Phương pháp luận tiếng Anh là gì

Thấy gì về thực trạng phương pháp luận nghiên cứu văn học ở Việt Nam?

Phương pháp luận tiếng Anh là gì

Nhà lý luận phê bình Nguyễn Văn Dân đánh giá: Hiện tượng điển hình cho tình trạng về sự thiếu sáng tạo của nhiều nhà khoa học nước ta là hiện tượng chua thêm từ ngữ nước ngoài một cách tuỳ tiện và hết sức thiếu nguyên tắc

.

PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU VĂN HỌC MỘT BỘ PHẬN CỦA LÝ LUẬN VĂN HỌC

NGUYỄN VĂN DÂN

Hiện nay ở nước ta có một xu hướng gần như đồng nhất khái niệm phương pháp luận với một lĩnh vực rất riêng biệt nằm trong một bộ môn được gọi là khoa học luận: đó là lĩnh vực quy cách thực hiện một công trình khoa học.

Có người gọi công việc nói trên là Quá trình thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học (Lê Tử Thành); có người gọi đó là Lôgic tiến trình nghiên cứu khoa học (Phạm Viết Vượng); có người gọi là Trình tự lôgic của nghiên cứu khoa học (Vũ Cao Đàm)...

Có thể kể ra đây một số cuốn sách thuộc loại này như: Lê Tử Thành: Lôgích học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, (Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 1996, 242 tr., in lần thứ 4); Đề cương bài giảng phương pháp luận nghiên cứu khoa học (tập thể tác giả, Trần Xuân Sầm chủ biên, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, bộ môn Khoa học luận, Hà Nội, 1995, 163 tr.); Nguyễn Văn Lê: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (Nxb. Trẻ, Tp. HCM, 2001, 199 tr., xuất bản lần 3); Phương Kỳ Sơn: Phương pháp nghiên cứu khoa học (Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2001, 175 tr.). Tuy nhiên, cũng có những cuốn sách đã bao quát khá đầy đủ mọi lĩnh vực của phương pháp luận, như cuốn giáo trình của tác giả Phạm Viết Vượng: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (Giáo trình dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh) (Nxb. ĐHQG Hà Nội, H., 1997, 171 tr.); cuốn sách của Vũ Cao Đàm: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (Nxb. Khoa học Kỹ thuật, H., 1999, 178 tr., xb. lần thứ 5) cũng có một mức độ bao quát nhất định.

Nhìn chung, những cuốn sách trên đây, mặc dù ngoài bìa đều ghi là phương pháp luận nghiên cứu khoa học hay phương pháp nghiên cứu khoa học, nhưng thực chất chúng đều là những giáo trình mang tính chất của khoa học luận, trong đó phương pháp luận chỉ là một bộ phận của bộ môn khoa học này. Ví dụ như cuốn sách Đề cương bài giảng phương pháp luận nghiên cứu khoa học đã dẫn ở trên chính là do bộ môn khoa học luận thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn. Và tôi có một nhận xét chung nữa là các cuốn sách trên đều có một dàn ý và nội dung gần giống nhau. Đó cũng là đặc điểm chung của những cuốn sách giáo khoa, giáo trình giảng dạy.

Các cuốn giáo trình khoa học luận này được soạn rất đúng bài bản và có những chỉ dẫn rất kỹ lưỡng về tiến trình thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học, trong đó có cả những chỉ dẫn về văn phong công trình (một công trình khoa học phải ưu tiên cho văn phong khoa học, nhưng đôi khi cũng có thể sử dụng văn phong văn học; và một công trình khoa học dứt khoát phải dùng văn viết chứ không được dùng văn nói), đến cách thức trình bày công trình. Cách thức trình bày công trình được nhiều tác giả dành cho một dung lượng khá lớn và với những chỉ dẫn rất tỷ mỉ, kỹ lưỡng, từ việc phải trình bày trang bìa ra sao, trình bày các chương, mục, tiết, đoạn như thế nào, đến yêu cầu phải đánh máy công trình thành văn bản ra sao, để lề trang văn bản rộng bao nhiêu, đánh máy cách dòng, thụt lề như thế nào, và chỉ dẫn cả những cách ghi cước chú, chú thích, ghi trích dẫn, ghi thư mục, thậm chí cả việc ghi lời cảm ơn cho công trình, v.v...

