Người có Công lập ra phủ Gia Định nay là thành phố Hồ chí Minh là ai

Giới thiệu về cuốn sách này


Page 2

Giới thiệu về cuốn sách này

Địa danh Gia Định đã xuất hiện từ 300 năm qua, nhưng khi là phủ, là tỉnh, là toàn xứ Nam bộ, lại chỉ định những địa bàn hành chính to nhỏ rất khác nhau. Thật là phức tạp, chúng ta cần xem xét cho thấu đáo.

1- Phủ Gia Định từ 1698 đến 1802.

Năm 1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam, thấy nơi đây đất đã mở mang "hàng ngàn dặm và có dân trên 4 vạn hộ". Để chấm dứt tình trạng lưu dân tự khẩn hoang lập ấp đó, Cảnh bèn lập phủ Gia Định để coi hai huyện: Phước Long (Biên Hòa) và Tân Bình (Sài Gòn, từ sông Sài Gòn đến sông Vàm Cỏ Đông). Diện tích rộng khoảng 30.000 km2.
Năm 1708, Mạc Cửu xin cho trấn Hà Tiên thuộc quyền Chúa Nguyễn. Năm 1732, chúa Nguyễn cho lập châu Định Viễn và dựng dinh Long Hồ (sau là Vĩnh Long). Năm 1756, tổ chức cai trị đạo Trường Đồn (sau là Định Tường).
N
ăm 1757, chúa Nguyễn cho lập các đạo Đông Khẩu, Tân Châu, Châu Đốc. Từ đó toàn miền Nam thuộc về lãnh thổ và chính quyền Việt Nam.
Từ 1779
, phủ Gia Định bao gồm cả:

      • Dinh Phiên trấn (Sài Gòn)
      • Dinh trấn Biên (Biên Hòa)
      • Dinh Trường Đồn (Định Tường)
      • Dinh Long Hồ (Vĩnh Long, An Giang).

Như vậy, diện tích phủ Gia Định là diện tích toàn Nam bộ rộng khoảng 64.743 km2.
Gia Định kinh từ 1790 đến 1802
Sau khi thâu hồi đất Gia Định, Nguyễn Ánh cho xây thành Bát Quái rộng lớn theo cách bố phòng Vauban, theo định hướng phong thổ Aá Đông, theo mỹ thuật dân tộc Việt Nam và mệnh danh là Gia Định kinh.

2- Gia Định trấn từ 1802 đến 1808.

Năm 1802, Nguyễn Ánh thâu phục kinh thành Phú Xuân rồi lên ngôi và lấy đế hiệu Gia Long. Gia Long bèn hạ cấp Gia Định kinh xuống làm Gia Định trấn thành. Cải tên phủ Gia Định làm trấn Gia Định và đặt "trấn quan" để cai quản cả ngũ trấn là: trấn Phiên An, trấn Biên Hòa, trấn Định Tường, trấn Vĩnh Long, trấn Hà Tiên.

3- Gia Định thành từ 1808 đến 1832

Gia Định thành thay cho Gia Định trấn. Gia Định thành là đơn vị hành chính lớn cũng như Bắc thành cai quản cả xứ Bắc gồm nhiều trấn. Có lẽ phải đổi tên Gia Định trấn ra Gia Định thành để khỏi lẫn với 5 trấn dưới quyền cai quản. Từ đó, thành cai quản trấn. Để dễ phân biệt. Khi Trịnh Hoài Đức viết Gia Định thành thông chí là có ý nghiên cứu toàn hạt 5 trấn đã kể trên.

4- Tỉnh Gia Định từ 1836 đến 1867.

