Công thức hóa học thực phẩm khó nhất năm 2024

Dinh dưỡng là khoa học về thực phẩm và mối quan hệ của nó tới sức khoẻ. Các chất dinh dưỡng là các chất hóa học trong thực phẩm được cơ thể sử dụng cho sự tăng trưởng, duy trì và hoạt động.

Cơ thể không thể tự tổng hợp được các chất dinh dưỡng và vì vậy phải được cung cấp từ chế độ ăn. Chúng bao gồm

  • Một số axit amin
  • Một số axit béo

Các chất dinh dưỡng mà cơ thể có thể tự tổng hợp từ những thành phần khác mặc dù chúng cũng có thể được cung cấp từ chế độ ăn, được coi là không thiết yếu. Tuy nhiên, trong một số tình trạng nhất định, chẳng hạn như bệnh tật hoặc căng thẳng, quá trình tổng hợp các chất dinh dưỡng bình thường không cần thiết có thể bị ảnh hưởng, do đó khiến các chất dinh dưỡng đó trở thành thiết yếu. Những chất dinh dưỡng thiết yếu có điều kiện này sau đó phải được cung cấp theo chế độ ăn uống.

Thiếu hụt các chất dinh dưỡng có thể dẫn đến suy dinh dưỡng Tổng quan về Thiếu dinh dưỡng Thiếu dinh dưỡng là một dạng của suy dinh dưỡng. (Suy dinh dưỡng cũng bao gồm thừa dinh dưỡng.) Thiếu dinh dưỡng có thể là kết quả từ ăn không đủ các chất dinh dưỡng, giảm hấp thu, chuyển hóa... đọc thêm , từ đó có thể gây ra các hội chứng thiếu hụt (như, , bệnh pellagra Thiếu niacin Thiếu niacin trong chế độ ăn uống (gây ra bệnh pellagra) không phổ biến ở các quốc gia có tỷ lệ mất an ninh lương thực thấp. Các biểu hiện lâm sàng bao gồm ba dữ liệu: nổi ban sắc tố cục bộ... đọc thêm

Công thức hóa học thực phẩm khó nhất năm 2024
). Ăn quá nhiều các chất dinh dưỡng đa lượng có thể dẫn đến béo phì Béo phì Béo phì là trọng lượng tăng quá mức, được định nghĩa là chỉ số khối cơ thể (BMI) ≥30 kg/m2. Các biến chứng bao gồm rối loạn tim mạch (đặc biệt ở những người thừa mỡ bụng), đái tháo... đọc thêm và các rối loạn liên quan; Sử dụng quá nhiều các chất dinh dưỡng vi lượng có thể gây độc. Ngoài ra, sự cân bằng của các loại chất dinh dưỡng khác nhau, chẳng hạn như lượng chất béo không bão hòa và chất béo bão hòa được tiêu thụ, có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của các rối loạn.

Các chất dinh dưỡng đa lượng cấu thành phần lớn của chế độ ăn và cung cấp năng lượng và nhiều dưỡng chất thiết yếu. Carbohydrate, Protein (bao gồm các axit amin thiết yếu), các chất béo (bao gồm các axit béo thiết yếu), các chất khoáng đa lượng và nước là các chất dinh dưỡng đa lượng. Carbohydrate, chất béo và protein có thể thay thế cho nhau thành nguồn năng lượng; chất béo cung cấp 9 kcal/g (37,8 kJ/g); protein và carbohydrate cung cấp 4 kcal/g (16,8 kJ/g).

Carbohydrate trong chế độ ăn được chuyển thành glucose và các monosaccharid khác. Carbohydrate làm tăng mức glucose trong máu, cung cấp năng lượng.

Carbohydrate đơn giản được tạo thành bởi các phân tử nhỏ, thường là các monosaccharid hoặc các disaccharid, làm tăng mức glucose trong máu nhanh.

Carbohydrate phức tạp bao gồm ba hoặc nhiều monosacarit gắn kết với nhau, sau đó được phân hủy thành monosacarit trong quá trình tiêu hóa. Các carbohydrate phức tạp làm tăng mức đường trong máu chậm hơn nhưng trong một thời gian dài.

Glucose và sucrose là những carbohydrate đơn giản; tinh bột, chất xơ và glycogen là những carbohydrate phức tạp.

