Nội dung cuộc cách mạng trong triết học

HomeBài viếtÝ nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Các Mác và Ph.Ăngghen thực hiện

Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Các Mác và Ph.Ăngghen thực hiện

sự ra đời của triết học Mác mà vai trò xã hội cũng như vị trí của triết học trong hệ thống  tri thức khoa học và đối tượng triết học có thay đổi căn bản.

Khi ra đời triết học Mác đã trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản, giai cấp vô sản có cơ sở lý luận khoa học để nhận thức thực tiễn xã hội; từ đó định ra được đường lối chiến lược và đề ra những biện pháp đấu tranh cải biến xã hội có hiệu quả. Sự kết hợp giữa lý luận triết học Mác với phong trào vô sản đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác. Triết học Mác còn là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa xét lại, cơ hội và chủ nghĩa giáo điều, góp phần quan trọng tạo ra sự thống nhất của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản.

Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều triết học coi triết học là "khoa học của mọi khoa học" đứng trên mọi khoa học, Các Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Đến lượt mình, triết học Mác ra đời đã trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung định hướng sự phát triển của các khoa học và phương pháp luận chung định hướng sự phát triển của các khoa học. Sự phát triển của khoa học ngày càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại, phải phát triển lý luận triết học Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại. Như vậy, triết học Mác đã phân định rõ ranh giới giữa triết học với các khoa học khác và thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng, cũng như xác định rõ đối tượng nghiên cứu của triết học là tìm ra quy luật vận động, phát triển chung nhát của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Đọc và thảo luận TRIẾT HỌC KỲ THÚ trên Telegram

Có vẻ như bạn đang dùng nhầm tính năng này do sử dụng quá nhanh. Bạn tạm thời đã bị chặn sử dụng nó.

Nếu bạn cho rằng nội dung này không vi phạm Tiêu chuẩn cộng đồng của chúng tôi, hãy cho chúng tôi biết.

Thực chất của cuộc cách mạng này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau: Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trong lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ không thể tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ với phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng phương pháp biện chứng, còn phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền chủ nghĩa duy vật. Đồng thời, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng đều được C.Mác phát triển lên một trình độ mới về chất. Do vậy, sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học Mác hơn hẳn về chất so với sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại. Vì vậy, đây chính là bước phát triển cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện. Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện. Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người. Trên cơ sở đó, triết học của ông đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ. Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.

ý nghĩa : Một là, với tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta phải thấy rằng, triết học Mác - Lênin là một hệ thống mở chứ không phải là hệ thống khép kín; nó đòi hỏi luôn phải được bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Đối với phương pháp biện chứng duy vật, không có gì là bất biến. Bản thân C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin không bao giờ tự coi lý luận của các ông là “bất khả xâm phạm”, là khép kín, là chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trái lại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đòi hỏi những người cộng sản sau này phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn và phải biết bổ sung, hoàn thiện, phát triển chúng. Hai là, sự ra đời của triết học Mác gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phong trào công nhân những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX. Bản thân triết học Mác cũng gắn bó hữu cơ với thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân Ba là, ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác đã gắn bó hữu cơ với các khoa học cụ thể. Do vậy, ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, triết học Mác - Lênin không thể không được bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận của mình. Như vậy, có thể khẳng định lại rằng, hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, kể từ khi cuộc cách mạng trong triết học được C.Mác thực hiện, ý nghĩa của cuộc cách mạng này vẫn giữ nguyên tính thời sự và tính thực tiễn cho việc phát triển triết học Mác - Lênin trong thời đại hiện nay.