Năm 1832, sau khi Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất, Minh Mạng liền cải ngũ trấn thành lục tỉnh là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Đổi thành Gia Định - nơi trú đóng của Tổng trấn - làm tỉnh thành Phiên An - nơi trị sở của Tổng đốc coi riêng Phiên An thôi., sau vụ Lê Văn Khôi, Minh Mạng cho phá thành Bát Quái và xây dựng Phụng thờ nhỏ, gọi là tỉnh thành Phiên An. , cải tỉnh Phiên An ra tỉnh Gia Định. Tỉnh thành Phiên An cũng đổi ra tỉnh thành Gia Định. Tỉnh Gia Định đương thời rộng khoảng 11.560 km2. , Pháp tới chiếm Sài Gòn và phá bình địa thành Gia Định (Pháp gọi là thành Sài Gòn). Năm 1835 Năm 1936 Năm 1859 Sau Hòa ước 1862 mất đi ba tỉnh miền Đông, Pháp vẫn chia tỉnh Gia Định làm 3 phủ như cũ: Tân Bình, Tân An, Tây Ninh.

5- Hạt Gia Định từ 1885 đến 1889.

Từ năm 1867, Pháp bỏ tên tỉnh Gia Định mà gọi là tỉnh Sài Gòn. Tỉnh Sài Gòn cũng là địa bàn tỉnh Gia Định trước, song không chia ra phủ huyện, mà chia ra 7 hạt tham biện (inspection), trong đó có hạt Sài Gòn (không kể thành phố Sài Gòn). Hạt Sài Gòn gồm 2 huyện Bình Dương và Bình Long. Nhưng từ năm 1872, hạt Sài Gòn gồm thêm huyện Ngãi An (Thủ Đức) nguyên thuộc tỉnh Biên Hòa. Năm 1885, đổi tên hạt Sài Gòn thành hạt Gia Định (có lẽ để phân biệt rõ với thành phố Sài Gòn).

6- Tỉnh Gia Định từ 1889 đến 1975.

Năm 1889, bỏ danh xưng hạt (arrondissement), lấy tên tỉnh cho thống nhất với toàn quốc Việt Nam. Tỉnh Gia Định là 1 trong 20 tỉnh của cả Nam Kỳ lục tỉnh cũ. Tỉnh Gia Định (thu hẹp) này chia ra 18 tổng với 200 xã thôn, rộng khoảng 1.840 km2. Năm 1944, thiết lập tỉnh Tân Bình trên một phần đất của tỉnh Gia Định (bắc Sài Gòn như Phú Nhuận, Phú Thọ, Hạnh Thông, Tân Sơn Nhì..., vùng Thủ Thiêm và một phần Nhà Bè). Tỉnh này chỉ tồn tại đến cuộc Cách mạng 5-1945 rồi giải thể. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, một phần không nhỏ của địa phận tỉnh Gia Định đã là căn cứ Cách mạng kháng chiến. Năm 1956, vùng Củ Chi được trích ra để lập thêm 2 tỉnh Hậu Nghĩa và Bình Dương, Hậu Nghĩa lấy phần đất phía tây vẫn gọi là quận Củ Chi. Bình Dương lấy phần đất phía đông gọi là quận Phú Hòa. Sau vụ chia cắt, Củ Chi cho 2 tỉnh Hậu Nghĩa và Bình Dương, tỉnh Gia Định (1970) còn chia ra 8 quận với 74 xã, rộng 1.499 km2. Tình hình đó tồn tại đến ngày Giải phóng 1975. Từ năm 1975 đến nay, địa danh Gia Định không còn dùng để chỉ bất cứ một đơn vị hành chính nào. Song nhân dân miền Nam vẫn nhớ tên đó với nhiều ấn tượng sâu sắc và tốt đẹp, Sử sách Thành phố và toàn Nam Bộ luôn nói đến Gia Định từ suốt 300 năm qua để ghi dấu bao chiến công và thành tích phát triển vượt bậc của phần đất phía Nam của Tổ quốc.

---Liên kết website--- Thành Ủy TPHCM Cờ đỏ Thành phố Hồ Chí Minh Ủy Ban Nhân Dân TPHCM Ủy ban MTTQ-TPHCM Thành đoàn TPHCM Sở LĐTBXH TPHCM Sở Thông Tin-TT Công ty TNHH một thành viên Dịch vụ công ích TNXP Cơ sở xã hội Nhị Xuân Trung tâm Giáo dục thường xuyên TNXP Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ TNXP Đại biểu nhân dân TP.Hồ Chí Minh

Sài Gòn trải qua hơn 300 năm lịch sử, khá trẻ so với nghìn năm văn hiến của dân tộc, song hiện là thành phố năng động và là đầu tàu kinh tế của cả nước. Từ mảnh đất đồng không mông quạnh xưa, TP HCM hiện có 10 triệu người, hàng loạt cao ốc và đường phố luôn tắc nghẽn bởi mật độ dân cư cao.

