Vai trò của công nghệ thông tin trong học tập

Vai trò của công nghệ thông tin trong giáo dục hiện đại

Không chỉ các vùng nông thôn có thể hưởng lợi từ việc sử dụng và tiến bộ công nghệ, lớp học tiên tiến của chúng tôi cũng có sự cải tiến so với cách dạy cũ.

Công nghệ đã thực sự làm cho cuộc sống của mọi người xung quanh chúng ta trở nên tuyệt vời. Mọi bên liên quan đều được hưởng lợi từ sự tiến bộ và hôm nay chúng ta sẽ thảo luận về việc sử dụng công nghệ thông tin trong giáo dục.

Câu hỏi trên cũng có thể được dịch là công nghệ thông tin đang thay đổi giáo dục và đi đúng hướng như thế nào.

Không mất nhiều thời gian, chúng ta cùng tìm hiểu công dụng của công nghệ thông tin trong giáo dục.

Quá trình học tập liên tục

Học liên tục là điều quan trọng đối với bất kỳ học sinh nào để giữ lại kiến ​​thức, sự kiện và thông tin. Vì các giáo viên và giáo sư có thời gian hạn chế và không thể tham dự sau khi trường học kết thúc, công nghệ có thể giúp họ gửi tài liệu học tập và bài tập qua Internet hoặc bất kỳ hệ thống dạy học trực tuyến bên thứ 3 nào như KoolSoft E-Learning. Mặt khác, học sinh có thể bắt đầu học từ tài liệu và nộp bài tập qua hệ thống.

Truy cập mọi lúc vào Tài liệu học tập

Với sự ra đời của Internet, rất nhiều thông tin và kiến ​​thức có sẵn trên Internet. Học sinh có thể truy cập thông tin bất cứ khi nào họ muốn và có thể học mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Họ cũng có thể dễ dàng bổ sung quá trình học tập với sự trợ giúp của các tài liệu hoặc video khác dễ dàng có sẵn trên Internet.

Tài liệu video và âm thanh

Internet đã mang nhiều người đến với nhau. Học sinh được hưởng lợi từ các tài liệu video và âm thanh có thể được cung cấp bởi giáo viên hoặc các trang web của bên thứ ba khác. Việc trình diễn trở nên dễ dàng đối với giáo viên và giúp học sinh dễ học. Giáo dục hiện tại thiếu sự triển khai thực tế và tài liệu video / âm thanh cố gắng lấp đầy khoảng trống với sự trợ giúp của công nghệ.

Chia sẻ kiến ​​thức

Lợi thế lớn nhất của công nghệ là thực tế là sinh viên từ các vùng địa lý khác nhau có thể chia sẻ kiến ​​thức của họ, thảo luận và tham gia một cách chu đáo. Các rào cản về tôn giáo, cảnh quan và bất kỳ rào cản nào khác không có cơ hội trước việc chia sẻ nền tảng trực tuyến. Sinh viên cũng có thể dễ dàng tìm hiểu khía cạnh văn hóa của các sinh viên khác mà không cần phải di chuyển đến nơi của họ.

Các khóa học trực tuyến

Khoảng cách là rào cản lớn nhất trong việc tiếp cận nhân khẩu học mới và cung cấp giáo dục cho những người / sinh viên có hoàn cảnh khó khăn hoặc có hoàn cảnh khó khăn khác. Với các khóa học trực tuyến, nhiều trang web ưu tú đã đưa ra tuyên bố. Ví dụ: sinh viên có thể dễ dàng truy cập các khóa học trực tuyến với sự trợ giúp của Udacity, Coursera, Edx và các nền tảng học tập trực tuyến khác. Khan Academy cũng là một trong những nền tảng phổ biến để học tập.

Theo dõi mọi thứ

Học sinh tiến bộ theo thời gian và cần phải theo dõi sự phát triển của từng cá nhân với sự trợ giúp của công nghệ. Hệ thống ERP của trường học xử lý tất cả các kỳ thi, kết quả và các số liệu quan trọng khác. Hầu hết các quy trình đều được tự động hóa và ngay cả giáo viên hoặc quản trị viên cũng không phải đầu tư nhiều thời gian vào việc tạo báo cáo.

Kết luận

Công nghệ đã thực sự cải thiện môi trường giáo dục. Đó có thể là học trực tuyến bằng nền tảng Khóa học trực tuyến mở rộng rãi hoặc cộng tác với các đối tác cung cấp dịch vụ giáo dục trực tuyến như KoolSoft để mở rộng dịch vụ giáo dục của bạn.