cho em hỏi là vai trò của triết học mác trong đời sống xã hội là gì ạ

và có thể cho em một vài ví dụ không ạ

câu hỏi kia đợi chị 1 chút

Vai trò của triết học Mác – Lênin trong đòi sống xã hội - Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của Triết học Mác-Lênin Triết học nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề của đời sống xã hội như: tổng kết, đánh giá tri thức của con người; phê phán, xác định các giá trị, truy tìm chân lý; phát triển tư duy lý luận; xác định vị trí vai trò của con người trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài; xác định mục tiêu phương hướng hoạt động của con người v.v. Trong số những vẩn đề trên đây, trước hết phải kể đến vấn đề có tính đặc trưng của triết học đó là vấn đề thế giới quan và phương pháp luận chung nhất. Trong lịch sử phát triển của triết học đã tồn tại nhiều hệ thống triết học khác nhau. Căn cứ vào cách giải quyết vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại mà người ta phân chia các lý thuyết triết học thành các trường phái khác nhau như: triết học duy tâm, triết học duy vật, triết học nhị nguyên, triết học bất khả tri, triết học khả tri v.v. Triết học Mác – Lênin là hình thức phát triển cao nhất và họp lý nhất của triết học duy vật. Những đặc điểm của triết học Mác – Lênin, như đã trình bày trong mục trên, phản ánh bản chất khoa học và nhân văn của triết học Mác – Lênin. Với những điều trình bày trên đây, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng: Trong thời đại ngày nay, triết học Mác – Lênin mới thực sự đóng vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học. Thông qua việc hình thành thế giới quan khoa học cho con người, triết học Mác – Lênin tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. -Vai trò của triết học Mác – Lênin đối với khoa học tự nhiên và đối với tư duy lý luận. Triết học Mác – Lênin ra đời trên cơ sở kế thừa những nhân tố hợp lý của các trào lưu triết học trong lịch sử và khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại. Thứ nhất, phủ nhận sự tồn tại khách quan của các sự vật bên ngoài cảm giác, ý thức của con người; Thứ hai, không hiểu phép biện chứng duy vật mácxit, không phân biệt được tính chất tương đối của quá trĩnh nhận thức với biện chứng của quá trình nhận thức. Từ đó, V.I. Lênin khẳng định rằng: các nhà khoa học tự nhiên không đứng vững trên lập trường thế giới quan duy vật biện chứng thì nhất định sẽ rơi vào quan điểm duy tâm và sẽ bị thế giới quan đó ngăn cản quá trình nghiên cứu tự nhiên của mình, từ đó dẫn đến kết quả ngăn cản sự phát triển của khoa học tự nhiên. Muốn thúc đẩy khoa học tự nhiên phát triển các nhà khoa học tự nhiên phải tự giác hoạt động theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Page 2

Đề bài

Nội dung câu hỏiHãy cho em lời giải nhanh nhé!

