Tài sản ngoại bảng là gì năm 2024

Các khoản mục ngoài bảng cân đối (tiếng Anh: Off-Balance Sheet) là một thuật ngữ cho các tài sản hoặc nợ phải trả không xuất hiện trên bảng cân đối kế toán của công ty.

Tài sản ngoại bảng là gì năm 2024

Hình minh họa

Các khoản mục ngoài bảng cân đối (Off-Balance Sheet)

Định nghĩa

Các khoản mục ngoài bảng cân đối trong tiếng Anh là Off-Balance Sheet.

Các khoản mục ngoài bảng cân đối thường gọi tắt là các mục ngoại bảng.

Các khoản mục ngoài bảng cân đối (OBS) là một thuật ngữ cho các tài sản hoặc nợ phải trả không xuất hiện trên bảng cân đối kế toán của công ty.

Mặc dù không được ghi nhận trên bảng cân đối kế toán, các khoản mục ngoài bảng cân đối vẫn là tài sản và nợ phải trả của công ty.

Bản chất và đặc trưng của các khoản mục ngoài bảng cân đối

- Các mục ngoại bảng thường là những mục không thuộc sở hữu hoặc nghĩa vụ trực tiếp của công ty. Ví dụ, các khoản vay được chứng khoán hóa và bán hết dưới dạng khoản đầu tư, khoản nợ được bảo đảm được ghi nhận ngoài sổ sách của ngân hàng. Một hợp đồng thuê hoạt động là một trong những khoản mục nằm ngoài bảng cân đối kế toán phổ biến nhất.

- Các khoản mục ngoại bảng là mối quan tâm lớn đối với các nhà đầu tư khi đánh giá sức khỏe tài chính của công ty. Các mục ngoại bảng thường khó xác định và theo dõi trong báo cáo tài chính của một công ty vì chúng thường chỉ xuất hiện trong các ghi chú đi kèm. Ngoài ra, mối quan tâm là một số khoản mục ngoại bảng có khả năng trở thành các khoản nợ ẩn.

- Ví dụ, nghĩa vụ nợ được thế chấp (CDO) có thể trở thành tài sản độc hại - loại tài sản đột nhiên trở nên gần như mất thanh khoản, trước khi các nhà đầu tư nhận thức được khả năng xảy ra rủi ro.

Ví dụ

Vụ bê bối Enron là một trong những phát triển đầu tiên đưa việc sử dụng các thực thể ngoại bảng đến sự chú ý của công chúng.

Trong trường hợp của Enron, công ty sẽ xây dựng một tài sản như nhà máy điện và ngay lập tức tuyên bố lợi nhuận dự kiến trên sổ sách của mình mặc dù họ đã không kiếm được xu nào từ nó. Nếu doanh thu của nhà máy điện nhỏ hơn số tiền dự kiến, thay vì ghi nhận một khoản lỗ, công ty sẽ chuyển các tài sản này thành khoản mục ngoài bảng cân đối, nơi mà tổn thất sẽ không được báo cáo.

Tài khoản này dùng để phản ánh giá trị của tất cả tài sản (bao gồm TSCĐ, BĐS đầu tư và công cụ, dụng cụ) mà doanh nghiệp thuê của đơn vị khác.

KẾT CẤU VÀ NỘI DUNG PHẢN ÁNH CỦA

TÀI KHOẢN 001 - TÀI SẢN THUÊ NGOÀI

Bên Nợ:

Giá trị tài sản thuê ngoài tăng.

Bên Có:

Giá trị tài sản thuê ngoài giảm.

Số dư bên Nợ:

Giá trị tài sản thuê ngoài hiện còn.

Tài khoản này chỉ phản ánh giá trị tài sản thuê ngoài theo phương thức thuê hoạt động (Thuê xong trả lại tài sản cho bên cho thuê). Tài sản này không phản ánh giá trị tài sản thuê tài chính.

Kế toán tài sản thuê ngoài phải theo dõi chi tiết theo từng tổ chức, cá nhân cho thuê và từng loại tài sản. Khi thuê tài sản phải có biên bản giao nhận tài sản giữa bên thuê và bên cho thuê. Đơn vị thuê tài sản có trách nhiệm bảo quản an toàn và sử dụng đúng mục đích tài sản thuê ngoài. Mọi trường hợp trang bị thêm, thay đổi kết cấu, tính năng kỹ thuật của tài sản phải được đơn vị cho thuê đồng ý. Mọi chi phí có liên quan đến việc sử dụng tài sản thuê ngoài được hạch toán vào các tài khoản có liên quan trong Bảng Cân đối kế toán.

Các chỉ tiêu ngoài bảng cân đối kế toán hiểu nôm na là các cam kết thanh toán, trả nợ, cấp tín dụng…hay các hợp đồng phái sinh tỷ giá của ngân hàng với khách hàng trong tương lai. Vì đây chỉ là các “cam kết” chứ không phải đã thực hiện ngay nên chúng không được ghi nhận ở nội bảng (balance sheet) mà chỉ có thể đưa ra ngoại bảng (off-balance sheet).