Chỉ số đường huyết là một cách phân loại thực phẩm dựa trên mức độ tiêu thụ carbohydrate có sẵn nhanh như thế nào làm tăng nồng độ đường huyết so với tiêu chuẩn. Giá trị dao động từ 1 (tăng chậm nhất) đến 100 (tăng nhanh nhất, tương đương với glucose nguyên chất – xem bảng ). Tuy nhiên, tỷ lệ tăng thực tế cũng phụ thuộc vào loại thực phẩm nào được tiêu thụ với carbohydrate.

Công thức hóa học thực phẩm khó nhất năm 2024

Carbohydrate với chỉ số đường huyết cao có thể làm tăng nhanh glucose huyết tương lên mức cao. Có giả thuyết cho rằng hậu quả là mức insulin tăng, gây hạ đường huyết và đói, có xu hướng dẫn đến tiêu thụ calo vượt ngưỡng và tăng cân. Carbohydrate với chỉ số đường huyết thấp sẽ làm tăng chậm nồng độ glucose huyết tương, dẫn đến mức insulin sau ăn thấp hơn và ít đói hơn, có thể làm cho ít bị tiêu thụ calo vượt ngưỡng hơn. Những ảnh hưởng này được cho là dẫn đến một tình trạng lipid thuận lợi hơn và giảm nguy cơ béo phì Béo phì Béo phì là trọng lượng tăng quá mức, được định nghĩa là chỉ số khối cơ thể (BMI) ≥30 kg/m2. Các biến chứng bao gồm rối loạn tim mạch (đặc biệt ở những người thừa mỡ bụng), đái tháo... đọc thêm , bệnh đái tháo đường Đái tháo đường (DM) Đái tháo đường là suy giảm bài tiết insulin và nồng độ kháng insulin ngoại vi thay đổi dẫn đến tăng đường huyết. Triệu chứng sớm liên quan tới tăng glucose máu và bao gồm uống nhiều, khát nhiều... đọc thêm , và các biến chứng của bệnh đái tháo đường Biến chứng của đái tháo đường Bệnh nhân đái tháo đường (DM), nhiều năm kiểm soát đường huyết kém dẫn đến nhiều biến chứng, chủ yếu mạch máu, ảnh hưởng mạch máu nhỏ (vi mạch), mạch máu lớn (mạch máu lớn), hoặc cả hai. Các... đọc thêm

Công thức hóa học thực phẩm khó nhất năm 2024
nếu có.

Chất xơ là một loại carbohydrate phức tạp và tồn tại ở nhiều dạng khác nhau (ví dụ: cellulose, hemicellulose, pectin, gôm). Chất xơ có thể hòa tan hoặc không hòa tan. Chất xơ không hòa tan làm tăng nhu động ruột, ngăn ngừa táo bón Táo bón Táo bón là khó khăn hoặc giảm tần suất đại tiện, phân cứng, hoặc cảm giác tống phân không hết. (Xem thêm Táo bón ở trẻ em.) Không có chức năng cơ thể nào có nhiều biến đổi và chịu ảnh hưởng... đọc thêm , tăng khối lượng phân và giúp kiểm soát bệnh túi thừa Định nghĩa bệnh túi thừa Túi thừa là các túi niêm mạc nhô ra từ cấu trúc ống. Túi thừa thật của đường tiêu hóa (GI) có tất cả các lớp của thành GI. Túi thừa thực quản (bao gồm túi thauwf Zenker) và túi thừa Meckel là... đọc thêm . Chất xơ không hòa tan được cho là có tác dụng đẩy nhanh quá trình loại bỏ các chất gây ung thư do vi khuẩn trong ruột già tạo ra. Bằng chứng dịch tễ gợi ý một mối liên hệ giữa ung thư đại tràng Ung thư đại trực tràng Ung thư đại trực tràng là bệnh rất phổ biến. Các triệu chứng bao gồm máu trong phân và thay đổi thói quen đại tiện. Nên sàng lọc bằng một trong một số phương pháp cho các quần thể thích hợp... đọc thêm