Có những cuốn sách tập trung chủ yếu vào chủ đề Quá trình thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học, trong khi đó hai phần quan trọng của phương pháp luận nghiên cứu khoa học là Khái niệm khoa học và Phương pháp nghiên cứu trong các khoa học cụ thể lại được để ở phần Phụ lục. Cũng có một vài cuốn sách đề cập đến phạm trù phương pháp luận và phương pháp nói chung, trong đó có cả việc phân loại các phương pháp. Tuy nhiên, những phương pháp được đề cập đến trong những cuốn sách này chỉ là những phương pháp tư duy lôgic và tư duy khoa học nói chung, trong đó có những cái được gọi là phương pháp nhưng thực ra chỉ là tính chất hay loại hình của công việc nghiên cứu.

Ở miền Nam trước đây, hai bộ môn phương pháp luận và khoa học luận lại được đưa vào bộ môn lôgic học mà các nhà khoa học thời trước '75 gọi theo tiếng Hán - Việt là luận lý học. Ví dụ như cuốn sách giáo trình Luận lý học (lớp đệ nhất) của Nguyễn Văn Trung (Nxb. Nam Sơn xuất bản lần thứ nhất, Sài Gòn, 1956). Trong cuốn sách này, Nguyễn Văn Trung cũng chỉ giới thiệu các phương pháp suy lý lôgic và các phương pháp nhận thức nói chung, cũng như giới thiệu việc áp dụng ở cấp độ đại cương đối với các phương pháp đó cho một số lĩnh vực khoa học như toán học, các khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn. Nhưng trong cuốn sách của Nguyễn Văn Trung không có phần giới thiệu các quy cách trình bày một công trình khoa học như trong các cuốn giáo trình phương pháp luận của các nhà khoa học luận nước ta sau này.

Về nguyên tắc, việc đưa các quy cách trình bày công trình khoa học vào phạm vi bao quát của phương pháp luận hoàn toàn không phải là sai, thậm chí hiện nay nó còn tỏ ra là điều rất cần thiết, một khi mà ở nước ta vẫn còn có quá nhiều những nhà nghiên cứu không chú trọng đến các quy cách nói trên. Tôi nói như vậy là vì, trên thực tế hiện nay đang tồn tại một kiểu viết công trình không tuân theo các quy cách mà các cuốn giáo trình nói trên quy định. Ví dụ có những người khi viết một công trình, từ đầu đến cuối không ghi một dòng cước chú nào, mà chỉ đến cuối sách họ mới đưa ra một danh mục đồ sộ các tài liệu tham khảo bằng đủ các thứ tiếng. Trong khi đó, giữa phần chính văn và phần danh mục tài liệu tham khảo không hề có một dấu hiệu liên hệ gì. Trên thực tế, độc giả và nhất là luật bản quyền có lẽ không quan tâm lắm đến cái danh mục tài liệu tham khảo kia, mà cái họ muốn biết chính là việc những luận điểm và những điều mà nhà nghiên cứu vay mượn hoặc trích dẫn trong chính văn là mượn của ai và mượn từ đâu.

Thực ra thì trên thế giới cũng có một kiểu viết công trình như vậy. Nhưng đó là kiểu biên soạn giáo trình cho học sinh và sinh viên hay kiểu viết tổng thuật một vấn đề, chứ kiểu viết đó không phù hợp với một công trình nghiên cứu khoa học. Rõ ràng, những quy cách nói trên là rất cần thiết và chúng phải được coi là một bộ phận của phương pháp luận, có điều khi nói đến những vấn đề phương pháp luận thì ta không nên chỉ giới hạn ở lĩnh vực quy cách, thậm chí ta còn có thể xếp lĩnh vực đó vào phần phụ lục.