Tại các ngân hàng thương mại, các chỉ tiêu ngoại bảng được chia làm nghĩa vụ nợ tiềm ẩn và các cam kết giao dịch hối đoái. Trong đó, các cam kết giao dịch hối đoái tuy vẫn có rủi ro nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng cam kết ngoại bảng. Do vậy, tác giả cho rằng rủi ro tiềm tàng của ngân hàng chủ yếu đến từ các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn, cụ thể là cam kết bảo lãnh vay vốn (vay thấu chi), cam kết trong nghiệp vụ L/C và cam kết bảo lãnh khác (bảo lãnh thanh toán, thực hiện hợp đồng, dự thầu…).

Thực trạng tại các ngân hàng thương mại hiện nay ra sao?

Theo báo cáo tài chính năm 2015, nghĩa vụ nợ tiềm ẩn của các NHTM top đầu lên tới 360.932 tỷ đồng, tỷ lệ nợ tiềm ẩn/dư nợ tín dụng là 16%. Điều này có nghĩa rằng, khi rủi ro xảy ra, các NHTM sẽ phải thanh toán 1 khoản nợ không hề nhỏ.

Bảng số liệu tổng hợp cho thấy, phần lớn nghĩa vụ nợ tiềm ẩn là các cam kết trong nghiệp vụ L/C (chiếm xấp xỉ 40%) và cam kết bảo lãnh khác (chiếm gần 59%). Cam kết bảo lãnh vay vốn chỉ chiểm tỷ trọng nhỏ trong nghĩa vụ nợ tiềm ẩn của các ngân hàng thương mại. Trong các nghiệp vụ, mặc dù L/C vẫn có thể coi là nghiệp vụ bảo lãnh, tuy nhiên, hình thức này là bảo lãnh qua thư tín dụng và có độ rủi ro thấp hơn so với các cam kết bảo lãnh khác.

Tài sản ngoại bảng là gì năm 2024

BID là ngân hàng có nghĩa vụ nợ tiềm ẩn lớn nhất trong nhóm 9 ngân hàng so sánh với 134.570 tỷ đồng. Theo đó, phí bảo lãnh của BIDV cũng lớn nhất trong nhóm, đạt 1.282 tỷ đồng.

Tiếp theo là MB với 70.423 tỷ đồng, trong đó, các cam kết trong nghiệp vụ L/C chiếm 51,9%, cam kết bảo lãnh vay vốn chiếm 0,2% và các cam kết bảo lãnh khác chiếm 47,9%. Tổng nghĩa vụ nợ tiềm ẩn của MB chiếm đến 58,5% dư nợ tín dụng (cao nhất trong nhóm ngân hàng so sánh).

ACB và STB dường như đang cho thấy mức độ “an toàn” nhất khi nợ tiềm ẩn chủ yếu bao gồm các cam kết L/C (chiếm trên 62%) và tỷ lệ nợ tiềm ẩn/dư nợ cho vay khách hàng chỉ chiếm lần lượt 4,5% và 5,7%.

Điểm đáng chú ý từ bảng biểu trên là tỷ lệ phí bảo lãnh/nợ tiềm ẩn chỉ chiểm 1 tỷ lệ rất nhỏ, từ 0,6-3,5%. Điều này có nghĩa là rủi ro tiềm ẩn lớn nhưng mức độ lợi nhuận lại không tỷ lệ thuận với rủi ro.

Trước đây, vụ việc bên nhận bảo lãnh không thanh toán tiền khiến Ngân hàng Agribank phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên được bảo lãnh là Công ty TNHH Cao Trường Sơn số tiền 38,5 tỷ đồng. Hay như vụ lùm xùm giữa SeABank và Công ty Tài chính Vinaconex – Viettel (VVF) về thương vụ bảo lãnh thanh toán trị giá 150 tỷ đồng cho Công ty cổ phần Tập đoàn Vina Megastar đối với lượng trái phiếu công ty này bán cho VVF đã gây ra nhiều tranh cãi giữa các bên liên quan. Các ví dụ trên là hồi chuông cảnh báo đối với các khoản nợ tiềm ẩn ở các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Các khoản ngoại bảng cần được chú trọng hơn

Theo TT02/2013-NHNN quy định đối với các cam kết ngoại bảng, các ngân hàng thương mại chỉ thực hiện phân loại nợ để quản lý, giám sát chất lượng tín dụng, không thực hiện trích lập dự phòng rủi ro. Ngân hàng chỉ phải trích lập dự phòng khi rủi ro xảy ra. Điều này càng làm gia tăng các rủi ro tiềm ẩn trong tương lai và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, lợi nhuận của các ngân hàng.

Đối với nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán hay bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ khác, khi hoàn cảnh kinh doanh khó khăn có thể đẩy nhiều doanh nghiệp đến việc vi phạm thỏa thuận. Lúc này ngân hàng sẽ phải đứng ra thực hiện nghĩa vụ với bên được bảo lãnh và các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn sẽ trở nghĩa vụ nợ thực sự. Thêm vào đó, nguy cơ trở thành nợ xấu đối với các khoản nợ này cũng rất cao.

Mặc dù các khoản bảo lãnh có thể yêu cầu tỷ lệ ký quỹ nhất định để giảm thiểu tổn thất khi rủi ro xảy ra. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả, đối với những doanh nghiệp lớn, uy tín thì ít ngân hàng yêu cầu ký quỹ hoặc ký quỹ 1 tỷ lệ rất nhỏ vì dòng tiền gửi của những doanh nghiệp này mở ở tài khoản ngân hàng lớn hơn nhiều so với hạn mức cam kết bảo lãnh.