Bao nhiêu ngày thì cắt chỉ vết thương năm 2024

Đóng biểu bì không biến chứng thường được thực hiện bằng cách sử dụng các mũi khâu rời đơn giản. Mỗi mũi khâu bao gồm một vòng chỉ đơn giản, gần tròn (tức là đơn giản), được buộc riêng. Kỹ thuật này cho phép căng từng mũi khâu riêng lẻ, và nếu một mũi khâu sau đó bị lỗi, những mũi khâu khác vẫn không bị ảnh hưởng.

Mục tiêu của tất cả các mũi khâu là để mép vết thương (đặc biệt là lớp hạ bì) không có khoảng trống hoặc không có lực căng. (Xem hình .)

  • Vết thương đủ sâu để có thể lành lại kèm theo sẹo thừa nếu không được đóng lại
  • Các vết thương có các cạnh có thể ráp mép khá tốt bằng cách sử dụng các mũi khâu này
  • Các vết thương tương đối gần đây và không bị nhiễm trùng

Chống chỉ định tuyệt đối

  • không

Chống chỉ định tương đối

Bất kỳ loại mũi khâu nào cũng có thể bị chống chỉ định cho những vết thương bị nhiễm bẩn, tương đối cũ hoặc có nguy cơ nhiễm trùng cao hơn nếu được khâu kín, chẳng hạn như vết cắn nhỏ ở bàn tay hoặc ở bàn chân, vết thương đâm xuyên hoặc vết thương do vật phóng ra với tốc độ cao.

Các vết thương liên quan đến cấu trúc sâu (ví dụ: dây thần kinh, mạch máu, ống dẫn, khớp, gân, xương) và những vết thương bao phủ các khu vực rộng lớn hoặc liên quan đến mặt hoặc bàn tay có thể cần kỹ thuật phục hồi cụ thể hoặc chuyển đến bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật.

  • Nhiễm trùng
  • Cắt hoặc làm sẹo ở da do tì đè lên da ở mũi khâu
  • Thiếu máu cục bộ và hoại tử do mũi khâu quá chặt

Kỹ thuật vệ sinh và đóng vết thương không nhất thiết phải là thủ thuật vô trùng. Mặc dù các dụng cụ chạm vào vết thương (ví dụ, kẹp, kim, chỉ) phải được vô trùng, nhưng có thể sử dụng găng tay không vô trùng sạch cũng như nước sạch nhưng không vô trùng cho bệnh nhân có khả năng miễn dịch. Một số bác sĩ phẫu thuật thích găng tay vô trùng vừa vặn hơn và bảo vệ hàng rào tốt hơn.