  CHỦ ĐỀ: Vai trò của Công nghệ thông tin với sự phát triển của giáo dục.MỞ ĐẦU:Giáo dục là “quốc sách” hàng đầu của mọi Quốc gia. Và sự pháttriển giáo dục của mỗi Quốc gia cũng thể hiện cho sự phát triển tri thứccủa Quốc gia đó. Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhànước, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi mặt của cuộcsống: Nền kinh tế đã vượt qua giai đoạn suy giảm tốc độ tăng trưởng, đạtmức tăng trưởng khá cao; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của mộtsố lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến. Tình hình chính trị - xã hội cơbản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường. Về đối ngoại: tiếptục mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác, phát triển ổn định, lâu dàivới nhiều nước khác trên thế giới.“Tác giả của những thánh tựu đó khôngai khác chính là hàng triệu người nông dân, công nhân, viên chức,bác sĩ,kỹ sư, thạc sĩ…người Việt Nam.Họ là sản phẩm của nền giáo dục ViệtNam”( theo Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân). Do vậy không thể phủ nhậnthành tựu của giáo dục sau 20 năm đổi mới. Tuy nhiên cần phải nhận thứcrõ rằng tuy có những thành tựu xong nền giáo dục Việt Nam vẫn còn lạchậu,thua kém nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chưa đáp ứngđược nhu cầu phát triển đất nước trong thời kì hội nhập hiện nay. Xong, ngày nay khoa học công nghệ của thế giới nói chung và ViệtNam nói riêng đang có những bước phát triển thần tốc: sự ra đời củanhững ngành khoa học mới, sự ra đời của những vật liệu mới, nguồn nănglượng thay thế… Trong đó, đặc biệt là sự phát triển của Công nghệ thôngtin (CNTT). Ông Nguyễn Minh Hồng, Thứ trưởng Bộ Thông tin vàTruyền thông, cho biết ngành CNTT trong nước năm qua đã chứng kiếnsự phát triển đầy ấn tượng, chẳng hạn như công nghiệp phần mềm đạt tốcđộ tăng trưởng trên 30%; cả nước có tới 1,6 triệu thuê bao Internet băngrộng, gần 23% dân số sử dụng Internet; nhiều tập đoàn công nghệ lớn củathế giới đầu tư vào Việt Nam (Foxcon, Canon, Fujitsu, Samsung... ) vớisố tiền đầu tư lên tới 1 tỉ USD..Công nghệ thông tin là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lýthông tin. Tốc độ phát triển vũ bão của công nghệ làm cho việc luânchuyển thông tin trở nên cực kỳ nhanh chóng và vai trò của thông tinngày càng trở nên quan trọng. Những khả năng mới mẻ và ưu việt nàycủa CNTT đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc, cáchhọc tập, cách tư duy và quan trọng hơn cả là cách ra quyết định của conngười.Chính do tốc độ tăng trưởng và đặc điểm của CNTT mà nó đã có tác1động to lớn và toàn diện đến xã hội loài người, và hiển nhiên cũng tácđộng mạnh mẽ trực tiếp đến giáo dục.Như chúng ta đã biết, có 3 tác nhân trong một hệ thống giáo dục làngười học, người dạy và môi trường dạy và học.Trong phạm vi của bài tập“ Vai trò của Công nghệ thông tìn với sựphát triển của Giáo dục” , tôi chỉ đề cập đến tác nhân thứ ba đó là môitrường mà trọng tâm cũng chỉ giới hạn là môi trường CNTT là tác nhânquan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của giáo dục trong thời đại ngàynay.NỘI DUNG:I . Các khái niệm:1. Công nghệ thông tin:Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology hay là IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin.CNTT là ngành sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi,lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin. Ở Việt Nam:khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyếtChính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993 : Công nghệ thông tin là tập hợpcác phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại -chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sửdụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềmnăng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.2.Giáo dục:2.1 Khái niêm:Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đíchkhơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của ngườidạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhâncách người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phầnđáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hộiđương đại.2Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng mang ýnghĩa sâu sắc hơn nhưng ít hữu hình hơn như là quá trình truyền thụ, phổbiến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền thụ sự hiểu biết.Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ thế hệ nàyđến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khảnăng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗingười. Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một phương pháp nghiên cứumối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, vàlàm chủ được các mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, tâm thần, cáchứng xử trong xã hội.Dạy học là một hình thức giáo dục đặc biệt quan trọng và cần thiết cho sự phát triển trí tuệ, hoàn thiện nhân cách học sinh.Quá trình dạy học nói riêng và quá trình giáo dục nói chung luôngồm các thành tố có liên hệ mang tính hệ thống với nhau: mục tiêu giáodục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, phương tiện giáo dục,hình thức tổ chức và đánh giá.Sự giáo dục của mỗi cá người bắt đầu từ khi sinh ra và tiếp tụctrong suốt cuộc đời. (Một vài người tin rằng, sự giáo dục thậm chí còn bắtđầu trước khi sinh ra, theo đó một số cha mẹ mở nhạc, hoặc đọc chonhững đứa trẻ trong bụng mẹ với hy vọng nó sẽ ảnh hưởng đến sự pháttriển của đứa trẻ sau này). Với một số người quá trình đấu tranh giànhgiật sự sống, giành giật sự thắng lợi trong cuộc sống cung cấp kiến thứcnhiều hơn cả sự truyền thụ kiến thức ở các trường học. Các cá nhân tronggia đình có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả giáo dục, thường có ảnh hưởngnhiều hơn là họ nhận ra, mặc dù việc dạy dỗ trong gia đình có thể khôngcó tính chính thức, chỉ có chức năng giáo dục rất thông thường.2.2 Vai trò của giáo dục:Kinh tế tri thức là nơi mà: Hệ thống máy móc phát triền cùng vớisự tích luỹ những tri thức xã hội và nói chung, sự tích luỹ sức sản xuất.Mối quan hệ giữa khoa học - công nghệ - sản xuất ngày càng trở nên chặtchẽ. Tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thứcđược sản xuất ra không chỉ trong các cơ quan nghiên cứu, mà còn ngay cảtrong môi trường sản xuất. Giáo dục và đào tạo gắn với nghiên cứu khoahọc và sản xuất. Ngay trong từng doanh nghiệp cũng tiến hành đào tạothường xuyên, cũng nghiên cứu khoa học và công nghệ, nhiều khi khóphân biệt đơn vị sản xuất với phòng thí nghiệm. Trong các lĩnh vực côngnghệ sinh học, công nghệ thông tin... có những dược phẩm, những vimạch, phần mềm được sản xuất ngay trong phòng thí nghiệm. Cùng mộtnơi, người ta nghiên cứu rồi sản xuất đại trà. 3C.Mác dự đoán rằng, việc ứng dụng khoa học và công nghệ vàosản xuất sẽ nâng cao năng suất lao động xã hội và cơ sở chủ yếu của sảnxuất và của của cải không phải là lao động trực tiếp do chính con ngườithực hiện và không phải là thời gian trong đó anh ta lao động, mà là sựchiếm hưu sức sản xuất phổ biên của chính con người, là nhận thức củacon người về giới tự nhiên và sự thống trị giới tự nhiên do sự tồn tại củacon người với tư cách là một cơ thể mang tính xã hội. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa (và cả trong những giai đoạn trướcđó), việc tăng năng suất lao động xã hội, giảm thời gian lao động cầnthiết, là nhằm tăng thời gian lao động thặng dư để làm giàu cho một số ítngười. Còn trong tương lai, một khi lao động dưới hình thái trực tiếp củanó không còn là nguồn của cải vĩ đại nữa thì thời gian lao động khôngcòn là thước đo giá trị sử đụng nữa. Lao động thặng dư của quần chúngcông nhân không còn là điều kiện để phát triển của cải phổ biến, cũnggiống như sự không lao động của một số ít người không còn là điều kiệncho sự phát triển những sức mạnh phổ biến của đầu óc con người nữa. Dođó, nền sản xuất dựa trên giá trị trao đổi bị sụp đổ. Điều đó có nghĩa làkhi ấy không còn sản xuất hàng hoá và cả sản xuất tư bản chủ nghĩa nữa.Khi ấy, sẽ diễn ra sự phát triển tự do của các cá nhân, do vậy điều diễn rakhông phải là sự rút ngắn