Việc ghi xuất xứ của trích dẫn cũng là một trong những quy cách phương pháp luận quan trọng cần phải tuân thủ, không phải chỉ là do yêu cầu về luật bản quyền, mà còn để giúp cho người đọc có thể kiểm tra xem người trích có trích đúng không. Tôi nói như thế là vì chuyện trích dẫn sai không phải là chuyện hiếm trong giới khoa học, cả trong và ngoài nước. Ví dụ từ điển Microsoft Encarta 99 Encyclopedia của Mỹ đã trích sai câu ngôn ngữ là hình thức chứ không phải chất liệu của Ferdinand de Saussure thành ngôn ngữ không phải là hình thức cũng không phải là chất liệu. Hay có người, cả trong nước lẫn ngoài nước, dẫn một luận điểm được một tác giả dẫn ra để phê phán mà lại bảo là của chính tác giả đó! (Chính tôi đã là một nạn nhân của việc trích sai này). Đây là hậu quả của một tình trạng đọc lười nhác, đọc cẩu thả, nói theo đúng ngôn từ của nhà ngữ nghĩa học thực chứng người Anh I. A. Richards.

Ở một số người, tình trạng đọc cẩu thả còn thể hiện ở việc đọc nhảy cóc, nối nửa đầu của một đoạn vào nửa sau của một đoạn khác, làm sai lệch hẳn ý của nguyên bản, cho dù có thể người đọc không chủ tâm. Tiếc thay ở nước ta, tình trạng đọc cẩu thả cũng không phải là không xảy ra. Có người đọc một văn bản nước ngoài mà không hiểu ý nên trích sai đã đành, nhưng ngay cả đối với văn bản tiếng Việt mà cũng có nhiều người trích sai. Việc trích sai như thế rất nguy hiểm, bởi vì khi người khác trích lại một lời trích sai thì cái sai cứ thế lây lan và không thể vãn hồi được. Tất nhiên việc trích lại là điều hoàn toàn hợp pháp. Khi người ta không có khả năng tiếp cận với bản gốc thì người ta có quyền trích lại. Tuy nhiên, nếu có ai đó trích lại một ý kiến sai mà cứ vô tâm không nói rõ mình trích theo ai, thì người đó sẽ vô tình lãnh đủ lỗi của người đi trước.

Theo tôi được biết thì phương pháp luận theo quan niệm của khoa học luận như trên là một lĩnh vực mới ở nước ta, chủ yếu được du nhập từ nước ngoài. Chỉ có điều tôi cho rằng, ngoài các nguyên tắc chung, mỗi quốc gia đều có những đặc điểm văn hoá riêng của mình, cho nên khi áp dụng các nguyên tắc chung cho một ngành hay một bộ môn khoa học, thì mỗi quốc gia đều có quyền dựa vào điều kiện và đặc điểm văn hoá riêng của mình để sáng tạo thêm những nguyên tắc mới. Ở đây tôi muốn nói đến một tình trạng về sự thiếu sáng tạo của các nhà khoa học luận nước ta.

Hiện tượng điển hình cho tình trạng về sự thiếu sáng tạo của nhiều nhà khoa học nước ta là hiện tượng chua thêm từ ngữ nước ngoài một cách tuỳ tiện và hết sức thiếu nguyên tắc. Đây là một hiện tượng rất phổ biến, kể cả các vị viết những cuốn sách giáo trình về phương pháp luận trên đây cũng đều mắc phải, mặc dù họ tỏ ra rất kỹ lưỡng về những quy cách hình thức của việc trình bày một công trình khoa học. Có thể nói ngày nay, đứng từ góc độ lôgic học, hiện tượng này đã trở thành một căn bệnh trầm trọng.

Từ quan niệm của các nhà khoa học luận nói trên về các quy cách trình bày một công trình khoa học, ta hoàn toàn có thể coi việc chua từ nước ngoài cũng là một quy cách. Thế nhưng nhiều nhà khoa học nước ta đã bỏ qua quy cách này, kể cả các nhà khoa học luận. Nhiều người chua một cách vô tội vạ, kể cả đối với những từ rất thông dụng, thậm chí đối với cả những từ không phải là thuật ngữ khoa học. Và hiện tượng chua sai nghĩa cũng rất phổ biến. Kỳ lạ hơn nữa là có nhiều người dịch một văn bản tiếng Nga hoặc nói về một tác giả viết tiếng Nga nhưng lại liên tục chua bằng tiếng Anh, không chỉ những người viết là người quen dùng tiếng Anh và không biết tiếng Nga, mà cả những người đã từng du học ở Nga và có ngoại ngữ chính là tiếng Nga. Nhiều người trong một bài viết hoặc trong một cuốn sách đã chua tiếng nước ngoài rất tuỳ tiện: lúc thì chua bằng tiếng Anh, lúc lại chua bằng tiếng Pháp mà không có lý do.