Công thức hóa học thực phẩm khó nhất năm 2024
với lượng chất xơ ăn vào thấp và một ảnh hưởng có lợi của chất xơ ở bệnh nhân rối loạn chức năng ruột, bệnh Crohn Bệnh Crohn Bệnh Crohn là một bệnh viêm ruột xuyên thành mạn tính thường ảnh hưởng đến đoạn xa của hồi tràng và ruột kết nhưng có thể xảy ra ở bất kỳ phần nào của đường tiêu hóa. Triệu chứng bao gồm tiêu... đọc thêm
Công thức hóa học thực phẩm khó nhất năm 2024
, béo phì Béo phì Béo phì là trọng lượng tăng quá mức, được định nghĩa là chỉ số khối cơ thể (BMI) ≥30 kg/m2. Các biến chứng bao gồm rối loạn tim mạch (đặc biệt ở những người thừa mỡ bụng), đái tháo... đọc thêm , hoặc bệnh trĩ Bệnh trĩ Trĩ là các tĩnh mạch giãn của đám rối trĩ ở ống hậu môn. Các triệu chứng bao gồm kích thích và chảy máu. Trĩ tắc mạch thường đau đớn. Chẩn đoán bằng kiểm tra kỹ và soi hậu môn. Điều trị theo... đọc thêm
Công thức hóa học thực phẩm khó nhất năm 2024
. Chất xơ hòa tan (có trong trái cây, rau, yến mạch, lúa mạch, đậu) làm giảm tăng glucose trong máu sau ăn và insulin và có thể làm giảm mức cholesterol.

Chế độ ăn điển hình của phương Tây có ít chất xơ (khoảng 12 g đến 17 g/ngày) do ăn nhiều bột mì tinh chế cao và ăn ít trái cây và rau. Tăng lượng chất xơ đưa vào khoảng 30g/ngày bằng cách ăn nhiều rau, hoa quả, ngũ cốc và hạt được khuyến cáo chung. Tuy nhiên, lượng chất xơ đưa vào cao có thể làm giảm sự hấp thu của một số khoáng chất nhất định.

Protein là các phân tử hữu cơ phức tạp có chứa carbon, hydro, oxy và nitơ. Protein cần phải có để duy trì, thay đổi, hoạt động và phát triển mô. Các protein cụ thể hoạt động như các enzym, tạo nên một số hormone nhất định và đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì cân bằng dịch. Nếu cơ thể không nhận đủ calo từ các nguồn thực phẩm hoặc dự trữ mô (đặc biệt là chất béo), protein có thể được sử dụng để tạo năng lượng. Protein trong chế độ ăn được chuyển thành các peptide và axit amin.

Khi cơ thể sử dụng protein trong chế độ ăn cho sản xuất mô, có một sự tăng lên của protein (cân bằng nitơ tích cực). Trong các trạng thái dị hóa (ví dụ như đói, nhiễm trùng, bỏng), có thể sử dụng nhiều protein hơn (vì mô của cơ thể bị phân hủy) hơn là hấp thụ, dẫn đến giảm protein trên tổng thể (cân bằng nitơ âm). Cân bằng nitơ được xác định tốt nhất bằng cách lấy lượng nitơ tiêu thụ trừ lượng nitơ thải qua nước tiểu và qua phân.

Trong số 20 axit amin, 9 axit amin thiết yếu (EAAs); chúng không thể được tổng hợp và phải được lấy từ chế độ ăn. Tất cả mọi người có nhu cầu 8 axit amin thiết yếu (EAAs); Trẻ sơ sinh cần thêm histidine.

Điều chỉnh nhu cầu protein trong chế độ ăn dựa vào cân nặng có tương quan với tỷ lệ tăng trưởng, trong đó sẽ giảm từ trẻ sơ sinh đến tuổi trưởng thành. Nhu cầu protein trong chế độ ăn hàng ngày giảm từ 2,2 g/kg ở trẻ sơ sinh 3 tháng tuổi xuống 1,2 g/kg ở trẻ 5 tuổi và 0,8 g/kg ở người trưởng thành. Nhu cầu về protein tương ứng với nhu cầu EAA. Ngoài ra, nhu cầu protein cao hơn ở một số bệnh nhân. Ví dụ, nhu cầu protein tăng lên đáng kể trong thời kỳ mang thai và cho con bú cũng như trong thời kỳ tăng trưởng nhanh và phục hồi sau khi ốm. Nhu cầu protein cũng tăng theo tuổi tác ( , ). Người trưởng thành đang cố gắng tăng khối lượng cơ bắp cần thêm protein (ví dụ: 1,4 đến 2,0 mg/kg/ngày) ngoài nhu cầu axit amin thiết yếu trung bình hàng ngày ( ).

