Tính dân tộc thể hiện như thế nào

       “Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ của dân tộc” - Nguyễn Đình Thi đã nhận xét như thế về thơ Tố Hữu. Đọc Tố Hữu ta thấy nhận xét của Nguyễn Đình Thi thật đúng và cảm nhận được dân tộc đậm đà, thấy phảng phất trong “hồn thơ” của một thời quá khứ. Việt Bắc là một trong số rất nhiều bài thơ mang nét “cổ điển" như thế. Đọc Việt Bắc ta cảm nhận được sức mạnh của bản sắc dân tộc ấy.

       Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu trước tiên thể hiện ở hình thức thể hiện. Có lẽ Việt Bắc là bài thơ lục bát hay nhất của Tố Hữu, trong đó âm điệu lục bát đẫ nhuần nhuyễn, tinh diệu, đến mức mẫu mực:

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa.

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương.

       Những câu thơ lục bát ấy có thể xếp bên cạnh những câu ca dao dân gian, những câu lục bát cổ điển hay nhất của ta. Tiếng Việt trong những câu ấy thật bình dị mà đằm thắm, thật trong trẻo mà sâu lắng. Lời thơ quyện thật chặt với những tiết tấu co duỗi mềm mại, cất lên như những nét nhạc, những giai điệu bằng ngôn từ.

       Nhưng nói đến Việt Bắc có lẽ cái gấy ấn tượng đậm nhất trong người đọc là cái cấu trúc độc đáo của nó. Tố Hữu đã tái hiện một bức tranh hoành tráng trải ra trong một thời gian dài tới mười lăm năm (Nhớ khi kháng Nhật thủa cồn Việt Minh) bao quát một không gian rộng, bao quát toàn bộ Việt Bắc (từ "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào" đến "Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà”). Bài thơ muốn có xu hướng trở thành diễn ca lịch sử (kiểu như "Ba mươi năm có Đảng" sau này!). Nhưng sở dĩ nó không là diễn ca hẳn, bởi vì thi sĩ đã tìm đến một kết cấu truyền thống của lối Hát giao duyên, cả bài thơ dài như một cuộc hát đối đáp nam nữ. Tựa như những khúc trữ tình trong Giã bạn hay Tiễn dặn người yêu. Cả bài thơ dài chủ yếu là lời của hai nhân vật. Người ở lại rừng núi chiến khu là cô gái Việt Bắc, người về xuôi là anh cán bộ cách mạng. Tựa như "liền chị - liền anh" trong hát Quan họ. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đảng và Chính phủ kháng chiến với Việt Bắc được thu vào cuộc chia tay của một trai gái. Nói khác hơn, tác giả đã chọn tình yêu của đôi trai gái làm một góc nhìn để bao quát toàn cảnh Việt Bắc, với "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Chuyện chung đã hoá thành chuyện riêng, chuyện cách mạng của dân nước trở thành chuyện tình yêu của lứa đôi.

       Một sự kiện chính trị đã chuyển hoá thành thơ ca theo cách tâm tình hóa chính là một đặc trưng của lối thơ trữ tình - chính trị của Tố Hữu. Việc "dời đô” (Việt Bắc là thủ đô kháng chiến - Tố Hữu gọi là "Thủ đô gió ngàn") đã thành câu chuyện ân tình chung thuỷ của người cách mạng với rừng núi chiến khu, với đồng bào, với quá khứ, với chính mình... Đôi trái gái xưng hô theo lối rất dân gian: Ta - mình. Nỗi băn khoãn lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay giã bạn là ân tình - chung thuỷ:

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng?

Phố cao còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng

       "Mình về mình có nhớ ta" đã là chuyện chung thuỷ! Nhưng "mình đi mình có nhớ mình” thì ân tình chung thuỷ đã được đẩy lới một mức thật sâu. Mình đi khỏi Việt Bắc là đi khỏi thời gian khổ, nơi gian khổ, có thể mình quên ta, phụ ta. Nhưng mình có nhớ chính mình chăng, có phu chính mình được chăng? Bởi quên Ta cũng chính là quên Mình đó. Những câu hỏi thâm thuý ân tình như vậy đã giúp Tố Hữu dân gian hoá, truyền thống hoá một vấn đề của cách mạng, vấn đề của hôm nay. Người con trai cũng trả lời, cũng ghi lòng tạc dạ với một tinh thần như thế.

