớp. Trước khi nhắc đến nhân vật lịch sử nào đó, GV cần cung cấp thông tin để HS biết được những nét sơ lược về bối cảnh lịch sử (không gian, thời gian) mà nhân vật hoạt động. Sau đó cho học sinh tự trình bày hiểu biết của mình về nhân vật lịch sử đó. Đối với những bài học trong đó có các nhân vật có những câu nói nổi tiếng thể hiện phẩm chất cao quý của nhân vật có thể cho HS đóng vai để diễn lại.

Ví dụ: Để giới thiệu về Ngô Quyền tôi yêu cầu HS sưu tầm tranh ảnh về nhân vật này (tôi dặn HS chuẩn bị trước), kết hợp đọc thông tin SGK, kể những điều em biết về Ngô Quyền: Ngô Quyền quê ở xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Ông là người có tài nên được Dương Đình Nghệ gả con gái cho…

* Dạng thứ 3: Dạng bài về các cuộc khởi nghĩa, các trận đánh.

Nội dung chính:

– Nguyên nhân diễn ra cuộc khởi nghĩa.

– Diễn biến của cuộc khởi nghĩa.

– Kết qủa, ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa đó.

 Gồm các bài dạy: “Hơn một nghìn năm đấu tranh giành độc lập (Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Trận Bạch Đằng năm 938), Buổi đầu độc lập (cuộc kháng chiến chống quân Tống), Nước Đại Việt thời Lý (cuộc kháng chiến chống quân Tống lần 2), Nước Đại Việt thời Trần (cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên), Chiến thắng Chi Lăng và nước Đại Việt buổi đầu thời kì Hậu Lê (trận Chi Lăng), Phong trào Tây Sơn và vương triều Tây Sơn (Quang Trung đại phá quân Thanh).

Vấn đề cần lưu ý: GV cần giúp HS khai thác tốt bản đồ, lược đồ, mô hình, sa bàn,…về các cuộc khởi nghĩa, các trận đánh để các em hiểu được vì sao lại diễn ra cuộc khởi nghĩa đó, ai là người chỉ huy trong trận đánh đó, kết quả ra sao và cuộc khởi nghĩa đó có ý nghĩa gì.

Phương pháp dạy học đặc trưng cho dạng bài này là: Kể chuyện, quan sát, thảo luận nhóm, vấn đáp, tường thuật.(Tiểu luận: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4)

Ví dụ: Khi dạy Chiến thắng Bạch Đằng năm 938.  Tôi cho HS kể những điều em biết về Ngô Quyền, sau khi HS kể xong tôi hỏi: Nguyên nhân nào diễn ra trận Bạch Đằng năm 938? (HS trả lời dựa vào phần thông tin đã đọc và nghe bạn kể). Hay các em muốn biết diễn biến của trận Bạch Đằng, thì các em phải đọc thầm kênh chữ trong SGK và kết hợp quan sát tranh minh họa. 

Trận Bạch Đằng năm 938 (trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)

Sau đó từng nhóm HS sẽ thảo luận nội dung trong phiếu học tập như sau:

Câu hỏi Trả lời
1. Lực lượng quân giặc như thế nào?  
2. Tướng giặc do ai chỉ huy ?  
3. Ngô Quyền dùng kế gì để đánh giặc ?  
4. Thuật lại diễn biến của trận Bạch Đằng  
5. Kết quả  

Sau khi làm xong, các nhóm dựa vào kết quả thảo luận báo cáo kết quả làm việc của nhóm. Tôi chọn 1-2 nhóm làm tốt thi đua thuật lại diễn biến của trận Bạch Đằng năm 938. Cách làm này giúp HS ghi nhớ bài tốt hơn.

XEM THÊM 99+==> LỜI MỞ ĐẦU TIỂU LUẬN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

          Hoặc khi dạy bài 7: “Chiến thắng Chi Lăng và nước Đại Việt buổi đầu thời kì Hậu Lê”, để giúp học sinh trình bày tóm tắt được diễn biến trận Chi Lăng, tôi xây dựng nội dung như sau:

          Hãy sắp xếp các câu sau theo thứ tự thích hợp về diễn biến trận Chi Lăng.