Thành phần axit amin của protein thay đổi rất nhiều. Giá trị sinh học (BV) phản ánh sự tương đồng trong thành phần axit amin của protein so với mô của động vật; do đó, BV chỉ ra tỷ lệ của EAA được cung cấp cho cơ thể từ protein trong chế độ ăn:

  • Một sự kết hợp hoàn hảo là protein trong trứng, với giá trị là 100.
  • Protein động vật trong sữa và thịt có một chỉ số BV cao (~ 90).
  • Protein trong ngũ cốc và rau có chỉ số BV thấp hơn (~ 40)
  • Một số protein được chiết xuất (ví dụ, gelatin) có chỉ số BV là 0.

Mức độ mà các loại protein trong chế độ ăn cung cấp mỗi axit amin còn thiếu khác (Bổ sung) xác định tổng thể chỉ số BV của chế độ ăn. Nhu cầu khuyến nghị hàng ngày (RDA) đối với protein giả định chế độ ăn kết hợp trung bình có chỉ số BV là 70.

Các chất béo được phân chia thành các axit béo và glycerol. Các chất béo là cần thiết cho sự tăng trưởng mô và sản xuất hocmon. Các axit béo bão hòa, thông thường trong mỡ động vật, có khuynh hướng đông cứng ở nhiệt độ phòng. Ngoại trừ dầu cọ và dừa, các chất béo có nguồn gốc từ thực vật có xu hướng ở dạng lỏng trong nhiệt độ phòng; những chất béo này chứa hàm lượng của các axit béo không bão hoà đơn hoặc các axit béo không bão hòa đa cao (PUFA).

Việc hydro hóa một phần các axit béo không bão hòa (như xảy ra trong quá trình sản xuất thực phẩm) tạo ra các axit béo chuyển hóa ở dạng đông cứng hoặc nửa đông cứng trong nhiệt độ phòng. Cho đến gần đây, ở Hoa Kỳ, nguồn axit béo chuyển hóa chính trong chế độ ăn uống là dầu thực vật hydro hóa một phần, được sử dụng trong sản xuất một số loại thực phẩm (ví dụ: bánh quy, bánh quy giòn, khoai tây chiên) để kéo dài thời hạn sử dụng. Tuy nhiên, vào năm 2015, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã loại bỏ các loại dầu hydro hóa một phần khỏi danh mục Thường được công nhận là An toàn dựa trên nghiên cứu sâu rộng cho thấy axit béo chuyển hóa làm tăng cholesterol LDL, giảm cholesterol HDL và tăng nguy cơ bị bệnh động mạch vành Tổng quan bệnh động mạch vành Bệnh động mạch vành (CAD) bao gồm sự suy giảm lưu lượng máu qua các động mạch vành, thông thường là do các mảng xơ vữa. Biểu hiện lâm sàng bao gồm thiếu máu cơ tim thầm lặng, đau thắt ngực,... đọc thêm

Công thức hóa học thực phẩm khó nhất năm 2024
. Kể từ tháng 6 năm 2018, chất béo chuyển hóa nhân tạo đã bị cấm ở Mỹ.

  • Axit linoleic, axit béo omega-6 (n-6)
  • Axit linolenic, axit béo omega-3 (n-3)

Cơ thể cần các axit béo omega-6 khác (ví dụ axit arachidonic) và các axit béo omega-3 khác (ví dụ axit eicosapentaenoic, axit docosahexaenoic) nhưng chúng có thể được tổng hợp từ EFA.

EFA là cần thiết cho sự hình thành của các eicosanoid khác nhau (lipid hoạt tính sinh học), bao gồm prostaglandin, thromboxan, prostacyclin và leukotrien. Tiêu thụ các axit béo omega-3 có thể làm giảm nguy cơ bệnh động mạch vành.