Người mang gươm mở cõi đặt nền móng cho sự định cư lâu dài của người Việt vào những ngày tháng 2, hình thành lên vùng đất trù phú bậc nhất từng được ví như Hòn ngọc Viễn Đông, làdanh tướng Nguyễn Hữu Cảnh. Ông tên thật là Nguyễn Hữu Thành, húy Kính, tộc danh là Lễ, sinh năm 1650 ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình (nay là huyện Quảng Ninh, Quảng Bình) và là con thứ ba của danh tướng Nguyễn Hữu Dật.

Người có Công lập ra phủ Gia Định nay là thành phố Hồ chí Minh là ai

Chân dung danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh. Ảnh:S.T

Thuộc dòng dõi con nhà tướng, tổ tiên là Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc - người khai quốc công thần thời nhà Đinh - Nguyễn Hữu Cảnh cũng là cháu đời thứ 9 của Nguyễn Trãi - ngườikhai quốc công thần nhà Lê. Sinh ra trong gia đình truyền thống, lớn lên ở thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh nên tài năng của Nguyễn Hữu Cảnh sớm bộc lộ.

Ở tuổi đôi mươi, Nguyễn Hữu Cảnh nổi tiếng khắp vùng bởi văn võ song toàn. Ông theo cha chinh chiến khắp nơi, lập nhiều công lao nên Chúa Nguyễn phong cho chức Cai cơ. Người có vóc dáng hùng dũng, da ngăm đen, sinh năm Dần nên dân gian gọi ông bằng biệt danh "Hắc Hổ". Lịch sử cũng ghi nhận ông từng nhiều lần đem quân dẹp nhà Chiêm Thành quấy nhiễu phương Nam.

Thời đó (thế kỷ XVII) vùng đất Nam Bộ vẫn hoang vu, như nhà truyền giáo Alexandre de Rhode mô tả là "quạnh hiu, hoang mạc" và "không có vật gì thuộc về sự sống". Còn trong cuốnPhủ biên tạp lụccủa Lê Quý Đôn nói rằng: "Từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, cửa Tiểu, cửa Đại trở lên toàn là rừng rậm hàng nghìn dặm".

Giống như toàn vùng Nam Bộ, Sài Gòn là nơi bôn tẩu, ẩn nấp của những phe phái thất thế, tranh giành quyền lực. Cư dân nhiều khu vực đến sinh sống tản mát hoặc là nơi lánh nạn.

Tháng 2 năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh đượcChúa Nguyễn tên Phúc Chu phonglàm Kinh lược sứ lãnh thổ miền Đông. Vị thống soái lập ra phủ Gia Định với 2 huyện Phước Long (xứ Đồng Nai, có dinh Trấn Biên) và Tân Bình (từ sông Sài Gòn đến sông Vàm Cỏ, có dinh Phiên Trấn). Đây cũng là cột mốc được lấy làm năm khai sinh vùng Sài Gòn - TP HCM ngày nay.

Sau khi lập phủ, ông chiêu mộ lưu dân 5 tỉnh miền Trung gồm Quảng Bình, Thừa Thiên, Quảng Nam, Bình Định và Phú Yên vào khai khẩn đất hoang. Người Hoa (con dân nhà Minh) không quy phục nhà Thanh sang lánh nạn được chúa Nguyễn cho cư trú tại đây cũng góp phần gầy dựng Sài Gòn thuở ban sơ.

Người có Công lập ra phủ Gia Định nay là thành phố Hồ chí Minh là ai

Đình thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai. Ảnh:Báo Đồng Nai.

