Chức năng tiền tệ nào quan trọng nhất

Bản chất của tiền chỉ được hiểu một cách đầy đủ thông qua các chức năng của tiền tệ. Theo K.Marx, tiền tệ có năm chức năng cơ bản sau đây.

1. Chức năng phương tiện lưu thông

Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện lưu thông khi tiền tệ được sử dụng làm môi giới trung gian phục vụ cho lưu thông hàng hóa. Tiền tệ vận động đồng thời và ngược chiều so với sự vận động của hàng hóa. Hay nói một cách khác tiền tệ được sử dụng làm phương tiện để phục vụ cho sự chuyển hóa theo công thức:

  • H-T-H (Hàng hóa – Tiền tệ – Hàng hóa).

Sự tham gia của tiền tệ vào quá trình lưu thông hàng hóa đã phân biệt và tiến bộ hơn hẳn so với trao đổi hàng hóa trực tiếp (H-H).

Sự phân biệt và tiến bộ này thể hiện ở chỗ:

  • Thứ nhất, lưu thông hàng hóa được tách thành hai giai đoạn riêng biệt đó là quá trình bán và quá trình mua. Giai đoạn H-T là giai đoạn bán hàng, là giai đoạn chuyển hóa giá trị của hàng hóa thành tiền tệ. Đây là giai đoạn khó khăn nhất của những người sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế. Giai đoạn T-H, là giai đoạn chuyển hóa giá trị thành giá trị sử dụng của hàng hóa. Người sở hữu tiền tệ có thể thực hiện giai đoạn ngày một cách dễ dàng. Hai giai đoạn này có thể được thực hiện độc lập với nhau.
  • Thứ hai, lưu thông hàng hóa tách rời hành động mua và bán cả về không gian và thời gian. Nghĩa là người sản xuất hàng hóa có thể bán ở chỗ này và mua ở chỗ khác, bán lúc này và mua lúc khác, vì vậy đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, thúc đẩy chu chuyển tiền tệ phục vụ cho lưu thông hàng hóa tốt nhất, nhưng có thể dẫn đến hiện tượng mất cân đối giữa cung và cầu hàng hóa về không gian và thời gian.

Thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất: Phải sử dụng tiền mặt:

Tiền mặt là tiền được làm bằng nguyên liệu cụ thể như: kim loại hoặc giấy, có hình dáng, kích thước, hoa văn,… và tiêu chuẩn giá cả nhất định được pháp luật Nhà nước thừa nhận và có giá trị lưu thông.

Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông bắt buộc phải sử dụng tiền mặt, bởi vì trong quá trình trao đổi này có sự chuyển những quyền sở hữu giữa người sở hữu hàng hóa và người sở hữu tiền tệ. Bằng chứng duy nhất chứng minh lao động của người sản xuất hàng hóa bỏ ra là cần thiết cho xã hội, khi mà hàng hóa của hộ được bán hết và tiền mặt chính là “giấy chứng nhận”.

Mặt khác, đây là chức năng vận động của tiền tệ, nên phải có sự vận động của tiền tệ mới có sự vận động của hàng hóa.

Thứ hai: Có thể sử dụng dấu hiệu giá trị:

Mục đích của người bán hàng không phải là để sở hữu tiền tệ vĩnh viễn mà là để mua hàng hóa khác, là để đạt đến một giá trị sử dụng mới. Do đó tiền tệ đối với họ chỉ là môi giới thoáng qua. Chính vì vậy, khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông không nhất thiết phải sử dụng tiền đủ giá – tiền đúc bằng vàng, mà có thể sử dụng dấu hiệu giá trị như tiền giấy, tiền kim loại kém giá đều được.

Thứ ba: lưu thông chỉ chấp nhận một khối lượng tiền tệ nhất định:

Khối lượng tiền tệ nhất định được lưu thông chấp nhận là khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông trong một thời gian (Kc), khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông phụ thuộc vào hai yếu tố:

  • Tổng giá cả hàng hóa đưa ra lưu thông (H): giả sử trong nền kinh tế không có hiện tượng mua bán chịu, không có lưu thông ngoại tệ, chỉ có lưu thông nội tệ khi tổng giá cả hàng hóa lưu thông tăng lên, số tiền cần thiết cho lưu thông cũng tăng lên, hay nói cách khác số lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng giá cả hàng hóa trong lưu thông.
  • Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ (hay còn gọi là vòng quay bình quân của tiền tệ – V): Khác với hàng hóa, sau quá trình lưu thông hàng hóa đi vào tiêu dùng và mất đi còn tiền tệ lại luôn luôn vận động trong lưu thông. Một đơn vị tiền tệ có thể thực hiện được nhiều lần giá trị của hàng hóa.