Phổ biến nhất vẫn là hiện tượng lạm dụng tiếng Anh khi chua.

Ví dụ như có nhiều người mặc dù nói đến đủ các lý thuyết của đủ các nước, nhưng lại nhất loạt chỉ chua bằng tiếng Anh (mà nhiều chỗ chua sai). Ngay cả tên bộ tiểu thuyết Chiến tranh và hoà bình của đại văn hào Nga Lev Tolstoi, được viết một trăm phần trăm bằng tiếng Nga, mà có người còn chua bằng tiếng Anh là War and Peace! Hay bộ tiểu thuyết Anh em Karamazov của nhà văn Nga Dostoevski [Bratja Karamazovư] cũng được chua bằng tiếng Anh là The Brothers Karamazov. Ở đây, các quy chuẩn về ngôn ngữ khoa học đang bị phá huỷ, một phần do bị lây nhiễm bởi hiện tượng quốc tế hoá tiếng Anh trong đời sống xã hội và thương mại. Hơn nữa, càng ngày ta càng thấy ảnh hưởng của hiện tượng quốc tế hoá tiếng Anh từ phía đời sống xã hội và thương mại sang các lĩnh vực khác đang tỏ ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Và, tệ hại hơn tất cả là hầu hết các nhà khoa học nước ta khi chua từ nước ngoài đều không nói rõ từ dùng để chua là thuộc tiếng nước nào. Hiện tượng chua từ nước ngoài một cách thiếu nguyên tắc như thế đã dẫn đến những việc làm rất phi lôgic. Ví dụ như ngay trong một cuốn sách rất có bài bản về phương pháp luận, tác giả đã viết: Phương pháp luận (Methodology) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là Methodos và Logos. Một người soạn thảo một cuốn sách về lôgic nghiên cứu khoa học lại viết một câu rất phi lôgic! Xét về mặt cấu trúc ngữ nghĩa, câu nói trên hoàn toàn sai nghĩa. Viết như thế người ta hoàn toàn có quyền hiểu là: từ phương pháp luận trong tiếng Việt có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp! Đáng ra câu đó phải được viết như thế này: Từ methodology trong tiếng Anh [có nghĩa là phương pháp luận] bắt nguồn từ hai từ trong tiếng Hy Lạp là methodos và logos. Tương tự, thuật ngữ khoa học luận cũng được giải nghĩa từ nguyên như vậy. Viết như trên thì người đọc có thể hiểu là từ phương pháp luận và từ khoa học luận trong tiếng Việt không phải là từ gốc Hán mà là từ gốc Hy Lạp! Vả lại, tại sao họ không giải nghĩa từ nguyên cho các thuật ngữ khoa học luận, phương pháp luận và phương pháp... trong tiếng Việt, mà lại đi giải nghĩa cho những từ tương đương với những từ này trong tiếng Anh và tiếng Pháp? Đó là chưa kể một điều là người ta không đưa ra được một lý do nào cho việc phải giải nghĩa từ nguyên cho các từ nói trên. Hình như rất hiếm có người giải nghĩa từ nguyên cho các thuật ngữ tiếng Việt, mà người ta chỉ chăm chăm tìm cách giải nghĩa từ nguyên cho các từ của tiếng nước ngoài! Hay nói đúng hơn là có một xu hướng giải nghĩa từ nguyên tiếng Việt thông qua một ngôn ngữ nước ngoài mà ngôn ngữ đó hoàn toàn không có họ hàng gì với tiếng Việt. Làm như thế để làm gì?