Thủ thuật sạch, bảo vệ hàng rào

  • Khẩu trang và kính bảo hộ (hoặc tấm che mặt), mũ đội đầu, áo choàng, găng tay
  • Săng mổ, khăn lau vô trùng (để cắt lọc vết thương và khâu lại)
  • Dung dịch khử trùng (ví dụ, chlorhexidine, povidone iodine)
  • Gạc vô trùng hình vuông (ví dụ: 10 cm × 10 cm [4 inch × 4 inch])
  • Đôi khi nẹp hoặc các vật liệu khác (để chăm sóc sau thủ thuật) để hạn chế cử động hoặc căng da có thể kéo vào mũi khâu
  • Vật liệu dùng để băng vết thương
  • Mô vết thương dễ bị tổn thương thêm trong bất cứ khía cạnh nào của quá trình làm sạch và đóng lại. Không bao giờ kẹp các mép vết thương bằng dụng cụ cầm máu vì làm như vậy có thể nghiền nát mô; thay vào đó, sử dụng kẹp mô hoặc móc mô khi nâng và lộn mép vết thương.
  • Chỉ sử dụng kìm kẹp kim (không phải dụng cụ cầm máu hoặc kẹp forcep) để khâu vì kìm kẹp kim sẽ giữ kim một cách chắc chắn nhất mà không làm hỏng kim.
  • Lực căng quá mức lên vết rách đã được phục hồi sẽ làm tăng mức độ sẹo của vết thương.
  • Đặt bệnh nhân ngả lưng hoặc nằm ngửa thoải mái.
  • Điều chỉnh độ cao của cáng sao cho quý vị cảm thấy thoải mái khi ngồi hoặc đứng ở cạnh giường.
  • Với những vết rách kéo dài, hãy định vị sao cho vết rách gần như song song với đường phía trước cơ thể quý vị.
  • Vết rách phải được chiếu sáng tốt, tốt nhất là có đèn chiếu thủ thuật trên cao.
  • Làm sạch, gây mê, rửa và cắt lọc vết thương khi cần thiết.
  • Đặt một săng mổ có lỗ, vô trùng lên vết thương. Đặt thêm các tấm săng mổ gần đó nếu cần để có một khu vực làm việc đủ rộng và vô trùng.
  • Cầm kéo kẹp kim trong tay thuận của quý vị, ngón tay trỏ của quý vị duỗi dọc theo mặt bên. Cách cầm này mang lại sự kiểm soát nhiều nhất. Một số chuyên gia khuyến cáo không nên đặt ngón tay của quý vị vào các lỗ ngón tay của kìm kẹp kim trong khi khâu; làm như vậy có thể khiến cho việc đâm kim vuông góc với da trở lên khó khăn hơn. Tuy nhiên, quý vị có thể đặt ngón tay của mình vào các lỗ khi nhả kim ra khỏi kìm kẹp kim và cũng như khi quý vị thắt các nút bằng dụng cụ (dụng cụ thắt chỉ).
  • Giữ kẹp mô trong bàn tay không thuận của quý vị, giống như cách quý vị cầm bút chì. Không kẹp chặt đầu kẹp vào da, vì điều này có thể làm tổn thương các mô. Chỉ sử dụng kẹp có răng hoặc móc mô khi xử lý mô để tránh nghiền nát mô.
  • Dùng ngón tay trỏ duỗi về phía đầu kéo cầm kéo cắt chỉ để kiểm soát tốt hơn.
  • Nhìn chung, khâu mũi đầu tiên ở giữa vết thương.
  • Nạp vào kìm kẹp kim: Dùng đầu nhọn của kìm kẹp kim kẹp chặt kim theo góc 90 độ. Kẹp chặt kim ở chỗ 1/3 đầu gần và 1/3 giữa của kim.
  • Sử dụng đầu kẹp như một cái móc (hoặc sử dụng móc mô) để nhẹ nhàng nâng mô và lộn mép vết thương khi cần thiết trong khi khâu. Việc lộn mép vết thương thích hợp trong bước này là điều cần thiết để đạt mức ráp mép tối ưu của lớp hạ bì, điều này cuối cùng sẽ giúp tối đa hóa sức bền và giảm thiểu hình thành sẹo của vết thương đã lành.
  • Khâu các mũi bằng cách nhẹ nhàng lật ngửa cổ tay của quý vị để kim đi theo đường cong của nó qua da.
  • Kim phải đi vào và thoát ra khỏi da theo góc 90 độ (xem hình ). Khớp chiều sâu chỗ xuyên kim và chiều rộng chỗ xuyên kim ở cả hai mép của vết rách. Chiều sâu chỗ xuyên kim cần phải lớn hơn chiều rộng chỗ xuyên kim.
  • Đẩy kim qua cả hai mép vết thương nếu có thể thực hiện được điều này với ít lực cản. Nếu sức cản lớn – hoặc nếu quý vị đang khâu trên một không gian tương đối rộng (có thể xảy ra với vài mũi khâu đầu tiên của quá trình đóng bằng mũi khâu rời) – rút kim ra qua tâm vết rách sau khi nó chọc qua mép vết thương thứ nhất và sau đó kẹp nó trở lại kìm kẹp kim. Tiếp tục mũi khâu với chỗ xuyên kim thứ hai ngang qua mũi khâu đó về bờ đối diện của vết thương.
  • Nhẹ nhàng kéo chỉ qua đường đi của kim và để hở một ít (ví dụ: 2 đến 3 cm) đầu tự do của chỉ.
  • Nhả kim ra khỏi kìm kẹp kim và để kim nằm trên săng mổ vô trùng.
  • Buộc chỉ bằng dụng cụ thắt chỉ như mô tả bên dưới.
  • Lặp lại các bước này, khâut tất cả các mũi tiếp theo vào giữa mỗi phần vết rách mở, cho đến khi không còn khoảng trống nào trên vết thương. Khoảng cách giữa các mũi khâu thường bằng khoảng cách từ kim đi vào đến mép vết thương (xem hình ).

Mũi khâu da rời

Chỉ khâu bắt đầu và kết thúc có khoảng cách bằng nhau. Các điểm A và B ở cùng độ sâu. Vết khâu xa mép vết thương khi vết thương sâu. Các mép da nên được lộn ra ngoài bằng cách chiều rộng của mũi khâu lớn hơn chiêu sâu tính từ mặt vết thương.

Khoảng cách mũi khâu

Khoảng cách giữa các mũi khâu thường bằng khoảng cách từ kim đi vào đến mép vết thương. Các mũi khâu phải vào và ra ở một khoảng cách bằng nhau từ mép vết thương.