Số lần thực hiện trao đổi giữa tiền tệ và hàng hóa trong một đơn vị thời gian được gọi là tốc độ lưu thông tiền tệ. Tốc độ lưu thông tiền tệ là một đại lượng chỉ rõ trong một thời gian nhất định, một đơn vị tiền tệ thực hiện được bao nhiêu lần chức năng phương tiện lưu thông.

Số lượng tiền tệ cần thiết thực hiện chức năng phương tiện lưu thông sẽ đồng thời thời chịu tác động của cả hai yếu tố trên. Mối quan hệ hữu cơ giữa hai yếu tố này là nội dung của quy luật khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông trong một thời gian, được gọi là quy luật lưu thông tiền tệ. Nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ được phát biểu: “Khối lượng tiền cần thiết thực hiện chức năng phương tiện lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá cả hàng hóa trong lưu thông và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông bình quan của tiền tệ trong thời kỳ đó”.

Quy luật này được viết dưới dạng công thức như sau: K = H : V

Trong đó:

  • K: Khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông trong một thời gian (Kc).
  • H: Tổng giá cả hàng hóa lưu thông trong một thời gian.
  • H = h x g
  • h: Khối lượng hàng hóa lưu thông.
  • g: Đơn giá hàng hóa bình quân.
  • V: Vòng quay (tốc độ lưu thông) bình quân của tiền tệ trong một thời gian.

Yêu cầu quy luật lưu thông tiền tệ: Kt = Kc

Trong đó:

  • Kt: Khối lượng tiền tệ thực tế lưu thông trong một thời gian.
  • Kc: Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian. Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật kinh tế phổ biến và rất quan trọng của nền kinh tế. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để xác định được khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông trong một thời gian một cách chính xác, trên cơ sở đó để cung ứng tiền cho lưu thông phù hợp.

Ý nghĩa thực tế của quy luật lưu thông tiền tệ ở chỗ đã chỉ ra sự cần thiết phải kiểm soát khối lượng tiền tệ lưu thông và phương hướng tác động vào khối lượng tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế của ngân hàng trung ương các quốc gia.

Mặc dù quy luật lưu thông tiền tệ không thể hiện được đầy đủ mối quan hệ định lượng giữa các yếu tố có ảnh hưởng tới khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian, nên khả năng áp dụng quy luật lưu thông tiền tệ vào hoạt động thực tiễn ngân hàng không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả như mong muốn.

Tuy nhiên, việc vận dụng quy luật khối lượng cần thiết cho lưu thông trong một thời gian để điều hành chính sách tiền tệ có ý nghĩa thực tiễn nhất định.

2. Chức năng thước đo giá trị

Tiền tệ thực hiện chức năng thước đo giá trị khi giá trị của tiền tệ được dùng làm chuẩn đo lường giá trị của hàng hóa khác. Thông qua quan hệ so sánh này, giá trị của các hàng hóa được biểu hiện thành giá cả hàng hóa. Thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ là thước đo hao phí lao động xã hội kết tinh trong các hàng hóa.

Muốn thực hiện được chức năng này, tiền tệ có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, tiền tệ phải có đầy đủ giá trị nội tại:

Bản thân hàng hóa đã có giá trị nội tại, bởi vậy để đo được những lượng giá trị này thì “thước đo” tiền tệ cũng phải có một lượng giá trị nào đó. Nếu “thước đo” không có giá trị nội tại thì không thể là cơ sở để so sánh với giá trị hàng hóa được. Hay nói cách khác, vì mọi hàng hóa đều có giá trị, nên để đo lường được tất cả các hàng hóa có giá trị thì tiền tệ cũng phải có giá trị mới có sự đồng nhất về chất để đo lường.