Nhìn chung, các nhà khoa học khi giải nghĩa một thuật ngữ thường là không đưa ra được lý do cho việc giải nghĩa đó. Điều này chỉ có thể giải thích rằng, các nhà khoa học nước ta, khi đọc sách nước ngoài, thấy người ta giải nghĩa từ nguyên trong ngôn ngữ của họ, đã dịch nguyên xi đoạn giải nghĩa đó sang tiếng Việt. Các nhà khoa học đó không suy nghĩ một cách lôgic rằng, nếu thấy người ta giải nghĩa từ nguyên của họ, thì mình cũng học tập mà giải nghĩa từ nguyên của mình, chứ không phải tiếp thu một cách máy móc là lấy nguyên xi câu giải nghĩa trong ngôn ngữ của họ. Đây chỉ là một sự bắt chước thụ động. Đáng ra ta chỉ được phép học tập cái cách làm của người ta, chứ không được phép lấy nguyên xi cái người ta đã làm để làm thành cái của mình. Đó là một hiện tượng khá phổ biến ở nước ta. Nó chứng tỏ rằng một số nhà khoa học của nước ta, khi tiếp thu kiến thức của nước ngoài, đã không làm chủ được những kiến thức đó, đã không xuất phát từ các đặc điểm ngôn ngữ của nước mình để tiếp thu một cách sáng tạo, mà chỉ thụ động ăn sẵn những cái người ta đã làm.

Tóm lại, ở đây có hai câu hỏi đặt ra là: 1. Tại sao phải giải nghĩa từ nguyên cho các thuật ngữ; và 2. Tại sao lại phải giải nghĩa từ nguyên cho các thuật ngữ trong tiếng nước ngoài? Rõ ràng nếu không trả lời được hai câu hỏi này thì việc giải nghĩa sẽ là một việc làm vô nghĩa: nó không đem lại ý nghĩa gì cho nội dung khoa học của công trình, cũng như không đóng góp gì cho lĩnh vực ngữ nghĩa của ngôn ngữ.

Ví dụ thứ hai: có người khi bàn về tính chính xác của tên một tác phẩm nước ngoài lại căn cứ vào tên được dịch sang tiếng Anh của tác phẩm đó! Đây vẫn là biểu hiện lây lan của căn bệnh lạm dụng việc chua bằng tiếng Anh. Chẳng hạn, có người khi dịch tên tác phẩm Nghệ thuật thơ ca của Aristote [tên tiếng Pháp; tên Hy Lạp: Aristoteles] là Thi học, thì lại lập luận là phải dịch như thế mới sát ý với tên tác phẩm của Aristote là Poetics. Tiếc rằng Poetics là tên một bản dịch hiện đại sang tiếng Anh đối với tác phẩm của Aristote chứ không phải là tên gốc trong tiếng Hy Lạp, trong khi đó lại có một bản dịch khác có tên tiếng Anh là On the Art of Poetry [Về nghệ thuật thơ ca]. Nếu nói như trên thì hoá ra nhà triết học người Hy Lạp cổ đại Aristote cách đây hơn 2.300 năm lại viết văn bằng tiếng Anh ư? Như vậy người kia đã không hiểu một điều là muốn tranh luận về việc dịch đúng hay dịch sai thì phải căn cứ vào bản gốc chứ không được căn cứ vào một bản dịch khác. Thực ra, tên nguyên tác của Aristote trong tiếng Hy Lạp là Peri Poietikes, có nghĩa là Bàn về nghệ thuật làm thơ. Chữ poietikes tương đương với từ tiếng Anh poetics, nhưng với nghĩa ban đầu của nó là nghệ thuật thơ ca, chứ chưa phải là thi pháp hay thi học theo nghĩa rộng như sau này người ta gán cho nó.

Thuật ngữ thi pháp hiện nay được hiểu là phương pháp sáng tác hay phong cách sáng tác, nó được áp dụng cho bất kỳ một tác phẩm văn học nào, kể cả thơ ca, kịch, hay văn xuôi. Ở đây, thói quen quốc tế hoá tiếng Anh trong xã hội và thương mại đã làm cho người ta dễ quên đến mức hồn nhiên một điều là khi trích dẫn cần phải trích nguyên tác; và người ta cứ tưởng rằng chỉ cần dẫn tiếng Anh ra là mọi việc đã giải quyết xong, thậm chí khi dẫn một từ tiếng Anh (như từ poetics nói trên), người ta cũng chẳng cần phải nói rõ đó là tiếng Anh hay tiếng nước nào, cứ như thể đó là chuyện đương nhiên!