Như cầu đối với EFA khác nhau theo độ tuổi. Lượng axit alpha-linolenic đầy đủ là 1,6 g/ngày đối với nam và 1,1 g/ngày đối với nữ. Lượng axit linoleic ăn vào đầy đủ là 17 g/ngày đối với nam và 12 g/ngày đối với nữ từ 19 tuổi đến 50 tuổi. (Lượng ăn vào đầy đủ được định nghĩa là lượng dinh dưỡng trung bình mà một nhóm người khỏe mạnh tiêu thụ hàng ngày.) Nhiều loại dầu thực vật cung cấp axit linoleic và axit linolenic. Dầu làm từ hoa rum, hướng dương, bắp, đậu nành, anh thảo, bí ngô và mầm lúa mì cung cấp một lượng lớn axit linoleic. Dầu cá biển và dầu làm từ hạt lanh, bí ngô, đậu nành, và dầu canola cung cấp một lượng lớn axit linolenic. Dầu cá biển cũng cung cấp một số các axit béo omega-3 khác nhau với khối lượng lớn. Lượng EFA khuyến nghị có thể được đáp ứng với 2 đến 3 muỗng canh chất béo thực vật hàng ngày hoặc bằng cách tiêu thụ khoảng 3 đến 3,5 ounce cá béo nấu chín như cá hồi mỗi tuần hai lần.

Natri, clorua, kali, canxi, phosphate, và magiê được yêu cầu với số lượng tương đối lớn mỗi ngày (xem bảng , , và ).

Công thức hóa học thực phẩm khó nhất năm 2024

Công thức hóa học thực phẩm khó nhất năm 2024

Nước được xem là một chất dinh dưỡng đa lượng bởi vì cung cấp 1mL/kcal (0,24mL/kJ) của năng lượng đã được tiêu hao, hoặc khoảng 2500 mL/ngày. Nhu cầu dao động khi sốt, hoạt động thể chất, và thay đổi khí hậu và độ ẩm. Lượng nước uống đầy đủ cho tổng lượng nước là 2,7 L đối với nữ giới và 3,7 L đối với nam giới.

  • 1. Bauer J, Biolo G, Cederholm T, et al: Evidence-based recommendations for optimal dietary protein intake in older people: a position paper from the PROT-AGE Study Group. J Am Med Dir Assoc 14(8):542-559, 2013 doi:10.1016/j.jamda.2013.05.021
  • 2. Baum JI, Kim IY, Wolfe RR: Protein consumption and the elderly: What is the optimal level of intake? Nutrients 8(6):359, 2016 doi:10.3390/nu8060359
  • 3. Campbell B, Kreider RB, Ziegenfuss T, et al: International Society of Sports Nutrition position stand: protein and exercise. J Int Soc Sports Nutr 4:8, 2007 doi:10.1186/1550-2783-4-8

Các vitamin Tổng quan về Vitamin Các vitamin có thể là Tan trong chất béo (vitamin A, D, E, và K) Tan trong nước (các vitamin B và vitamin C) Các vitamin B bao gồm biotin, folate, niacin, axit pantothenic, riboflavin (vitamin... đọc thêm và các nguyên tố khoáng Tổng quan về các khoáng chất Sáu chất khoáng đa lượng được yêu cầu cho người theo đơn vị gram. Bốn Ion+: Natri, kali, canxi và magiê Hai ion - đi kèm: Chlorua và phốt pho Các nhu cầu hàng ngày dao động từ 0,3 đến 2,0 g... đọc thêm được yêu cầu một lượng nhỏ (nguyên tố khoáng vi lượng) là các chất dinh dưỡng vi lượng.