Thứ hai, tiền phải có tiêu chuẩn giá cả:

Tiền tệ phải được quy định tiêu chuẩn giá cả mới thực hiện được chức năng thước đo giá trị. Bởi vì thế giới hàng hóa rất đa dạng, có nhiều hàng hóa với những lượng giá trị khác nhau, có hàng hóa có giá trị cao, nhưng có hàng hóa lại có giá trị thấp. Để có thể đo được tất cả những lượng giá trị phong phú này, phải xác định tiêu chuẩn giá cả của tiền tệ. Trên cơ sở tiêu chuẩn giá cả nhà nước sẽ phát hành tiền tệ theo bội số và ước số của đơn vị tiền tệ.

Thứ ba, khi thực hiện chức năng thước đo giá trị không nhất thiết phải sử dụng tiền mặt, mà chỉ sử dụng tiền trong ý niệm:

Nghĩa là những người tham gia trao đổi hàng hóa so sánh một cách tưởng tượng hao phí lao động sản xuất ra hàng hóa với giá trị của tiền tệ đơn vị, xem hao phí lao động này là ước số hay bội số của tiền tệ đơn vị, trên cơ sở này xác lập một tỷ lệ trao đổi thích hợp giữa hàng hóa và tiền tệ. Việc so sánh tưởng tượng như trên gần như khả năng bẩm sinh của những người sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế thị trường.

Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã làm cho mọi hàng hóa đều có một tiếng nói chung – đó là giá cả.

Giá cả của hàng hóa là giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng tiền. Thực chất giá cả của hàng hóa là tỷ lệ so sánh giữa giá trị của nó với giá trị của tiền tệ hay nói một cách khác giá cả của hàng hóa là một đại lượng tỉ lệ thuận với giá trị của hàng hóa và tỷ lệ nghịch với giá trị của tiền tệ.

Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi cất giữ sức mua qua thời gian. Thực hiện chức năng này thì tiền tệ tạm thời được rút khỏi lưu thông, trở về trạng thái tĩnh, chuẩn bị cho tiêu dùng trong tương lai hoặc đơn thuần là việc để lại của cải tích lũy cho tương lai.

Khi tiền tệ chưa xuất hiện, việc cất giữ như vậy có thể thực hiện bằng tích lũy dưới hình thái hiện vật như: đất đai, nhà cửa, tài nguyên. Một số loại tài sản như vậy có thể đem lại một mức lãi cao hơn cho người giữ hoặc có thể chống đỡ lại sự tăng cao về giá so với việc giữ tiền mặt dự trữ giá trị. Song hình thức này có một số điểm hạn chế như phải có kho tàng, tốn chi phí bảo quản, dễ hư hỏng, khó thanh khoản.

Khi tiền tệ xuất hiện, việc tích lũy giá trị dưới hình thức hiện vật dần được thay thế dưới dạng tiền tệ. Hình thái này có nhiều ưu điểm, điểm nổi bật là dễ lưu thông và thanh khoản. Tuy nhiên, tích lũy dưới hình thái tiền tệ có nhược điểm là có thể dễ mất giá khi nền kinh tế có lạm phát. Do vậy, việc thực hiện chức năng phương tiện tích lũy của tiền tốt đến đâu tùy thuộc vào sự ổn định của mức giá chung, do giá trị của tiền được xác định theo khối lượng hàng hóa mà nó có thể đổi được. Hệ thống tiền tệ quốc gia phải đảm bảo được sức mua là điều kiện tiên quyết để thực hiện chức năng này của tiền.

4. Chức năng phương tiện thanh toán

Tiền tệ là phương tiện thực hiện quan hệ trao đổi hàng hóa dịch vụ. Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán khi tiền tệ vận động độc lập tương đối hoặc tách rời với hàng hóa, đồng thời là vật kết thúc quá trình trao đổi. Lúc này tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện thanh toán.

Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền tệ không chỉ được sử dụng để trả các khoản nợ về mua chịu hàng hóa, mà tiền tệ còn được sử dụng để thanh toán những khoản nợ vượt ra bên ngoài phạm vi trao đổi hàng hóa như: nộp thuế, trả lương, trả nợ tiền vay, chi dịch vụ và đóng góp các khoản khác.

Khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán có thể sử dụng tiền mặt, có thể không sử dụng tiền mặt mà sử dụng tiền chuyển khoản.