Tóm lại theo tôi, về nguyên tắc, việc chua từ bằng tiếng nước ngoài chỉ được phép thực hiện trong hai trường hợp sau:

1.Khi từ được chua là một thuật ngữ mới và đang có nhiều cách hiểu và cách dịch khác nhau; hoặc khi gặp phải một thuật ngữ khoa học quan trọng thì ta có thể chua thêm thuật ngữ tương đương của ngôn ngữ nước ngoài để người đọc tham khảo nhằm xác định rõ hơn nghĩa nội hàm của thuật ngữ đó. Và tất nhiên, khi chua phải ghi rõ từ được chua là từ thuộc ngôn ngữ nào, trừ trường hợp đang nói đến tác giả thuộc một ngôn ngữ đã được xác định.

2.2. Khi ta đang đề cập đến quan điểm của một tác giả nghiên cứu người nước ngoài, thì ta có thể chua thêm chữ dùng nguyên văn của tác giả đó; và thông thường, tác giả là người nước nào thì ngôn ngữ viết của người đó sẽ là ngôn ngữ của nước đó. Trong trường hợp này, ta sẽ không cần chua thêm danh tính của ngôn ngữ dùng để chua, ngoại trừ trường hợp tác giả đó viết bằng ngôn ngữ khác với ngôn ngữ thuộc quốc tịch của anh ta thì ta phải chú thích thêm. Thông thường, khi chua một từ mà người chua không ghi rõ là ngôn ngữ nào, thì người đọc hoàn toàn có quyền hiểu ngôn ngữ dùng để chua là ngôn ngữ của nguyên tác. Ví dụ, nếu nói đến nhà nghiên cứu hình thức chủ nghĩa người Nga Shklovskij [Shklovski/Shklovsky] mà chua tên công trình Nghệ thuật như là thủ pháp của ông là Art as Technique [hay Art as Device như tên một bản dịch khác] mà không ghi rõ là bản dịch tiếng Anh, thì người đọc có quyền hiểu rằng ông này viết công trình của mình bằng tiếng Anh, trong khi đó trên thực tế Shklovskij lại viết bằng tiếng Nga, và tên nguyên tác công trình của ông phải là tên tiếng Nga: Iskusstvo kak prijom. Hay nếu ta chua tác phẩm Nghệ thuật thơ ca của Aristote là Poetics, thì người đọc cũng hoàn toàn có quyền hiểu rằng nhà triết học Hy Lạp cổ đại này cách đây hơn 2.300 năm đã biết viết văn bằng tiếng Anh, một điều không có gì phi lý hơn!

Như vậy, những điều phân tích trên cho chúng ta thấy rằng khái niệm phương pháp luận có một trường bao quát rất rộng: nó đi từ thế giới quan qua các phương pháp suy lý lôgic chung, các phương pháp riêng, các thủ pháp, kỹ thuật thao tác, đến các quy cách trình bày kết quả khoa học. Thực chất, nó cũng có nghĩa là phương pháp học và được dùng để chỉ một lĩnh vực khoa học cụ thể. Tuy nhiên, không nên đồng nhất nó với khoa học luận. Đây là nói về trường bao quát của phương pháp luận, nhưng còn về nghĩa nội hàm của nó thì ta phải định nghĩa như thế nào?