Về vấn đề này, trongGia Định thành thông chí,Trịnh Hoài Đức viết rằng, đầu thế kỷ 18, đất Gia Định rộng 1.000 dặm, dân số được hơn 40.000 hộ (200.000 người). Cư dân đa số là người gốc Việt, số còn lại là người Hoa và Khmer sinh sống bằng nghề buôn bán, làm rẫy.

Để quản lý đất đai và số nhân khẩu này, Nguyễn Hữu Cảnh đặt các bộ phận trông coi mọi việc khá khoa học. Chẳng hạn như chức Ký lục (chuyên quản lý về hành chính, thuế khóa); Lưu thủ (quân sự); Cai bộ phụ trách về công tác tư pháp. Ngoài ra, giúp việc cho các quan là các Xá Ty và một số đơn vị vũ trang.

Với những người Hoa rời bỏ quê hương sang lánh nạn, Nguyễn Hữu Cảnh tập hợp họ thành những tổ chức hành chính riêng như xã Thành Hà (Trấn Biên), xã Minh Hương (Phiên Trấn). Tên gọi Minh Hương cũng thành tên gọi chung cho người Hoa ở Sài Gòn từ thời điểm đó, họ xem mảnh đất này như quê hương mới. Người Minh Hương giỏi thương thuyền đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành các khu mua bán sầm uất như Chợ Lớn ngày nay.

Để đảm bảo thương mại phát triển, giao lưu thông suốt giữa các vùng dân cư, ông cho lập đường thủy ven các nhánh sông. Nguyễn Hữu Cảnh lấy khu chợ nổi Nhà Bè làm trung tâm giao dịch, thông thương với cù lao Phố (Đồng Nai), Bến Nghé, Cần Giờ, Rạch Cát, Vũng Cù và Gò Vấp. Nhờ vậy, tàu thuyền chở hàng hóa có thể ra vào dễ dàng. Cuộc sống của dân cư nhanh chóng ổn định và khá phát triển.

Tổ chức bộ máy chính quyền từ cấp dinh, trấn cho đến tận các thôn, xã dần được thống nhất. Nhà nước quản lý đất đai, hộ khẩu, thu thuế và trưng thu các nguồn lợi tự nhiên. Sài Gòn - Gia Định trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa của vùng đất mới.

Sau khi gầy dựng và ổn định được vùng Sài Gòn - Gia Định, năm 1699, Nguyễn Hữu Cảnh được cử đem quân xuống ổn định khu vực Đồng bằng sông Cửu Long khi cư dân Việt ở đây thường xuyên bị cướp phá.

Tháng 4 năm 1700, Nguyễn Hữu Cảnhbị nhiễm bệnhở cù lao Sao Mộc (chợ Mới, An Giang), hai chân tê bại, ăn uống không được. Khi quân về đến Mỹ Tho thì ông mất. Nhân dân vùng đất mới khai phá từ người Việt đến Hoa, Chăm… đều nhớ ơn, lập đền thờ, bài vị nhiều nơi.

Người có Công lập ra phủ Gia Định nay là thành phố Hồ chí Minh là ai

TP HCM khởi công xây đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Ảnh:T.S

Đánh giá về công trạng Nguyễn Hữu Cảnh, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng cho rằng ông là người khai cơ, lần đầu bố trí hệ thống nhà nước trên đất Sài Gòn - Gia Định. "Dân lưu tán được thừa nhận là công dân của nước Việt, ruộng đất khai hoang được vào sổ bộ chính thức, dân chúng coi ông như người đại diện của tổ quốc. Việc Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện là kết quả của nguyện vọng đã xuất hiện và nung nấu nhiều trăm năm”. Hiện, tên ông được đặt cho con đường dẫn vào trung tâm Sài Gòn.

Mới đây, UBND TP HCM khởi công xây dựng đền thờLễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh tại Công viên Lịch sử Văn hóa dân tộc (quận 9). Đền có diện tích hơn 7.400 m2, công trình gồm các hạng mục: khối đền chính, nhà điều hành, cổng tam quan, văn bia, hồ nước, giao thông nội bộ, kè bảo vệ... Tổng mức đầu tư của dự án khoảng 82 tỷ đồng từ nguồn ngân sách thành phố.

Sơn Hòa