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Nhớ cao chàng khuất non xanh

Phố đông càng giục chân nhanh bước đường

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

       Kết cấu đối đáp hài hoà với lối thơ lục bát giàu chất dân gian như thế đã làm cho bài Việt Bắc của Tố Hữu có cái dáng dấp của một bài hát giao duyên bác họ được viết theo lối dân gian. Nó làm cho bài thơ gần gũi với tâm hồn quần và dễ dàng gia nhập vào mạch văn hoá dân gian, trở thành những bài hát chí có thể trình bày bài thơ theo lối diễn xướng dân gian rất phù hợp.

       Có lẽ cũng cần phải nói thêm về phong vị cổ điển của nó. Đây là một nét truyền thống khác của thơ Tố Hữu. Trong bài "Kính gửi cụ Nguyễn Du", chúng ta thấy không khí lục bát thật trang trọng. Thi sĩ đã dùng những thi liệu của “truyện Kiều" để tâm tình với tác giả "Truyện Kiều”. Ông cũng dùng hình thức lấy Kiều, tập Kiều để làm cho bài thơ có phong vị cổ điển. Còn ở đây không thế. Chúng ta đã thấy kết câu trữ tình của bài thơ, giọng điệu tứ bình của bài thơ có phần nghiêng hẳn về cổ điển. Câu lục bát ở những chỗ ấy thường chật chứ không lỏng, chữ "đúc" nhiều, chữ "nước" ít. Hình thức tiểu đối được sử dụng rất dầy và biến hoá nhịp nhàng. Nhưng có lẽ đáng nói hơn vẫn là lối vẽ thiên nhiên : các câu thơ lục bát ấy. Nói riêng đoạn "Hoa cùng người", có thể thấy thi sĩ lạo hình theo lôi xây dựng bộ tranh trữ tình - một hình thức rất phổ của nghệ thuật cổ diển. Hoa và người soi chiếu nhau, tôn vinh lẫn nhau, bức tranh dường như đã tái hiện trọn vẹn đầy đủ nhịp vận hành luân chuyển của thiên nhiên và con người Việt Bắc:

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

 Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trổng rừng

 Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

 Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung

   Thành công của bài thơ Việt Bắc còn ở nhiều phương diện khác như: ngôn ngữ, nội dung, hình tượng nhân vật trữ tình... Nhưng có thể khẳng đinh chất dân chất truyền thống đậm đà đã tạo nên sức sống, sức lay động lòng người cho thơ. Và Việt Bắc cùng với những bài thơ khác của Tố Hữu đã khẳng định phong cách độc đáo cùa ông trong suốt chặng đường cầm bút của người nghệ sĩ mạng: từ hiện đại trở về với cổ điển, trở về với nét dân tộc và truyền thống.

 Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam. Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết, cùng chung vận mệnh lịch sử, từ lâu đời đã sớm có ý thức gắn bó với nhau trong chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước. Sự đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc đã tạo nên một quốc gia dân tộc bền vững và thống nhất.

 Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặc biệt coi trọng chính sách dân tộc, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, xem đó là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, pháp luật xã hội chủ nghĩa do Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành phải phản ánh ý chí, nguyện vọng và lợi ích của cả dân tộc; là công cụ pháp lý quan trọng để thực hiện chính sách đại đoàn kết và bình đẳng dân tộc, bảo đảm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tất cả các dân tộc.

Hiến pháp năm 2013 – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của nước ta đã hiến định sâu sắc, toàn diện hơn về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc. Theo đó, tại Điều 5 Hiến pháp 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc được khẳng định trong thực tiễn; quyền và nghĩa vụ công dân cũng như đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số được đảm bảo, không ngừng được nâng lên.