Vitamin tan trong nước là vitamin C (axit ascorbic) và 8 thành phần của phức hợp vitamin B: biotin Biotin and Pantothenic Acid Biotin hoạt động như một coenzyme cho sự phản ứng carboxyl hóa cần thiết cho sự chuyển hóa chất béo và carbohydrate. Liều ăn đầy đủ đối với người lớn là 30 mcg/ngày. Axit pantothenic được phân... đọc thêm , folate Thiếu folate Sự thiếu hụt folate là phổ biến. Nó có thể là kết quả của việc ăn không đầy đủ, hấp thu kém hoặc sử dụng các loại thuốc khác nhau. Sự thiếu hụt gây ra thiếu máu hồng cầu khổng lồ (không thể... đọc thêm , niacin, axit pantothenic Biotin and Pantothenic Acid Biotin hoạt động như một coenzyme cho sự phản ứng carboxyl hóa cần thiết cho sự chuyển hóa chất béo và carbohydrate. Liều ăn đầy đủ đối với người lớn là 30 mcg/ngày. Axit pantothenic được phân... đọc thêm , riboflavin Thiếu riboflavin Thiếu riboflavin thường xảy ra cùng với sự thiếu hụt các vitamin B khác. Các triệu chứng và dấu hiệu bao gồm đau cổ họng, tổn thương môi và niêm mạc miệng, viêm da, viêm kết mạc, viêm da tiết... đọc thêm (vitamin B2), thiamin Thiếu thiamin Tình trạng thiếu hụt thiamin (gây ra bệnh beriberi) phổ biến nhất ở những người ăn gạo trắng hoặc carbohydrate tinh chế cao ở các quốc gia có tỷ lệ mất an ninh lương thực cao và ở những người... đọc thêm (vitamin B1), vitamin B6 Thiếu hụt và phụ thuộc vitamin B6 Vì vitamin B6 có mặt trong hầu hết các loại thực phẩm, sự thiếu hụt trong chất dinh dưỡng là hiếm. Sự thiếu hụt thứ cấp có thể là kết quả của các điều kiện khác nhau. Các triệu chứng có thể... đọc thêm (pyridoxin), và vitamin B12 Thiếu Vitamin B12 Thiếu vitamin B12 trong chế độ ăn thường là do hấp thụ không đầy đủ, nhưng sự thiếu hụt có thể phát triển ở những người ăn chay không được bổ sung vitamin. Sự thiếu hụt gây ra thiếu máu hồng... đọc thêm (cobalamin).

Chỉ có vitamin A, E, và B12 được dự trữ với mức độ đáng kể trong cơ thể; các vitamin khác phải được tiêu thụ thường xuyên để duy trì sức khỏe mô.

Các nguyên tố khoáng vi lượng cần thiết bao gồm crom Sự thiếu hụt crom Chỉ có 1 đến 3% crom (Cr) hóa trị ba có hoạt tính sinh học được hấp thụ. Nồng độ trong huyết tương bình thường là 0,05 đến 0,50 mcg/L (1,0 đến 9,6 nmol/L). Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu crom có... đọc thêm , đồng Thiếu hụt đồng Đồng là thành phần của nhiều loại protein trong cơ thể; gần như toàn bộ đồng của cơ thể được gắn kết với protein có đồng. Thiếu hụt đồng có thể do mắc phải hoặc di truyền. (Xem thêm Tổng quan... đọc thêm , i-ốt Sự thiết hụt chất i-ốt Trong cơ thể, i-ốt (I) liên quan chủ yếu đến việc tổng hợp 2 hormone tuyến giáp, thyroxine (T4) và triiodothyronine (T3). I-ốt được tìm thấy trong môi trường và trong chế độ ăn chủ yếu dưới... đọc thêm , sắt Sự thiếu hụt sắt Sắt (Fe) là một thành phần của hemoglobin, myoglobin, và nhiều enzyme trong cơ thể. Sắt heme được chứa chủ yếu trong các sản phẩm động vật. Nó được hấp thụ tốt hơn nhiều so với sắt nonheme ... đọc thêm , mangan Thiếu hụt Mangan Mangan (Mn), cần thiết cho cấu trúc xương khỏe mạnh, là thành phần của một số hệ thống enzyme, bao gồm glycosyltransferase đặc hiệu mangan và phosphoenolpyruvate carboxykinase. Lượng đưa vào... đọc thêm , molybden (Chì) Thiếu hụt Molybden Molypden (Mo) là thành phần của coenzyme cần thiết cho hoạt tính của xanthine oxidase, oxidase sulfite, và aldehyde oxidase. Sự thiếu hụt về mặt di truyền và dinh dưỡng của molybden đã được... đọc thêm , selenium Thiếu hụt Selen Selen (Se) là một phần của enzyme glutathione peroxidase, chất này có tác dụng chuyển hóa hydroperoxide được hình thành từ các axit béo không bão hòa đa. Selen cũng là một phần của các enzyme... đọc thêm , và kẽm Sự thiếu hụt kẽm Kẽm (Zn) chứa chủ yếu ở xương, răng, tóc, da, gan, cơ, tế bào bạch cầu và tinh hoàn. Kẽm là một thành phần của hàng trăm loại enzyme, bao gồm nhiều nicotinamide adenine dinucleotide dehydrogenase... đọc thêm

Công thức hóa học thực phẩm khó nhất năm 2024
. Ngoại trừ crom, mỗi loại này được kết hợp vào các enzyme hoặc các hocmon cần thiết trong quá trình trao đổi chất. Ngoại trừ thiếu sắt và kẽm, thiếu vi khoáng không phổ biến ở các nước có tỷ lệ mất an ninh lương thực thấp.

