Đánh giá đường lối kháng chiến chống pháp

Vận dụng bài học phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong kháng chiến chống thực dân Pháp vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân

Đánh giá đường lối kháng chiến chống pháp

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thắng lợi của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; thắng lợi của sức mạnh toàn dân tộc với tinh thần đấu tranh quật cường “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Cuộc kháng chiến đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc (BVTQ); trong đó, bài học về phát huy sức mạnh toàn dân tộc có ý nghĩa quan trọng, thiết thực đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) hiện nay.

Trong bối cảnh chiến tranh thế giới vừa kết thúc, thực dân Pháp đưa quân trở lại để thực hiện mục tiêu tiếp tục đô hộ nhân dân ta một lần nữa, Đảng ta đã chủ trương phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân quyết tâm chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”, trong đó nhấn mạnh: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”1. Tiếp đó, ngày 22-12-1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”. Đáp lại lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã mang tất cả “tinh thần và lực lượng”, nhất tề đứng lên chiến đấu đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Với đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” đúng đắn, sáng tạo, Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của dân tộc, thực hiện đánh địch trên tất cả các mặt trận: chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao... trong đó, lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu. Về mặt chính trị, Đảng ta tập trung xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; chú trọng củng cố và phát huy khối liên minh công - nông - trí thức, mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc. Đặc biệt là, xây dựng, kiện toàn Nhà nước dân chủ cộng hoà với hệ thống chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở; kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Để xây dựng tiềm lực kinh tế cho cuộc kháng chiến, Đảng ta đưa ra nhiều chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất cho nông dân, xây dựng nền kinh tế tự chủ, bảo đảm nhu cầu của kháng chiến,... Về văn hoá, chúng ta vừa chống lại văn hoá nô dịch, vừa xây dựng nền văn hoá mới trên cơ sở 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng; mở “Bình dân học vụ”, chống "giặc dốt". Về ngoại giao, Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, vạch trần âm mưu, hành động của bọn thực dân xâm lược, tranh thủ sự ủng hộ của các nước XHCN và nhân dân tiến bộ trên thế giới... Trên mặt trận quân sự, với chủ trương: “Hai mươi triệu đồng bào Việt Nam quyết đánh tan mấy vạn thực dân phản động”1 chúng ta đã thực hiện đánh địch bằng tác chiến của các đơn vị chủ lực kết hợp với chiến tranh du kích rộng khắp trên các chiến trường từ Nam Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên đến Bắc Bộ; đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ của quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ gian khổ của dân tộc.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã khẳng định: một dân tộc dù nhỏ, song nếu biết đoàn kết, phát huy sức mạnh toàn dân tộc thì có thể đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Đó là quy luật cơ bản nhất, bao trùm nhất để giành thắng lợi trong kháng chiến của dân tộc ta. Nó cũng thể hiện tập trung nhất nghệ thuật tổ chức, động viên, phối hợp các lực lượng, các hình thức và phương pháp đấu tranh, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù xâm lược.

65 năm đã trôi qua, nhưng bài học về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược vẫn còn nguyên giá trị. Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ BVTQ, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng bài học kinh nghiệm đó trong xây dựng nền QPTD, nhằm không ngừng tăng cường sức mạnh quốc phòng, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh; đồng thời, để sẵn sàng đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Nền QPTD mà chúng ta đang xây dựng là nền quốc phòng có tính chất: toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại; đó là nền quốc phòng do toàn dân thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước. Để xây dựng nền QPTD đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, điều quan trọng trước hết là phải tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XI của Đảng: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN;…”3.