Lời giải từ gia sư QANDA

Năm 1844, tác phẩm đầu tiên của Ph. Ăng-ghen là “Phê phán chính trị kinh tế học” được đăng trên tờ “Niên giám Pháp - Đức”. Đây được coi là tác phẩm mở đầu cho tư duy phê phán của Ph. Ăng-ghen khi xem xét những tư tưởng về chính trị, kinh tế của các nhà tư tưởng cùng thời. Điều này được C. Mác, người chủ của tờ “Niên giám Pháp - Đức” lúc bấy giờ, đánh giá rất cao và coi đây là “một cuốn đại cương tài tình về khoa học chính trị của giai cấp vô sản”. Có thể nói, đây cũng chính là mối lương duyên cho cuộc gặp gỡ và tình bạn vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăng-ghen sau này. Cuối năm 1844, Ph. Ăng-ghen sang Đức gặp C. Mác. Dù đây là lần đầu gặp nhau nhưng hai ông nhanh chóng có những điểm tương đồng về lập trường, tư tưởng. Sau đó, Ph. Ăng-ghen cùng với C. Mác viết chung một loạt tác phẩm tiêu biểu, như “Gia đình thần thánh” (năm 1845), “Hệ tư tưởng Đức” (năm 1846), “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848), “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức” (năm 1851 - 1852),… Ngoài việc đồng hành cùng C. Mác, Ph. Ăng-ghen còn tự tìm cho mình một hướng nghiên cứu riêng là khoa học tự nhiên và nâng cao khả năng ngoại ngữ. Đó là tiền đề để Ph. Ăng-ghen là tác giả của một số tác phẩm nổi tiếng, như “Biện chứng của tự nhiên” (năm 1873 - 1883), “Tác dụng của lao động trong việc chuyển biến từ vượn thành người” (năm 1876), “Chống Đuy-rinh” (năm 1877), “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước” (năm 1883), “Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung và triết học cổ điển Đức” (năm 1888)…. Trong các tác phẩm của mình, Ph. Ăng-ghen bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trên những phương diện cơ bản như sau: Thứ nhất, xây dựng và phát triển chủ nghĩa Mác trên cả ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong lĩnh vực triết học, cũng như C. Mác, Ph. Ăng-ghen tuy xuất thân từ phái Hê-ghen trẻ nhưng ông có công lao to lớn trong việc xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng thông qua những nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật. Mặc dù khẳng định những quan điểm duy vật lịch sử là một trong hai phát kiến vĩ đại của C. Mác, nhưng Ph. Ăng-ghen cũng có công rất lớn trong việc cung cấp những luận chứng thuyết phục để chứng minh tính chất duy vật triệt để của học thuyết Mác trong lĩnh vực lịch sử, xã hội; làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và là “công cụ nhận thức vĩ đại” của con người. Đặc biệt, bằng việc chỉ ra những quy luật của giới tự nhiên, Ph. Ăng-ghen không chỉ khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới mà còn làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên. Từ đó, Ph. Ăng-ghen đã cùng với C. Mác xây dựng được một hệ thống lý luận triết học hoàn chỉnh với những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Trong lĩnh vực kinh tế chính trị học, Ph. Ăng-ghen đã chứng tỏ là một nhà kinh tế học xuất sắc khi chỉ ra được những quy luật vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, bóc trần bản chất bóc lột giá trị thặng dư của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt, khi giúp C. Mác hoàn thành nốt những tập bản thảo còn dang dở của bộ “Tư bản”, Ph. Ăng-ghen cũng góp phần quan trọng trong việc luận giải những tư tưởng lớn của C. Mác về đặc trưng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Trong lĩnh vực chủ nghĩa xã hội khoa học, với những trải nghiệm trong thời gian dài ở các nước Anh, Pháp, Đức, cùng thời gian cộng tác với C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã tạo lập và hoàn thiện những quan điểm về chủ nghĩa xã hội khoa học, mà linh hồn của lý luận đó là làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân - giai cấp có khả năng tổ chức và lãnh đạo xã hội thông qua đảng cộng sản, tiến hành cải biến xã hội từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trên phạm vi từng nước và trên toàn thế giới. Nhờ có lý luận này, giai cấp công nhân đã từng bước bước lên vũ đài chính trị và xác lập được vai trò to lớn của mình. Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen có công lao trong việc cung cấp những luận cứ thuyết phục để biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Vì vậy, “những chiến lược, sách lược cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và sự hình thành các chính đảng vô sản mà ông đưa ra trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời hoạt động lý luận và thực tiễn cách mạng của ông là một cống hiến lớn vào kho tàng chủ nghĩa xã hội khoa học”(1). Như vậy, có thể nói, “chủ nghĩa Mác trên tất cả các phương diện cấu thành của nó, từ nội dung đến phương pháp, từ những mầm mống đầu tiên đến khi có một diện mạo trưởng thành, từ những luận chiến đanh thép để tự bảo vệ trước những đòn tấn công, xuyên tạc của kẻ thù cho đến những tổng kết thực tiễn đặc sắc và những dự báo khoa học về xã hội tương lai đều in đậm dấu ấn những đóng góp kiệt xuất của Ph. Ăng-ghen”(2). Thứ hai, không ngừng bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện thực tiễn đã có nhiều thay đổi. Cũng như C. Mác, Ph. Ăng-ghen luôn khẳng định hệ thống lý luận do các ông xây dựng lên có tính phê phán. Tính phê phán đó không chỉ bao hàm sự phê phán đối với các nhà tư tưởng có quan điểm phiến diện, sai lầm về thế giới khách quan, mà còn bao hàm cả sự phê phán đối với chính tư tưởng của các ông qua mỗi thời kỳ lịch sử. Do đó, Ph. Ăng-ghen không bao giờ coi lý luận của mình cũng như của C. Mác là học thuyết hoàn hảo, là chân lý vĩnh hằng và buộc mọi người phải rập khuôn, sao chép, mà luôn đòi hỏi phải phát triển lý luận ấy thông qua nghiên cứu và tổng kết thực tiễn. Chẳng hạn, với tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, ông và C. Mác chỉ rõ, nếu được viết lại thì cũng cần bổ sung và yêu cầu những người cộng sản “bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II

Bạn vẫn chưa hiểu lắm?Hỏi Gia sư QANDA

Video liên quan

Chủ đề