  1. Kị binh ta nghênh chiến rồi giả vờ thua để nhử quân kị binh của địch vào ải.
  2. Liễu Thăng bị giết chết, quân bộ theo sau cũng bị phục binh của ta tấn công.
  3. Đạo quân của địch do Liễu Thăng cầm đầu đến cửa ải Chi Lăng.
  4. Khi quân địch vào ải, từ hai bên sườn núi quân ta bắn tên và phóng lao vào kẻ thù.
  5. Hàng vạn quân Minh bị chết, số còn lại rút chạy.

Tôi tiến hành như sau:

– Tôi yêu cầu học sinh đọc kênh chữ SGK kết hợp quan sát lược đồ, thảo luận nhóm 4 và hoàn thành phiếu bài tập sắp xếp các câu trên theo thứ tự thích hợp diễn biến trận Chi Lăng,

– Các nhóm báo cáo diễn biến trận Chi Lăng.

– Một số em trình bày tốt thuật lại diễn biến cuộc kháng chiến, vừa trình bày vừa chỉ lược đồ.

– Nhận xét, tuyên dương những em trình bày tốt.

          b.5. Phát huy tính tích cực của HS

Sẽ là thiếu sót nếu như không nhắc đến vai trò quan trọng của HS bởi GV có chuẩn bị bài tốt đến cỡ nào, có dạy hay, dạy giỏi đến bao nhiêu mà học sinh không chú ý, không tự giác, tích cực, chủ động trong học tập thì sẽ không chiếm lĩnh được kiến thức và chắc chắn tiết dạy đó sẽ không thành công. Chính vì vậy tôi đặc biệt chú ý trong việc hướng dẫn HS học tập bằng cách phát huy tính tích cực của các em.(Tiểu luận: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4)

Việc phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học, đó là việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm, đòi hỏi ở người học sinh phải độc lập, tự giác, tự tin, chủ động, trở thành chủ thể của hoạt động học tập. Trong đó thầy, cô giáo đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, gợi mở các hoạt động của học sinh. Thông qua hoạt động học, mỗi học sinh đều có cơ hội được bộc lộ mình và đều có cơ hội phát triển.

* Phát huy tính tích cực của học sinh trong kĩ năng đọc và phân tích  tư liệu

       Để học sinh dễ hiểu, dễ nắm được những sự kiện, thời gian lịch sử, cần rèn cho học sinh kĩ năng đọc và phân tích tư liệu. Các câu lệnh trong sách Hưỡng dẫn học đã được in nghiêng rất đễ thấy, tôi dựa vào các yêu cầu đó để hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động, có thể chuẩn bị thêm hệ thống câu hỏi phù hợp, vừa sức giúp cho các em phát huy khả năng nói, hạn chế tối đa việc học thuộc lòng và ghi nhớ máy móc.

Ví dụ: bài “Buổi đầu độc lập (từ năm 938 đến năm 1009)”. Để biết được tình hình nước ta sau khi Ngô Quyền mất, các em đọc thầm đoạn văn trong SGK nắm chắc nội dung kênh chữ sau đó trao đổi cặp đôi để trả lời câu hỏi: Sau khi Ngô Quyền mất tình hình nước ta như thế nào ? (Sau khi Ngô Quyền mất triều đình lục đục, tranh nhau ngai vàng, các thế lực cát cứ địa phương nổi dậy, chia cắt đất nước thành 12 vùng,…).

* Phát huy tính tích cực của học sinh trong kĩ năng quan sát và kể, trình bày lại diễn biến cuộc kháng chiến qua bản đồ, lược đồ, …

Qua 2 bài đầu của môn Lịch sử – Địa lí tôi đã hướng dẫn cho các em kĩ năng quan sát, chỉ, mô tả, kể những sự kiện lịch sử trên bản đồ, lược đồ. Vì vậy, một số bài có bản đồ, lược đồ, tôi sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, để cho học sinh quan sát. Có thể phóng to để hấp dẫn, thu hút sự chú ý, giúp các em có ấn tượng sâu sắc và không bị quên lãng khi học xong.

Tôi chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp, vừa sức, giúp các em phát huy kĩ năng nói, khả năng diễn đạt khi kể hoặc trình bày diễn biến theo bản đồ hoặc lược đồ.