Khi nền kinh tế thị trường phát triển càng cao, hệ thống ngân hàng càng hiện đại, nếu các ngân hàng thương mại hoàn hảo trong dịch vụ thanh toán cho khách hàng thì doanh số thanh toán không dùng tiền mặt càng chiếm tỷ trọng lớn và tỷ trọng doanh số thanh toán bằng tiền mặt giảm xuống tương ứng. Điều này rất có lợi cho đến lưu quan xã hội vì đã tiết kiệm được tiền mặt và các chi phí liên thông tiền mặt như chi phí in tiền, đúc tiền, vận chuyển tiền, bảo quản tiền, kiểm đếm, giao nhận, thu hồi, thay thế, tiêu hủy.

Chức năng phương tiện thanh toán xuất hiện đã phát sinh quan hệ tín dụng giữa những người mua người bán chịu hàng hóa. Do đó đã làm cho khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông tại một thời điểm nhất định cũng thay đổi bởi quan hệ mua – bán chịu trên.

Chính vì vậy khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông trong một thời gian có sự thay đổi và được diễn đạt như sau: K = (H-C+D-B) : V

Trong đó:

  • K: là khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian.
  • H: là tổng giá cả hàng hóa và dịch vụ bán lấy tiền ngay.
  • C: là tổng giá cả hàng hóa bán chịu.
  • D: là giá cả hàng hóa đến hạn thanh toán.
  • B: là giá cả hàng hóa được thực hiện bằng cách thanh toán bù trừ.
  • V: là vong quay (tốc độ lưu thông) bình quân của tiền tệ.

Khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán thì khả năng thanh toán của từng đối tượng trong lưu thông hàng hóa có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu một trong các “mắt xích” không có khả năng trả nợ thì lập tức dây chuyền bị phá vỡ và khả năng khủng hoảng cục bộ có thể xảy ra.

5. Chức năng tiền tệ thế giới

Tiền tệ thế giới là phương tiện thanh toán và chi trả chung giữa các quốc gia. Thực hiện chức năng tiền tệ thế giới khi tiền tệ làm thước đo giá trị chung, làm phương tiện thanh toán chung và là phương tiện di chuyển tài sản giữa các quốc gia trên toàn thế giới.

Khác với tiền tệ quốc gia chỉ lưu thông và thanh toán có giới hạn trong phạm vi của một nước còn tiền tệ thế giới không những là phương tiện thanh toán chung, là phương tiện chi trả chung, mà còn là phương tiện di chuyển của cải giữa các quốc gia trong phạm vi toàn thế giới.

Tất cả các đồng tiền quốc gia ngày nay đều không thực hiện được chức năng tiền tệ thế giới, vì thực hiện chức năng tiền tệ thế giới phải là vàng. Ngày nay, vàng ít được lưu thông, mà chủ yếu là lưu thông dấu hiệu giá trị. Vàng chỉ được sử dụng để thanh toán cuối cùng khi cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia nào đó bị bội chỉ hoặc vì một nhu cầu khẩn cấp của quốc gia đó.

Đồng USD là đồng tiền được sử dụng rộng rãi trong dự trữ ngoại hối và thanh toán quốc tế, hiện nay chưa có đồng tiền nào trên thế giới có thể thay thế vai trò của nó.

Dưới đây là một số lý giải tại sao đồng USD duy trì được vị trí độc tôn trong thương mại quốc tế như vậy.

