Biểu đồ so sánh mức lương

- Tiền lương trung bình tháng của Việt Nam chỉ bằng khoảng 1/4 so với Malaysia và bằng 1/2 tiền lương ở Thái Lan và Trung Quốc.

- Theo dự báo của Towers Watson, nếu tính cả yếu tố lạm phát, tiền lương của Việt Nam năm 2015 có thể tăng 4,1%

- Đối với chính phủ Việt Nam, thách thức lớn nhất là cân bằng giữa thu nhập của người dân và đưa Việt Nam trở thành điểm thu hút đầu tư hấp dẫn.

Trong một nghiên cứu mới đây của Công ty dịch vụ đầu tư quốc tế Dezan Shira & Associates về thị trường ASEAN, Trung Quốc và Ấn Độ, các nhà nghiên cứu đã tổng hợp bảng so sánh tiền lương tối thiểu, tiền lương trung bình và GDP/người của các quốc gia Châu Á, trong đó có Việt Nam dựa trên số liệu lao động - tiền lương của ILO năm 2012 và số liệu GDP của World Bank năm 2013.

Theo Chris Devonshire-Ellis, Chủ tịch Dezan Shira & Associates, trong khu vực Châu Á, Philippines và Việt Nam là 2 quốc gia đang dần thay thế Trung Quốc trong chuỗi chuyển dịch của công xưởng thế giới, đều có lợi thế về nguồn lao động lớn và chi phí tiền lương rẻ.

Nhìn trên biểu đồ có thể thấy, tiền lương trung bình 1 lao động Trung Quốc kiếm được cao gấp đôi, thậm chí gấp 3 so với người lao động thuộc các nền kinh tế mới nổi khác ở Châu Á. Cụ thể, so với Việt Nam và Philipines, tiền lương của Trung Quốc cao gấp 2 lần; so với Ấn Độ và Indonesia, con số này cao gấp 3 lần.

Như vậy, so với Trung Quốc – đất nước có chi phí tiền lương đang tăng cao chóng mặt thì các nước còn lại trong khu vực Châu Á đều có mức lương khá cạnh tranh; đáng chú ý là Ấn Độ và Indonesia – 2 quốc gia có nguồn lực lao động dồi dào.

Tiền lương trung bình tháng của Việt Nam chỉ bằng khoảng 1/4 so với Malaysia và bằng 1/2 tiền lương ở Thái Lan. Trong khu vực Đông Nam Á, tiền lương của Việt Nam cao hơn Indonesia 47USD/tháng và vẫn thấp hơn Philipines 19USD/tháng.

Trong khi đó, dự báo về triển vọng tiền lương khu vực Châu Á năm 2015 của Công ty tư vấn nhân sự Towers Watson cho hay, nếu tính cả yếu tố lạm phát, tiền lương của Trung Quốc vẫn tiếp tục dẫn đầu năm 2015 với mức tăng 5,2%. Việt Nam theo sát Trung Quốc với 4,1%; Ấn Độ 3,5%; Indonesia 3,3%; Malaysia và Singapore 2,2%.

Mức dự báo này phù hợp với xu hướng gần đây của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện tăng lương tối thiểu vùng với mức tăng phụ thuộc vào từng vùng từ 250.000-400.000 VNĐ. Đây là lần tăng lương thứ 4 của Việt Nam trong vòng 5 năm.

Trước đó, mức lương tối thiểu vùng của Việt Nam tăng 9,9% năm 2010; 30,1% năm 2012 và 15,2% năm 2013. Các mức tăng này đều phù hợp với lạm phát từng năm của Việt Nam: năm 2010 là 8,9%; năm 2011 là 18,7%; năm 2012 là 9,1% và năm 2013 là 6,6%.

Đối với chính phủ Việt Nam, thách thức lớn nhất là cân bằng giữa thu nhập của người dân và đưa Việt Nam trở thành điểm thu hút đầu tư hấp dẫn. Gần đây, Việt Nam đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát và thu hẹp khoảng cách về tiền lương.

Mục tiêu của Việt Nam là hướng tới một thị trường, 1 cơ sở sản xuất hàng đầu Đông Nam Á nhưng vẫn có khả năng cạnh tranh về tiền lương với các nền kinh tế lớn trong khu vực.

+ Đồng bằng sông Hồng (488,2) và Đông Nam Bộ (833) trong đó Đông Nam Bộ có mức thu nhập cao nhất cả nước.

- Các vùng có mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn mức trung bình cả nước là : Đông Bắc (379,9), Tây Bắc (265,7), Bắc Trung Bộ (317,1), Tây Nguyên (390,2), Duyên hải Nam Trung Bộ (414,9), đồng bằng sông Cửu Long (471).

Trong đó vùng Tây Bắc có mức thu nhập thấp nhất cả nước, tiếp đến là vùng Bắc Trung Bộ.

- Thu nhập bình quân đầu người/tháng có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng đồng bằng : Đồng bằng sông Hồng (488,2), đồng bằng sông Cửu Long (471) trong khi Đông Nam Bộ là 833 nghìn đồng (gấp gần 2 lần).

- Giữa các vùng núi cũng có sự chênh lệch : vùng Tây Bắc là 265,7 nghìn đồng, trong khi Đông Bắc là 379,9 nghìn đồng, Tây Nguyên (390,2 nghìn đồng).

* Giai đoạn 1999 – 2004, mức thu nhập bình quân đầu người/tháng giữa các vùng đều có xu hướng tăng.

- Đông Bắc có tốc độ tăng nhanh nhất, tiếp theo là Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ.

- Tây Nguyên từ 1999 đển 2002 giảm, đến năm 2004 tăng.

\=> Nguyên nhân: do sự khác nhau về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội giữa các vùng

- Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là những khu vực có nền kinh tế phát triển năng động nhất cả nước; điều kiện sinh sống làm việc rất thuận lợi, dân cư chủ yếu hoạt động trong ngành công nghiệp và dịch vụ => đời sống người dân cao, thu nhập ổn định hơn.

- Vùng Tây Bắc và Bắc Trung Bộ điều kiện kinh tế - xã hội còn chưa phát triển, hoạt động kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế thấp => thu nhập và mức sống thấp.

Loigiaihay.com

  • Vẽ biểu đồ thể hiện thu nhập bình quân đầu người/ tháng giữa các vùng nước ta, năm 2004 Vẽ biểu đồ thể hiện thu nhập bình quân đầu người/tháng giữa các vùng nước ta, năm 2004.

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Địa lí lớp 12 - Xem ngay

\>> Luyện thi TN THPT & ĐH năm 2024 trên trang trực tuyến Tuyensinh247.com. Học mọi lúc, mọi nơi với Thầy Cô giáo giỏi, đầy đủ các khoá: Nền tảng lớp 12; Luyện thi chuyên sâu; Luyện đề đủ dạng; Tổng ôn chọn lọc.

Chủ đề