Bên cạnh Điều 5 Hiến pháp 2013 được xác định là định hướng cho, chính sách dân tộc, lĩnh vực dân tộc; công tác dân tộc còn được quy định cụ thể trong các điều luật khác của Hiến pháp 2013, cụ thể như: Tại Điều 42 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”; Điều 58 quy định:“…Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khỏe cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số....”; Điều 60: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”; Điều 61: “…Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn…”. Điều 75 Hiến pháp 2013 quy định: “…Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc…”.

Như vậy, có thể nói việc tiếp tục khẳng định quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và tham gia bảo vệ Tổ quốc của các dân tộc trong Hiến pháp 2013 có ý nghĩa chính trị sâu sắc vì sự khẳng định đó rất thiêng liêng đối với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số hân hoan đón nhận với niềm tự hào và càng thấy được trách nhiệm của mình trước Tổ quốc, góp phần động viên toàn dân thực hiện Hiến pháp và bảo vệ Hiến pháp.

Để thể hiện tinh thần của Hiến pháp 2013 về công tác dân tộc, nhiều văn bản Luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam như: Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật tố tụng hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Di sản văn hóa… đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013 và đều thể hiện rõ quyền bình đẳng của các dân tộc.

Chẳng hạn, trong Bộ Luật Dân sự hiện hành, một trong những nguyên tắc của Luật Dân sự là nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tại Điều 7 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về chính sách của Nhà nước đối với quan hệ dân sự: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam”. Hay tại Điều 29 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định quyền xác định, xác định lại dân tộc: “Cá nhân có quyền xác định, xác định lại dân tộc của mình. Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ…”.  Luật Di sản văn hóa Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh chính sách dân tộc, Điều 17 Luật này khẳng định: “Nhà nước tôn trọng, khuyến khích các dân tộc thiểu số giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình, có nghĩa vụ và trách nhiệm đóng góp làm giàu kho tàng di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”.

Trong hoạt động tố tụng hình sự, Điều 133 Hiến pháp 2013 quy định: "Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án". Bộ Luật Tố tụng hình sự đã cụ thể hóa quy định trên của Luật Hiến pháp và là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự. Theo đó, tại Điều 29 Bộ Luật tố tụng hình sự đã quy định "Tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần phải có phiên dịch".

  Mặc dù mọi hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành bằng tiếng Việt, nhưng để bảo vệ quyền của người dân tộc thiểu số thì cả Hiến pháp và Bộ Luật tố tụng hình sự đều cho phép người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng không biết tiếng Việt được tham gia vào các hoạt động tố tụng và phát biểu trong phiên toà bằng tiếng dân tộc của mình thông qua phiên dịch. Như vậy, việc thực hiện nguyên tắc về tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự cũng chính là thực hiện những quy định bảo vệ quyền của người dân tộc thiểu số trong việc bảo đảm sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật và Toà án. Bởi lẽ, việc để người dân tộc thiểu số, được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình tham gia tố tụng hình sự chính là điều kiện để họ có thể biểu đạt được hết những suy nghĩ, biện minh cho hành vi vi phạm của mình và cũng là điều kiện để cơ quan và người tiến hành tố tụng có căn cứ xác định được sự thật khách quan của vụ án, từ đó áp dụng pháp luật một cách chính xác nhất trong việc giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đặc biệt, tại Điều 116 Bộ Luật Hình sự hiện hành quy định Tội phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc, Điểm b khoản 1 Điều này quy định “Người nào có hành vi gây hằn thù, kỳ thị, chia rẽ, ly khai dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm”. Việc quy định tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật Hình sự Việt Nam đã thể hiện pháp luật xã hội chủ nghĩa còn là công cụ quan trọng đấu tranh với những biểu hiện phân biệt, kỳ thị dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Tóm lại, đại đoàn kết dân tộc là tất yếu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành quả đấu tranh cách mạng lâu dài giành độc lập dân tộc đầy hy sinh, gian khổ của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy, pháp luật xã hội chủ nghĩa do Nhà nước ban hành phải điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo lợi ích của tất cả các dân tộc Việt Nam, phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa và truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, không mâu thuẫn với lợi ích chung của toàn dân tộc, đảm bảo khối đại đoàn kết dân tộc./.

                           ThS. Huỳnh Cầm – Giảng viên khoa Nhà nước và pháp luật