  • Nước Mỹ là một thị trường tiêu dùng lớn của thế giới: Trong thương mại quốc tế thì thị trường Mỹ là một thị trường tiêu dùng chiếm tỷ trọng lớn trên thế giới kể cả tiêu dùng trực tiếp lẫn trung chuyển. Do vậy, khi thực hiện việc trao đổi thương mại đương nhiên người Mỹ yêu phải phải dùng đồng tiền của họ trong thanh toán quốc tế.
  • Nước Mỹ có nền kinh tế mạnh và có uy tín: Đồng USD được lưu hành rộng rãi được đảm bảo bằng uy tín của một cường quốc kinh tế mạnh nhất thế giới. Nếu xảy ra những cú sốc gây ra hiện tượng bán tháo đồng tiền USD trên thế giới thì nước Mỹ vẫn hoàn toàn có thể chịu đựng được vì họ là nền kinh tế mạnh. Thử tượng tượng cuộc khủng hoảng tài chính tại châu Á khi đồng bạt Thái bị giới đầu cơ bán mạnh thì chính phủ các nước này đã điêu đứng và tạo ra những phản ứng dây chuyền tới một loạt các quốc gia châu Á khác, mặc dù đồng tiền của các nước này vẫn chỉ sử dụng nhỏ ở quy mô nội địa nhưng cho phép tự do tài khoản vốn, tự do tiền tệ.
  • Nước Mỹ có Ngân hàng Trung ương độc lập: Một ngân hàng Trung ương độc lập có quyền ra những quyết định nhanh chóng để can thiệp vào thị trường tiền tệ ứng phó với những biến động nhanh chóng của thị trường. Với các nước mà NH trung ương mà quyền can thiệp và phát hành tiền tệ thường phải được sự đồng ý của quốc hội hoặc như đồng EUR khi muốn phát hành thêm tiền tệ phải được sự thống nhất của nhiều quốc gia.
  • Khả năng can thiệp của Mỹ: Mỹ có thể can thiệp tới mọi nơi trên thế giới bằng cả quân sự và kinh tế. Đây là đặc điểm mà không có nước nào trên thế giới có được, với bất cứ điều gì ảnh hưởng tới quyền lợi Mỹ và nền kinh tế Mỹ họ đều có thể giải quyết được nhanh chóng và dễ dàng hơn nhiều so với các quốc gia hoặc các liên minh quốc gia khác.
  • Đồng USD đã được sử dụng làm dự trữ và thanh toán quốc tế trong một khoảng thời gian dài. Để thay đổi một thói quen không dễ dàng và càng không đơn giản khi nó động chạm tới lợi ích của nhiều quốc gia. Lấy ví dụ như Trung Quốc đang có dự trữ ngoại hối rất lớn bằng đồng USD, tuy họ luôn kêu gọi giảm bớt vai trò của đồng USD nhưng khi USD giảm giá thì người thiệt hại đầu tiên là Trung Quốc. Do vậy, không đơn giản khi muốn thay thế vai trò dự trữ và thanh toán của đồng USD bằng một đồng tiền khác.

6. Mối quan hệ giữa các chức năng của tiền tệ

Giữa các chức năng của tiền tệ có mối quan hệ chặt chẽ và tác động chuyển hóa lẫn nhau. Trong đó chức năng thước đo giá trị và chức năng phương tiện lưu thông là hai chức năng cơ bản và quan trọng không thể thiếu của tiền tệ, bởi lẽ khi thực hiện chức năng thước đo giá trị tiền tệ chỉ mới đo lường giá trị hàng hóa trên cơ sở đó biểu hiện giá trị hàng hóa thành giá cả hàng hóa, có nghĩa là lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa mới chỉ được biểu hiện ra thành tiền tệ.

Chỉ khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông thì giá cả hàng hóa mới được thực hiện, nghĩa là lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa mới được thừa nhận, sự thừa nhận này chính là khối lượng hàng hóa đã bán, đã chuyển hóa thành tiền tệ.

Tiền tệ là vật có giá trị hoàn toàn và có khả năng mua trong tương lai nên người ta mới cất trữ tiền tệ. Hay nói một cách khác chỉ khi nào tiền tệ thực hiện thước đo giá trị và phương tiện lưu thông thì mới trở thành vật trực tiếp đại hiện cho của cải xã hội, lúc đó mới thực hiện được chức năng phương tiện cất trữ.

Trong nền kinh tế phát triển, mối liên hệ giữa những người sản xuất hàng hóa ngày một phong phú và đa dạng, người sản xuất có thể mua lúc này bán lúc khác, mua nơi này bán nơi khác, mua trước trả tiền sau, trả tiền trước nhận hàng sau đã làm nảy sinh quan hệ mua bán chịu hoặc việc ứng trước tiền hàng – tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện thanh toán. Ngược lại khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán đã tạo điều kiện làm cho chức năng phương tiện lưu thông và chức năng phương tiện cất trữ phát triển.

Khi tiền tệ được sử dụng làm phương tiện đo lường giá cả hàng hóa, phương tiện để mua chung, phương tiện để thanh toán chung, phương tiện cất trữ và di chuyển tài sản ra phạm vi toàn cầu thì lúc đó là lúc tiền tệ thực hiện được chức năng tiền tệ thế giới.

Lưu ý: Ngày nay toàn thế giới lưu hành các loại tiền tệ là dấu hiệu giá trị, mà các dấu hiệu giá trị không có giá trị nội tại, nên không thực hiện đầy đủ năm chức năng của tiền tệ mà chỉ thực hiện được các chức năng không cần đòi hỏi phải có của tiền vàng, như:

Chủ đề