  • Giữ đầu của kìm kẹp kim ở trên và giữa các vị trí vào và ra của mũi chỉ. Sử dụng bàn tay không thuận của quý vị để giữ đầu dài của chỉ (đầu có kim) theo cách thủ công. Chú ý xem kim nằm ở đâu và cẩn thận để không cho kim chọc vào tay.
  • Để thắt nút đầu tiên, quấn đầu kim (đầu dài) của đường khâu QUA đầu của kìm kẹp kim hai lần. Việc quấn hai lần tạo thành chân của nút thắt bác sĩ phẫu thuật, ngăn không cho lần thắt nút đầu tiên bị lỏng. Tiếp theo, xoay kìm kẹp kim 90 độ và nắm lấy đầu tự do (ngắn) của chỉ. Kéo hai tay ngược chiều nhau để tạo nút thắt đầu tiên xuống da một cách an toàn nhưng không chặt; các mũi khâu chặt có nguy cơ cắt vào da và gây thiếu máu cục bộ do phù nề vết thương sẽ xuất hiện trong vài giờ tiếp theo.
  • Trong lần thắt nút thứ hai và tiếp theo, chỉ quấn đầu có kim của sợi chỉ QUA kìm kẹp kim một lần. Dùng kìm kẹp kim kẹp chặt đầu tự do của sợi chỉ và kéo theo các hướng ngược nhau để thắt chặt nút. Những lần thắt nút tiếp theo này có thể sẽ bị kéo chặt.
  • Lưu ý rằng sợi chỉ luôn được vòng QUA kìm kẹp kim và tay của quý vị di chuyển theo các hướng xen kẽ trên vết rách với mỗi lần thắt chỉ. Tuân thủ phương pháp này đảm bảo rằng tất cả các nút thắt đều là nút thắt vuông.
  • Thắt nút tổng cộng khoảng 4 lần. Sau lần thắt nút cuối cùng, dùng kéo cắt chỉ, để lại đuôi chỉ dài khoảng 1 cm.
  • Nẹp các khớp có các cử động gây căng vết thương (ví dụ: nẹp khuỷu tay để điều trị vết rách ở phần lưng khuỷu tay).
  • Hướng dẫn bệnh nhân giữ cho băng khô, đúng vị trí và quay lại sau 2 ngày để kiểm tra vết thương.
  • Hướng dẫn bệnh nhân quay trở lại nếu có dấu hiệu nhiễm trùng (ví dụ: đau tăng, sưng, đỏ, sốt, các vệt đỏ lan rộng ở đầu gần giống [bệnh viêm hạch bạch huyết nhiễm trùng]).
  • Hướng dẫn bệnh nhân khi nào quay lại để cắt chỉ, thường dựa trên vị trí vết thương: 3 đến 5 ngày đối với mặt, 6 đến 10 ngày đối với da đầu và thân, 10 đến 14 ngày đối với tay và chân và 14 ngày cho các vết thương trên khớp. Cắt chỉ sớm có nguy cơ làm vết thương bị bong ra; tuy nhiên, để giảm sẹo và đường gạch chéo của các mũi khâu trên mặt, một nửa đường khâu (tức là mọi mũi khâu khác) có thể được loại bỏ vào ngày thứ 3 và phần còn lại được loại bỏ vào ngày thứ 5. Một giải pháp thay thế là tháo chỉ cho tất cả các mũi khâu vào ngày thứ 3 và hỗ trợ đóng kín bằng cách dán băng vết thương.
  • Trong quá trình chuẩn bị vết thương trước khi làm thủ thuật, hãy kiểm tra thật kỹ vết thương để tránh mắc phải lỗi thường xuyên mắc phải là không ghi nhận các tổn thương liên quan của các mô lân cận, dị vật, vết xuyên thấu vào khoang cơ thể

Tránh khâu các mũi quá chặt và sử dụng dao đốt một cách tiết kiệm vì cả hai đều có thể gây thiếu máu cục bộ ở mô.

Sau khi cắt chỉ vết thương bao lâu thì lành?

Vết thương cắt chỉ bao lâu thì lành? là thắc mắc của nhiều người bệnh. Vết thương sau khi cắt chỉ bắt đầu lên da non sau khoảng 3 tuần nếu được chăm sóc tốt, không bị tái nhiễm trùng. Người bệnh có bệnh nền đái tháo đường, suy giảm miễn dịch thì thời gian liền vết thương lâu hơn.

Vết thương hở khoảng bao lâu thì lành?

Vết thương được khâu bằng chỉ tự tiêu thông thường sau 7-10 ngày, vết thương sẽ khô và liền miệng. Đối với vết thương lớn và sâu hơn, cần phẫu thuật thì bác sĩ có thể sử dụng chỉ không tiêu. Điều này sẽ giúp bạn chế các biến chứng xảy ra. Sau khoảng 10-21 ngày thì vết thương có thể cắt chỉ.

Mổ đẻ lần 2 sau bao lâu thì cắt chỉ?

Khi mổ đẻ bước sang tuần thứ 2, bác sĩ sẽ chỉ định cắt chỉ sau 5 ngày nếu sinh mổ lần đầu tiên, sau 7 - 8 ngày nếu mổ lại lần 2 trở lên. Nếu các bà mẹ khâu vết mổ bằng chỉ tự tiêu thì không cần cắt.

Sau khi cắt chỉ vết thương bao lâu thì được tắm?

Lưu ý là bệnh nhân sau phẫu thuật cần duy trì vết mổ tuyệt đối khô ráo theo hướng dẫn của bác sĩ. Muốn vậy, người bệnh cần thực hiện những điều sau: Không tắm rửa trong vòng 24 đến 72 tiếng sau khi phẫu thuật để tránh nhiễm trùng. Luôn dành sẵn miếng gạc để chấm nhẹ lên vùng da phẫu thuật.