thời gian lao động cần thiết nhằm giả định laođộng thặng dư, mà nói chung là việc giảm thời gian cần thiết của xã hộixuống mức tối thiểu, tương ứng với điều đó trong những điều kiện ấy làsự phát triển nghệ thuật, khoa học… và của các cá nhân nhờ thời gian đãđược giải toả cho mọi người và nhờ những phương tiện đã được tạo ra đểthực hiên điều đó.Như vậy, một số lượng lớn thời gian nhàn rỗi đã được tạo ra cho xãhội nói chung và cho từng thành viên của xã hội sẽ được dùng vào việcphát triển chính bản thân họ. Khi ấy, sự phát triển của lực lượng sản xuấtkhông thể bị trói buộc thêm nữa vào sự chiếm hữu lao động thặng dư củangười khác, và quần chúng công nhân tự mình phải chiếm hữu lấy laođộng thặng dư của mình. Khi nào công nhân bắt đầu thực hiện việc đó vàdo đó khi mà thời gian nhàn rỗi không còn tồn tại dưới hình thái đốikháng nữa thì khi ấy một mặt, thước đo thời gian lao động cần thiết sẽ lànhững nhu cầu của cá nhân xã hội, mặt khác, sự phát triển của sức sảnxuất xã hội sẽ diễn ra nhanh chóng đến mức mặc dù sản xuất sẽ nhằm vàosự giàu có của tất cả mọi người, nhưng thời gian nhàn rỗi củ a mọ i ngườisẽ tăng lên.Tóm lại, chính sự phát triển của tư bản cố định trong chủ nghĩa tưbản lại tạo tiền đề để phủ định chủ nghĩa tư bản, để chuyển lên một xã hộimới, trong đó sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân sẽ thúc đẩy sự phát4triển của cả xã hội, thúc đẩy sản xuất nhằm đem lại sự giàu có cho tất cảmọi người, những thời gian nhàn rỗi để nghiên cứu khoa học, nghệ thuật,giải trí... của tất cả mọi người lại tăng lên. Có thể vận dụng những dựđoán trên của C. Mác vào phân tích xu hướng vận động của nền kinh tếtri thức, và qua đó, có thể thấy được rằng sự phát triển của kinh tế tri thứchoàn toàn phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa, với tính chất củathời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đãnhận định: “Con đường Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa của nước ta cầnvà có thể rút ngắn thời gian, và có những bước tuần tự vừa có bước nhảyvọt”. Để có bước nhảy vọt phải “nâng cao hàm lượng tri thức trong cácnhân tố phát triển kinh tế xã hội, từng bước phát triển kinh tế tri thức ởnước ta".Những quan điểm của C.Mác về ứng dụng khoa học, công nghệvào quá trình sản xuất nói trên đã chỉ cho chúng ta thấy rằng muốn thựchiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn ở nước ta, chúng ta phải: Một là, tăng tỷ trọng lao động trí óc trong cơ cấu lao động xã hộibằng cách tăng đầu tư cho giáo dục đào tạo, cho nghiên cứu khoa học vàcông nghệ. Nếu chỉ hô hào giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ làquốc sách hàng đầu mà không có giải pháp cụ thể để tăng đầu tư cho giáodục, đào tạo,cho nghiên cứu và phát triển (R&D), không cái cách giáodục, đào tạo thì "quốc sách" sẽ không trở thành hiện thực được. Khôngtăng được số lượng công nhân tri thức (knowledge workers) thì sẽ rơi vàotình huống thừa lao động giản đơn, thiếu lao động lành nghề, số ngườidôi dư do công nghiệp hoá, hiện đại hoá tăng lên thành một sức ép xã hộigay gắt, trong khi có quá nhiều việc làm không tìm được người thích hợp.Ngay một nước phát triển rất coi trọng giáo dục, đào tạo như oxtrâylia màcũng có khoảng 30.000 chỗ làm việc chưa tìm được công nhân thích hợpvà có nhiều cảnh báo rằng tình hình sẽ còn xấu đi.Hai là, đổi mới giáo dục và đào tạo. Vì sản xuất công nghệ trởthành loại hình quan trọng hàng đầu, phát minh trở thành một nghề đặcbiệt, nên giáo dục, đào tạo phải khuyến khích tư duy sáng tạo của ngườihọc chứ không phải là nhồi nhét kiến thức, không nên đẩy người học vàotình trạng "chết đuối trong thông tin nhưng lại chết đói vì tri thức". Do tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ mà giáo đục phảicập nhật liên tục trong suốt cuộc đời người lao động. Ngày nay, tri thứccứ 7 năm lại tăng gấp 2 lần, và trong lĩnh vực kỹ thuật thì một nứa nhữngđiều mà sinh viên học được trong năm đầu tiên ở Đại học sẽ trở nên lạchậu khi họ tốt nghiệp. Để Công ty có khả năng cạnh tranh và người lao5

Video liên quan

Chủ đề