Ví dụ khi dạy bài 3: “Buổi đầu độc lập (từ năm 938 đến năm 1009)”. Khi tìm hiểu diễn biến của cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược. Để học sinh trình bày được diễn biến cuộc kháng chiến, tôi xây dựng hệ thống câu hỏi như sau:

  1. Quân Tống xâm lược nước ta vào thời gian nào?
  2. Chúng tiến vào nước ta theo mấy đường, là những đường nào?
  3. Lê Hoàn chia quân thành mấy cánh và đóng quân ở những đâu để đánh giặc?
  4. Kể lại hai trận đánh lớn giữa quân ta và quân Tống?
  5. Kết quả của cuộc kháng chiến như thế nào?

Tôi tiến hành như sau: Yêu cầu HS đọc kênh chữ SGK, thảo luận nhóm 4 trả lời các câu hỏi trên. HS thảo luận trình bày câu trả lời trong nhóm. Tôi chọn một số em trình bày toàn bộ diễn biến cuộc kháng chiến, vừa trình bày vừa chỉ lược đồ. Tôi cũng không quên nhận xét, tuyên dương nhóm trình bày tốt để động viên các em. Biện pháp này giúp các em hứng thú trong học tập, ghi nhận các mốc thời gian, sự kiện lịch sử chính xác và nhớ lâu.

* Phát huy tính tích cực của học sinh trong kĩ năng quan sát và phân tích tranh ảnh (làm bài tập trắc nghiệm).

Các bài Lịch sử lớp 4 đa số bài nào cũng có kênh hình minh họa giúp học sinh hình dung rõ hơn các sự kiện lịch sử của từng giai đoạn lịch sử. Tôi nắm vững kiến thức lịch sử để qua các hình ảnh giới thiệu cho học sinh. Bằng cặp mắt quan sát, óc phân tích của mình, các em sẽ mô tả, trình bày, nêu nội dung tranh, làm bài tập, …từ đó giúp các em ghi nhớ sâu sắc những hình ảnh của lịch sử để lại.(Tiểu luận: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4)

          Ví dụ bài: “Trịnh – Nguyễn phân tranh”. Các em quan sát lược đồ để biết được địa phận Bắc triều – Nam triều và Đàng Trong, Đàng Ngoài, sông Gianh là nơi chia cắt đất nước (thế kỉ XVI).

XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN

          Hay bài: Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập. Ngoài việc đọc thông tin SGK, các em phải quan sát, nêu nội dung tranh Hai Bà Trưng cưỡi voi ra trận để thuật lại diễn biến của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.

Với cách làm này giúp học sinh nhớ lâu những sự kiện lịch sử gắn liền với những nhân vật lịch sử tiêu biểu.

* Phát huy tính tích cực của học sinh qua các hình thức tự học tập và đánh giá.

Muốn học sinh nhớ lâu và không bị sai lệch thời gian, nhân vật, sự kiện lịch sử tôi thường tổ chức nhiều hình thức học tập, các hình thức vừa mang tính khoa học, mềm dẻo, vừa mang tính thực tế sâu sắc. Phối hợp các hình thức khác nhau để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học. Phát huy tính độc lập suy nghĩ, sáng tạo, mạnh dạn trình bày ý kiến riêng, hăng hái và biết bảo vệ ý kiến của mình đồng thời biết lắng nghe ý kiến người khác, chia sẻ, hợp tác công việc với bạn.

          Ví dụ bài: “Nhà Hồ (từ năm 1400 đến năm 1407)”.

Để tìm hiểu tình hình nước ta cuối thời Trần như thế nào? GV cho HS làm bài tập: Viết tiếp vào chỗ chấm trong các câu sau đây cho đủ ý về tình hình nước ta cuối thời Trần:

            – Vua quan …………………………(1).

            – Những kẻ có quyền thế……………………..(2) của dân để làm giàu.

            – Đời sống của nhân dân………………………(3).

            (Từ cần điền: ngang nhiên vơ vét; vô cùng cực khổ; ăn chơi sa đọa).

          Tôi yêu cầu học sinh đọc kênh chữ SGK, suy nghĩ tìm từ thích hợp để điền vào chỗ ….Sau đó, tôi cho các em trình bày các ý, tôi cùng các em khác nhận xét, tuyên dương học sinh làm đúng. Cách làm này kích thích trí óc tìm kiếm suy luận, tư duy tưởng tượng của học sinh giúp các em nhớ lâu, nhớ chính xác các sự kiện lịch sử đã diễn ra. Tạo cho các em ý thức học tập tích cực.