Vận dụng bài học về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong xây dựng nền QPTD hiện nay, chúng ta cần tập trung xây dựng và phát huy mọi tiềm lực của đất nước; đó là các tiềm lực: chính trị – tinh thần, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học – công nghệ (KH-CN),... Để xây dựng tiềm lực chính trị – tinh thần, trước hết cần tập trung xây dựng hệ thống chính trị các cấp trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực, bản lĩnh, trí tuệ để triển khai thực hiện đúng đắn, sáng tạo mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trong đó, vấn đề then chốt là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị các cấp; đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) và thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong công tác giáo dục quốc phòng – an ninh (QP-AN), cần tập trung quán triệt, tuyên truyền quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, nâng cao nhận thức cho nhân dân về âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược "Diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Thông qua đó, bồi đắp tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo sự đồng thuận của toàn dân đối với sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hiện nay, công cuộc xây dựng CNXH của chúng ta đã tạo ra những tiền đề mới về cơ sở vật chất của nền QPTD. Tuy nhiên, chúng ta phải biết tận dụng và phát huy một cách hiệu quả nhất, biến tiềm lực thành thực lực quốc phòng, quân sự khi cần thiết. Đó vừa là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp BVTQ trong tình hình mới, vừa là sự kế thừa những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù còn “trăm bề” khó khăn, phải tập trung sức người, sức của cho kháng chiến, nhưng Đảng ta vẫn đề ra nhiều chính sách đẩy mạnh sản xuất, “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân. Bài học đó cho thấy, để xây dựng và phát huy tiềm lực kinh tế trong sự nghiệp BVTQ, trước hết, từng địa phương phải tập trung phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời, thực hiện tốt yêu cầu kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường QP-AN; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế là một bước tăng cường tiềm lực QP-AN. Sự kết hợp đó phải được thực hiện ngay trong quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH, việc phân bố dân cư và xây dựng kết cấu hạ tầng trên các địa bàn, nhất là ở các địa bàn chiến lược trọng điểm về QP-AN. Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế đang đặt ra những vấn đề mới, nhất là trong huy động nhân lực và vật lực. Vì vậy, chúng ta cần coi trọng việc tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các chế tài quy phạm pháp luật, các chính sách, phương thức, các biện pháp phù hợp để quản lý, huy động các nguồn lực này cho công tác quốc phòng, quân sự khi cần thiết.

Sức mạnh của nền QPTD là sức mạnh tổng hợp của đất nước. Tuy nhiên, sức mạnh đó tập trung trước hết ở tiềm lực quân sự, mà sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang (LLVT) có ý nghĩa quan trọng, quyết định. Vì vậy, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cùng với xây dựng lực lượng và phát triển chiến tranh du kích, tạo thành thế trận rộng khắp, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng các đại đoàn chủ lực cơ động có sức chiến đấu cao để tiến hành các chiến dịch, các trận đánh quyết định. Ngày nay, nhiệm vụ BVTQ, nhất là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đặt ra những yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, có trình độ và khả năng chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu cao. Cùng với đó, các địa phương, đơn vị còn phải tập trung thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng lực lượng dự bị động viên “hùng hậu”; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ "vững mạnh, rộng khắp", có chất lượng ngày càng cao. Trong thời bình, cần kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng nền QPTD, thế trận QPTD với xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân; thực hiện tốt Nghị định 77/2010/NĐ-CP, ngày 12-7-2010 của Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, thiết thực, khi mà nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, nền văn hoá và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN không thể tách rời nhau. Theo đó, trên từng địa bàn, cần phối hợp chặt chẽ giữa LLVT địa phương với lực lượng Công an thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bảo vệ chính quyền, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ngay từ cơ sở. Trong chiến tranh, kết hợp các hình thức, quy mô, biện pháp đấu tranh, đánh địch toàn diện, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tác chiến của các binh đoàn chủ lực cơ động với tác chiến của LLVT địa phương trong các khu vực phòng thủ. Đây là nét đặc sắc nhất của nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Cùng với đó, cần coi trọng xây dựng tiềm lực văn hoá, KH-CN,… Trong đó, tập trung xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc. Cần coi trọng giáo dục các thế hệ con người Việt Nam biết trân trọng các giá trị văn hoá truyền thống, giàu tính nhân văn “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”...; đồng thời, nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Mặt khác, cần tập trung xây dựng tiềm lực KH-CN theo hướng tự chủ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH; đồng thời, đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật – công nghệ quân sự theo hướng phục vụ kịp thời và có hiệu quả những yêu cầu về bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho LLVT. Đặc biệt là, phải đẩy mạnh phát triển nền công nghiệp quốc phòng, để có thể sản xuất, chế tạo nhiều loại vũ khí, trang bị hiện đại, trực tiếp góp phần xây dựng Quân đội: chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu tác chiến đánh bại kẻ thù có vũ khí công nghệ cao.

Xây dựng nền QPTD là quan điểm cơ bản của Đảng ta về sức mạnh BVTQ trong tình hình mới. Quan điểm đó hình thành trên cơ sở bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong lịch sử dựng nước, giữ nước của nhân dân ta, mà nổi bật là đường lối: “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến, dựa vào sức mình là chính" trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày nay, chúng ta có thuận lợi cơ bản là hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện. Đó là cơ sở pháp lý để xây dựng kế hoạch, các biện pháp phối hợp, huy động các tiềm lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ. Để vận dụng và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, các cấp, các ngành cần quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong đó, tập trung thực hiện tốt Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới. Đặc biệt là, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với các biện pháp huy động các tiềm lực; phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động quốc phòng, quân sự với an ninh và đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.