Các nguyên tố khoáng khác (như nhôm, asen, boron, coban, florua, niken, silicon, vanadium) đã không được chứng minh là cần thiết cho con người. Florua sự thiếu hụt Fluor Hầu hết fluor của cơ thể (F) được chứa trong xương và răng. Florua (dạng ion của fluor) được phân bố rộng rãi trong tự nhiên. Nguồn chính của florua là nước uống được bổ sung fluor. Sự thiếu... đọc thêm , mặc dù không thiết yếu, giúp ngăn ngừa sâu răng bằng cách tạo thành một hợp chất với canxi (canxi florua [CaF2]), giúp ổn định khối khoáng chất trong răng.

Tất cả các nguyên tố khoáng vi lượng đều gây độc ở mức cao, và một số (asen, niken, và crom) có thể gây ung thư.

Chế độ ăn uống hàng ngày của con người thường chứa khoảng 100.000 chất hóa học (ví dụ, cà phê chứa 1000). Trong số này, chỉ có 300 là các chất dinh dưỡng, chỉ một số trong đó là cần thiết. Tuy nhiên, nhiều chất phi dinh dưỡng trong thực phẩm rất hữu ích. Ví dụ, phụ gia thực phẩm (ví dụ, chất bảo quản, chất nhũ hóa, chất chống oxy hoá, chất ổn định) cải thiện sản xuất và ổn định của thực phẩm. Các thành phần vi lượng (ví dụ, gia vị, hương vị, mùi, màu sắc, hóa chất thực vật, nhiều sản phẩm tự nhiên khác) cải thiện hình dạng và vị giác.

Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) định nghĩa thực phẩm chế biến sẵn là bất kỳ mặt hàng nông sản thô nào đã được rửa, làm sạch, xay xát, cắt, thái nhỏ, đun nóng, thanh trùng, chần, nấu, đóng hộp, đông lạnh, sấy khô, khử nước, trộn, đóng gói, hoặc bất kỳ quy trình nào khác làm thay đổi thực phẩm khỏi trạng thái tự nhiên của nó. Dựa trên định nghĩa này, hầu như tất cả thực phẩm đều được chế biến sẵn ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, một số cách chế biến thực phẩm hiện đại đã loại bỏ chất dinh dưỡng khỏi thực phẩm. Ví dụ, xay xát loại bỏ cám và mầm, do đó , sắt Sự thiếu hụt sắt Sắt (Fe) là một thành phần của hemoglobin, myoglobin, và nhiều enzyme trong cơ thể. Sắt heme được chứa chủ yếu trong các sản phẩm động vật. Nó được hấp thụ tốt hơn nhiều so với sắt nonheme ... đọc thêm và nhiều vitamin B từ ngũ cốc. Quá trình chế biến cũng thường thêm các chất phụ gia như chất bảo quản (ví dụ: benzoat, sorbat, nitrit, sulfit và axit xitric); màu nhân tạo, hương vị và chất làm ngọt; chất ổn định; chất nhũ hóa; và các vitamin và khoáng chất tổng hợp và các chất phụ gia khác bao gồm muối, bột ngọt (MSG), đường, chất béo và dầu tinh luyện. Một số chất phụ gia thực phẩm có thể ảnh hưởng xấu đến trẻ em nói riêng.

Thực phẩm siêu chế biến sẵn (ví dụ: đồ ngọt, đồ ăn nhẹ mặn, đồ uống có đường, đồ ăn sẵn và đồ ăn nhanh) ngày càng phổ biến và chiếm gần một nửa nguồn cung cấp thực phẩm ở nhiều quốc gia. Các loại thực phẩm được làm từ những nguyên liệu rẻ tiền (bao gồm chất béo không lành mạnh, ngũ cốc và tinh bột tinh chế, thêm đường và muối) thường được kết hợp với các chất phụ gia thực phẩm (bao gồm màu nhân tạo, hương vị và chất bảo quản) để làm cho các loại thực phẩm rẻ và đặc biệt ngon và kéo dài thời hạn sử dụng. Hầu hết có từ ít hoặc không có thực phẩm toàn phần. Những thực phẩm này thúc đẩy ăn quá nhiều và tăng cân, đồng thời cung cấp một lượng tương đối khan hiếm các chất dinh dưỡng có giá trị, làm tăng nguy cơ kháng insulin và có thể là các rối loạn khác (ví dụ: bệnh động mạch vành Tổng quan bệnh động mạch vành Bệnh động mạch vành (CAD) bao gồm sự suy giảm lưu lượng máu qua các động mạch vành, thông thường là do các mảng xơ vữa. Biểu hiện lâm sàng bao gồm thiếu máu cơ tim thầm lặng, đau thắt ngực,... đọc thêm

Công thức hóa học thực phẩm khó nhất năm 2024
, trầm cảm Các rối loạn trầm cảm Các rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi buồn trầm trọng hoặc dai dẳng đủ để ảnh hưởng vào hoạt động chức năng và thường là do giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong các hoạt động. Nguyên nhân... đọc thêm , hội chứng ruột kích thích Hội chứng ruột kích thích (IBS) Hội chứng ruột kích thích được đặc trưng bởi sự khó chịu hoặc đau bụng tái phát với ít nhất hai đặc điểm sau: liên quan đến đại tiện, liên quan đến số lần đại tiện, hoặc liên quan đến sự thay... đọc thêm , ung thư Tổng quan về Ung thư Ung thư là sự tăng sinh mất kiểm soát của các tế bào. Các đặc tính nổi bật là Thiếu biệt hóa tế bào Sự xâm lấn của mô Di căn, di căn đến các vị trí xa thông qua đường máu hoặc hệ bạch huyết... đọc thêm và thậm chí tử vong sớm).

Để được dán nhãn hữu cơ được USDA chứng nhận, thực phẩm hữu cơ phải được trồng và chế biến theo các hướng dẫn của liên bang nhằm giải quyết nhiều yếu tố, bao gồm chất lượng đất, thực hành chăn nuôi, kiểm soát sâu bệnh và cỏ dại cũng như việc sử dụng các chất phụ gia. Ví dụ: để thịt được dán nhãn hữu cơ, động vật phải được nuôi trong điều kiện phù hợp với hành vi tự nhiên của chúng (chẳng hạn như khả năng chăn thả trên đồng cỏ), phải được cho ăn 100% thức ăn hữu cơ và thức ăn thô xanh và không được dùng kháng sinh hoặc các hormone. Để được dán nhãn hữu cơ USDA, một sản phẩm phải chứa 95% thành phần hữu cơ.

Thực phẩm biến đổi gen hoặc thực phẩm biến đổi gen là thực phẩm có chứa các sinh vật biến đổi gen (GMO). Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), những thực phẩm này chứa DNA đã được sửa đổi thông qua kỹ thuật phòng thí nghiệm và không thể được tạo ra thông qua nhân giống thông thường hoặc tìm thấy trong tự nhiên. Thực phẩm biến đổi gen đã tồn tại trong nguồn cung cấp thực phẩm của Hoa Kỳ từ đầu những năm 1990 và độ an toàn của thực phẩm biến đổi gen này ở người và động vật được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) và USDA giám sát.

Bắt đầu từ tháng 1 năm 2022, thực phẩm bắt buộc phải dán nhãn cho biết loại thực phẩm này có phải là thực phẩm biến đổi gen hay không. Những thực phẩm này thường là những thành phần phổ biến và có thể khó xác định.

Mặc dù việc tiêu thụ thực phẩm biến đổi gen không gây nguy cơ cho sức khỏe con người, nhưng các nhóm vận động về an toàn thực phẩm đã đưa ra những lo ngại như phát triển dị ứng (nếu DNA được truyền được lấy từ thực phẩm gây dị ứng) và kháng kháng sinh do tiêu thụ cây trồng kháng thuốc diệt cỏ có thể về mặt lý thuyết, chuyển các gen kháng kháng sinh đã được sửa đổi vào đường tiêu hóa của con người. WHO đã tuyên bố rằng nguy cơ kháng thuốc kháng sinh như vậy là rất nhỏ, nhưng không phải là không đáng kể.