  1. c) Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp

Để thực hiện dạy học môn phân Lịch sử đạt hiệu quả cần lưu ý một số điều kiện sau:

Cả giáo viên và HS phải thay đổi cách suy nghĩ, nhìn nhận khi dạy và học phân môn Lịch sử, từ đó thay đổi cách dạy, cách học đối với phân môn này.
          Có đủ điều kiện, phương tiện phục vụ cho việc dạy học phân môn Lịch sử như tranh ảnh, bản đồ, lược đồ, sa bàn, tư liệu lịch sử….

Việc giao nhiệm vụ của giáo viên phải rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ và cần có sự chuẩn bị chu đáo về đề tài làm việc.

Học sinh cần đọc trước nội dung trong SGK, sưu tầm tranh ảnh, tư liệu phục vụ việc học môn Lịch sử đạt hiệu quả hơn.

Phát huy tốt vai trò của việc dạy học theo nhóm, phát huy tính tích cực chủ động của HS trong việc chiếm lĩnh kiến thức.

  1. d) Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp

Các giải pháp, biện pháp mà tôi nêu ra trong đề tài có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau và không thể tách rời nhau. Giải pháp thứ nhất là tiền đề, là cơ sở để giáo viên và HS có thể tiến hành dạy học phân môn Lịch sử, các giải pháp sau giúp giáo viên nâng cao chất lượng dạy học môn học này.

  1. e) Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu

* Kết quả khảo nghiệm

Sau gần một năm áp dụng đề tài vào thực tế dạy học tôi thấy học sinh hào hứng, phấn khởi khi đến giờ học Lịch sử, các em đã thay đổi cách suy nghĩ về môn học này, đây không còn là môn phụ nữa, cũng không còn là môn học khô khan và khó nuốt như trước đây. (Tiểu luận: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4)

* Giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:

          Đề tài này đã được bản thân tôi vận dụng vào thực tế dạy học và mang lại kết quả khả quan. Chất lượng dạy học môn Lịch sử được nâng lên đáng kể.

II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm

          Hầu hết giáo viên ở trường tôi đã thay đổi cách suy nghĩ khi giảng dạy môn Lịch sử và đã có sự quan tâm xứng đáng đến môn học này.

Chất lượng dạy học phân môn Lịch sử lớp 4D, năm học 2013 -2014 được nâng lên rõ rệt

Thời gian Kết quả
Giỏi Khá TB Yếu
Đầu năm học 0 1 8 11
0% 5% 40% 55%
Cuối học kì I 2 6 10 2
10% 30% 50% 10%
Cuối năm học 4 8 8 0
20% 40% 40% 0%

III. Phần kết luận, kiến nghị

III.1. Kết luận

          Việc nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử, phải được tiến hành đồng thời trên tất cả các mặt: từ việc thay đổi nhận thức, suy nghĩ của người dạy và người học đến việc đổi mới phương pháp dạy học. Các mặt đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó chú ý đổi mới phương pháp dạy học cần được tiến hành một cách có hiệu quả hơn nữa.

III.2. Kiến nghị

         Nhà trường cần đầu tư mua sắm thêm các trang thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ dạy học phân môn Lịch sử.

         Tổ chức thi tìm hiểu Lịch Sử địa phương, danh nhân, sự kiện lịch sử trong phạm vi nhà trường.

         Tổ chức các sân chơi bổ ích cho HS như Rung chuông vàng, Theo dòng lịch sử, Nhà sử học nhỏ tuổi để các em vừa chơi mà vừa học.

        Vào những ngày lễ như dịp 22 tháng 12 nhà trường nên mời các nhân chứng sống về lịch sử để kể chuyện, ôn lại truyền thống của dân tộc để giúp các em hiểu hơn về lịch sử, có như vậy các em mới yêu mến, tự hào về cha ông, về lịch sử dân tộc mình.

Mặc dù đã cố gắng rất nhiều trong việc tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4, nhưng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong các thầy cô góp ý để đề tài này được hoàn thiện hơn.

Trên đây là tiểu luận môn Sáng kiến kinh nghiệm đề tài: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4, dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học Sáng kiến kinh nghiệm: còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé. 

Lưu ý: Có thể trên website không có tài liệu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/Zalo: //zalo.me/0932091562

DOWNLOAD FILE

Video liên quan

Chủ đề