Theo định nghĩa của cuốn từ điển bách khoa Larousse của Pháp, thì từ méthodologie trong tiếng Pháp có nghĩa là Việc nghiên cứu một cách có hệ thống, thông qua quan sát, đối với công việc thực hành khoa học, đối với các nguyên tắc làm thành cơ sở cho việc thực hành công việc khoa học đó cũng như đối với các phương pháp nghiên cứu mà nó sử dụng. Theo nghĩa này thì ta có thể dịch từ méthodologie là phương pháp luận/học. Ngoài ra, từ méthodologie còn có một nghĩa thứ hai là Tập hợp các phương pháp và các kỹ thuật của một lĩnh vực riêng biệt. Theo nghĩa này thì từ méthodologie trong tiếng Pháp còn có nghĩa là tập hợp phương pháp. Theo định nghĩa của từ điển bách khoa Microsoft Encarta 99 Encyclopedia, từ methodology trong tiếng Anh cũng có nghĩa là: 1. Khoa học về phương pháp; 2. Một tập hợp các phương pháp được sử dụng trong một lĩnh vực hoạt động riêng biệt. Ở nước ta, phương pháp luận là một thuật ngữ ngoại nhập mới, cho nên nó cũng có hai nghĩa. Từ điển tiếng Việt định nghĩa phương pháp luận là: 1. Học thuyết về phương pháp nhận thức, nghiên cứu hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội [...] 2. Tổng thể nói chung những phương pháp nghiên cứu vận dụng trong một khoa học. Ở đây, có lẽ các nhà làm từ điển tiếng Việt đã tham khảo định nghĩa của từ điển nước ngoài. Song, trên thực tế ở nước ta (và có lẽ cũng như ở cả nhiều nước khác), thuật ngữ phương pháp luận hay phương pháp học thường được hiểu theo nghĩa thứ nhất của từ méthodologie trong tiếng Pháp và của từ methodology trong tiếng Anh. Tức nói ngắn gọn, phương pháp luận là khoa học về phương pháp.

Về mặt ngữ nghĩa thì nó là như vậy, nhưng về phạm vi bao quát thì ta vẫn có thể nói phương pháp luận bao quát cả các phương pháp cụ thể, với nghĩa là các vấn đề của phương pháp cũng thuộc lĩnh vực của phương pháp luận, bởi lẽ phương pháp luận là khoa học nghiên cứu về phương pháp. Nghĩa là ví dụ khi ta nói những vấn đề phương pháp luận, thì tức là có thể đó là những vấn đề về các nguyên tắc chỉ đạo về mặt phương pháp luận, nhưng cũng có thể chỉ đơn thuần là những vấn đề về các phương pháp nghiên cứu cụ thể. Còn về tên gọi, vì thuật ngữ phương pháp luận đã trở nên thông dụng hơn so với thuật ngữ phương pháp học, cho nên chúng tôi chọn thuật ngữ này và từ nay chúng ta sẽ hiểu rằng phương pháp luận hay phương pháp học cũng đều có nghĩa như nhau.

Như vậy, ta có thể định nghĩa phương pháp luận là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống các nguyên tắc chỉ đạo thực hành một công việc khoa học, cũng như nghiên cứu các phương pháp thực hành công việc khoa học đó. Tóm lại, phương pháp luận trả lời cho câu hỏi: phải nghiên cứu khoa học như thế nào?.

Đây là một định nghĩa khái quát về phương pháp luận nói chung cho các ngành khoa học (tôi nói phương pháp luận nói chung chứ không phải là phương pháp luận chung). Dựa vào đó, ta có thể định nghĩa phương pháp luận cho ngành nghiên cứu văn học như sau:

Phương pháp luận nghiên cứu văn học là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu một cách hệ thống các nguyên tắc chỉ đạo việc thực hành nghiên cứu văn học cũng như nghiên cứu các phương pháp nghiên cứu văn học, phục vụ cho lý luận, lịch sử và phê bình văn học.

Tóm lại, nếu như lý luận văn học trả lời cho câu hỏi Văn học là gì?; lịch sử văn học trả lời câu hỏi Một giai đoạn văn học diễn ra như thế nào?; phê bình văn học trả lời câu hỏi Hiện tượng văn học cụ thể này có giá trị gì?; thì phương pháp luận nghiên cứu văn học sẽ trả lời cho câu hỏi Phải nghiên cứu văn học như thế nào?. Song hiện tại, phương pháp luận nghiên cứu văn học vẫn được thâu tóm vào lý luận văn học, cho nên câu hỏi Phải nghiên cứu văn học như thế nào? cũng vẫn thuộc trách nhiệm trả lời của lý luận văn học.

Tags: Đàm luận
Chia sẻ: