Tiền mẫn cảm là gì

Xét nghiệm HLA là xét nghiệm phát hiện kháng nguyên kháng bạch cầu người trong máu. Chức năng quan trọng nhất của HLA là trong việc cảm ứng và điều chỉnh các phản ứng miễn dịch. Nhiều bệnh ở người, như tự miễn dịch, viêm và ác tính, phổ biến hơn đáng kể ở những người mang HLA đặc biệt.

1. HLA là gì?

Kháng nguyên bạch cầu người - HLA (Human Leukocyte Antigen) là các glycoprotein được tìm thấy ở hầu hết các tế bào có nhân trong cơ thể, song chúng được tìm thấy nhiều nhất trên bề mặt bạch cầu. HLA là thành phần chủ yếu được hệ thống miễn dịch sử dụng để quyết định một chất có phải là của chính bản thân nó hay là một chất ngoại lai.

Hình 1: HLA

Các gen HLA được chia thành ba nhóm riêng biệt: lớp I, lớp II và lớp III. Khả năng có nhiều biến thể trong các gen này đóng vai trò chính trong việc cung cấp cho hệ thống miễn dịch khả năng bảo vệ chống lại một loạt các kháng nguyên.

HLA nhóm 1 hay A, B, C gồm: A (từ A1 đến A28), B (từ B1 đến B47), C (từ C1 đến C8).

HLA nhóm II hay D gồm: D/DP (D/DP1 đến D/DP6), D/DQ (từ D/DQ1 đến D/DQ3), D/DR (từ D/DR1 đến D/DR14).

HLA nhóm III mã hóa đối với phần của bổ thể Bf, C2, C4b.

Hệ thống HLA rất hữu ích trong việc ghép mô, trong đó các mô từ một cá nhân được phân tích để xác định liệu chúng có thể được cấy ghép thành công cho một cá nhân khác hay không. Một số gen HLA có liên quan đến các bệnh ở người, bao gồm một số rối loạn tự miễn dịch và ung thư.

2. Xét nghiệm HLA thường được tiến hành khi nào?

Xét nghiệm HLA ứng dụng trong ghép tạng: đây là vai trò rất quan trọng của xét nghiệm HLA vì tính tương tính mô hay tổ chức. Người ghép tạng và người hiến tạng phải có sự phù hợp về HLA trước khi ghép, nếu không sẽ có hiện tượng thải ghép.

Xét nghiệm HLA trong ghép tủy xương: Với các trường hợp ghép tủy cần xét nghiệm nhóm máu ABO và hệ HLA-A, B, D, C; DR, DQ, DP của người cho và người nhận để kiểm tra sự phù hợp.

Xét nghiệm HLA trong một số bệnh lý miễn dịch: B27 với viêm cột sống dính khớp; B8 với viêm da dạng hecpet (dermatite hertiforme); HLA-B51 và bệnh Behçet's Dw4 liên quan tới bệnh thấp khớp, DQw 8 liên quan tới đái tháo đường, DR3 liên quan tới nhược cơ, DR4 liên quan tới lupus ban đỏ,...

Đôi khi xét nghiệm HLA còn được ứng dụng trong xác định mối quan hệ huyết thống.

Hình 2: Xét nghiệm HLA không thể thiếu trong ghép tạng

3. HLA đóng vai trò gì trong sức khỏe và bệnh tật

HLA và đáp ứng miễn dịch: Chức năng quan trọng nhất của HLA là trong việc cảm ứng và điều chỉnh các phản ứng miễn dịch. Phân tử HLA lớp I có chức năng hoạt động tế bào T lympho gây độc, trực tiếp tham gia phản ứng tiêu diệt tế bào đích có kháng nguyên lạ đặc hiệu. Ví dụ như viêm gan B, kháng nguyên virus HBV kết hợp đặc hiệu với HLA lớp I trên bề mặt tế bào gan, tế bào Tc sẽ nhận biết kháng nguyên này của virus và phá huỷ tế bào mang virus HBV.

Phân tử HLA- lớp II tham gia hoạt động tế bào trình diện kháng nguyên.

Các kháng nguyên phân tử lớn từ được đại thực bào nuốt kháng nguyên này, rồi phân kháng nguyên thành các mảnh nhỏ, các nhóm quyết định kháng nguyên sẽ chuyển lên màng tế bào, lắng đọng trên mặt thực bào và chuyển thông tin kháng nguyên cho tế bào miễn dịch để kích hoạt và giải phóng các cytokin và khuếch đại phản ứng miễn dịch của cơ thể, như IL-2, TNF-ot, IFN-y, IL-4,... Do đó, các sản phẩm HLA là một phần không thể thiếu của sức khỏe miễn dịch, và có ý nghĩa trong lĩnh vực lâm sàng và di truyền.

Một số bệnh lý cũng có liên quan đến sự bất thường HLA như:

Chứng ngủ rũ: là một rối loạn thần kinh đặc trưng bởi buồn ngủ ban ngày quá mức, cataplexy, ảo giác thôi miên, tê liệt giấc ngủ và rối loạn giấc ngủ về đêm. Ở những người mắc hội chứng này người ta phát hiện có sự xuất hiện của kháng nguyên HLA - DR2 .

Bệnh huyết sắc tố: rối loạn quá tải sắt do sai lầm di truyền ‐ quy định thu nhận sắt. Những người mắc bệnh này sẽ có kết quả xét nghiệm HLA A3 hay/và B14 dương tính.

Đối với các bệnh truyền nhiễm: để đáp ứng miễn dịch hiệu quả với mầm bệnh xảy ra, các phân tử HLA phải liên kết các peptide có nguồn gốc từ protein của vi sinh vật để trình diện kháng nguyên cho đại thực bào tiêu diệt hoặc hoạt hóa tế bào T trực tiếp tiêu diệt vi sinh vật. Việc không đáp ứng một trong hai yêu cầu này có thể khiến cơ thể dễ mắc một bệnh truyền nhiễm đặc biệt hơn. Nhiều nghiên cứu nhận thấy rằng, những người mang alen HLA-Bw54 thường có tỷ lệ mang HbsAg rất cao so với những nhóm người khác. Những người mang alen HLA-DR13 thì lại có khả năng loại trừ kháng nguyên HbsAg rất nhanh sau khi bị Viêm gan do virus B cấp tính.

HIV/AIDS: Virus gây suy giảm miễn dịch ở người và hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (HIV/AIDS) là một trong số ít các bệnh truyền nhiễm cho thấy mối liên quan rõ ràng và nhất quán của HLA. Nhiễm HIV thường biểu hiện với một hội chứng virus cấp tính, sau đó là giai đoạn kiểm soát miễn dịch với tải lượng virus tương đối thấp và số lượng tế bào CD4 + ổn định. Sau khoảng thời gian không có triệu chứng này thường 8 - 10 năm, tải lượng virus tăng, CD4 + T đếm tế bào thả và AIDS - xác định nhiễm trùng cơ hội hoặc khối u ác tính xảy ra ở những bệnh nhân không được điều trị. Tuy nhiên, có một số bệnh nhân có khả năng kiểm soát HIV vượt trội.

Hình 3: HLA cũng có liên quan đến nhiễm virus HIV

Trong các bệnh ung thư: Các chất gây ung thư và virus gây ung thư kích hoạt các gen dẫn tới sự tăng sinh của các tế bào bất thường và mất khả năng tự sửa chữa của tế bào bình thường. Trong các tế bào ung thư, một số kháng nguyên bề mặt bị mất và một số khác được thể hiện. Cấu trúc và chức năng của HLA bị thay đổi và rối loạn dẫn tới mất khả năng tiêu diệt các tế bào lạ và sản xuất các cytokine ức chế miễn dịch, từ đó dẫn tới việc khối u phát triển thoát khỏi sự giám sát của hệ thống miễn dịch

Trong truyền máu: Các kháng nguyên nhóm I của HLA có nhiều ở bạch cầu và tiểu cầu, nhưng có rất ít trên hồng cầu. Mỗi lần truyền tiểu cầu hoặc bạch cầu do đó có nguy cơ gây miễn dịch cho bệnh nhân. Vì vậy, với người bệnh có hệ thống miễn dịch bình thường, cần truyền một số lượng lớn máu, tiểu cầu hoặc bạch cầu cô đặc có thể sẽ có các kháng thể đối với kháng nguyên HLA.

Đối với bệnh thận giai đoạn cuối: một bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối khi các triệu chứng nghiêm trọng, chỉ có thể được điều trị bằng cách lọc máu và cấy ghép thận.

HLA và độ nhạy của thuốc: phản ứng dị ứng thuốc xảy ra khi một loại thuốc, thường là phân tử trọng lượng phân tử thấp, có khả năng kích thích phản ứng miễn dịch. Một số cơ chế thay thế của nhận dạng miễn dịch đã được đề xuất để giải thích quá mẫn cảm với thuốc liên quan đến HLA.

Trong các bệnh tự miễn: Một số rối loạn tự miễn dịch cũng được liên hệ với HLA cụ thể như:

- Bệnh vẩy nến đến HLA-C 06.

- Viêm cột sống dính khớp và viêm khớp phản ứng với HLA-B27.

- Chứng ngủ rũ đối với HLA-DR2 và HLA THAR DQB106.

- Bệnh đái tháo đường týp 1 thành HLA-DQ2 và HLA-DQ8.

- Bệnh đa xơ cứng đối với HLA-DR2.

- Viêm khớp dạng thấp đến HLA-DR4.

Xét nghiệm HLA là một xét nghiệm tương đối phức tạp và thời gian chờ kết quả tương đối lâu nên vấn đề chọn cơ sở y tế để thăm khám về xét nghiệm này rất quan trọng. Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC với sự hợp tác của các chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực về y tế cùng với hệ thống trang thiết bị hiện đại và dịch vụ tra cứu kết quả tại nhà luôn đáp ứng được các nhu cầu về chăm sóc sức khỏe của người dân trên khắp cả nước

Home > Miễn dịch ghép > Câu hỏi thường gặp về Các xét nghiệm ghép?


Ghép là gì?

Ghép là thủ thuật trong đó một cơ quan (tạng) hoặc mô bị bệnh của bệnh nhân (người nhận ghép - recipient) được thay thế bằng cơ quan hoặc mô lành. Đối với ghép tạng (ví dụ: ghép thận, gan, tim, phổi, tụy …), cần có một phần hoặc toàn bộ tạng ghép từ một người khác (người cho - donor) hiến tặng. Trong trường hợp ghép mô (ví dụ: ghép da, xương, giác mạc, tủy xương, tế bào gốc …), nguồn mô ghép có thể từ người người cho, hoặc được lấy từ chính bản thân cơ thể bệnh nhân cần ghép.


HLA là gì?


HLA là tên viết tắt của kháng nguyên bạch cầu người (human leucocyte antigen), bản chất là các phân tử protein, được phát hiện lần đầu trên các tế bào bạch cầu người, nhưng cũng có mặt trên nhiều loại tế bào khác của người. Khi ghép tạng/mô, hệ thống miễn dịch của người nhận ghép có khả năng nhận biết các phân tử kháng nguyên HLA "lạ" của người cho (có mặt trên tế bào của tạng/mô ghép), sau đó hình thành các cơ chế đáp ứng miễn dịch tấn công tạng/mô ghép (phản ứng thải ghép), dẫn đến giảm và/hoặc mất chức năng tạng, mô ghép. HLA là nhân tố quan trọng kích hoạt phản ứng thải ghép (vì vậy HLA còn được gọi là kháng nguyên hòa hợp mô). Sự không hòa hợp HLA giữa người cho và người nhận tạng hoặc mô ghép sẽ dẫn tới phản ứng thải ghép. Có thể xác định được HLA của một người nào đó bằng các xét nghiệm miễn dịch.



Tại sao trước khi ghép tạng, cần phải xét nghiệm HLA của người cho và người nhận?


Ngoại trừ ghép tạng/mô giữa các cá thể sinh đôi cùng trứng (nghĩa là người cho và người nhận tạng là các anh/chị em sinh đôi cùng trứng, giống nhau hoàn toàn về kháng nguyên HLA), khi tiến hành ghép tạng/mô để điều trị bệnh, luôn có sự khác biệt nhất định về kháng nguyên HLA giữa người cho và người nhận. Mức độ khác biệt HLA giữa người cho và người nhận càng nhiều, phản ứng thải ghép diễn ra càng mạnh. Xét nghiệm HLA của người cho và người nhận trước khi ghép cho phép lựa chọn cặp người cho - người nhận có sự phù hợp tốt nhất về HLA, nhằm giảm thiểu mức độ phản ứng thải ghép xuất hiện sau khi ghép.

Xét nghiệm HLA được thực hiện như thế nào?

Xét nghiệm HLA được thực hiện chủ yếu tại các phòng xét nghiệm (la-bô) miễn dịch. Các kỹ thuật xét nghiệm HLA phổ biến nhất hiện nay sử dụng tế bào bạch cầu để xác định HLA. Để thực hiện xét nghiệm, cần phải lấy một mẫu máu tĩnh mạch của người được xét nghiệm (khoảng 5ml), có chất chống đông máu. Tiếp đó, tách các tế bào bạch cầu từ mẫu máu, rồi sử dụng các thiết bị, hóa chất, sinh phẩm chuyên dụng để xác định kháng nguyên HLA biểu lộ trên bề mặt tế bào, hoặc xác định gien mã hóa kháng nguyên HLA nằm trong phân tử DNA (deoxyribonucleic acid) của nhân tế bào. Thời gian thực hiện xét nghiệm HLA cho một mẫu thường kéo dài khoảng 4 - 6 giờ, tùy thuộc vào phương pháp kỹ thuật xét nghiệm, chủng loại hóa chất, sinh phẩm, thiết bị được sử dụng cho xét nghiệm.

Xét nghiệm HLA có giá trị gì khác trong chẩn đoán, điều trị bệnh?

Một số bệnh nhất định được chứng minh là có sự liên quan mật thiết với một hoặc vài typ HLA. Chẳng hạn, bệnh viêm cột sống dính khớp (ankylosing spondylitis) có liên quan với HLA-B27: những người có HLA-B27 sẽ có nhiều khả năng mắc bệnh này hơn so với những người không có HLA-B27. Xét nghiệm xác định HLA-B27 có thể giúp bác sĩ lâm sàng chẩn đoán phân biệt bệnh viêm cột sống dính khớp với một số bệnh khác của cột sống. Ngoài ra, trong những trường hợp nhất định, xét nghiệm HLA có thể được sử dụng để xác định có hay không mối quan hệ huyết thống giữa cha và con.

Ngoài xét nghiệm HLA, cần làm xét nghiệm miễn dịch nào khác trước khi ghép tạng?

Bên cạnh xét nghiệm HLA, các la-bô miễn dịch còn tiến hành xét nghiệm phát hiện các kháng thể trong huyết thanh người nhận, có tiềm năng tấn công tạng ghép. Các xét nghiệm phát hiện kháng thể thường được tiến hành bao gồm:

- Xét nghiệm đọ chéo (cross-match)

- Xét nghiệm trạng thái tiền mẫn cảm (panel-reactive antibodies - PRA)

Đọ chéo là gì?

Xét nghiệm đọ chéo nhằm phát hiện sự có mặt của kháng thể có sẵn trong huyết thanh người nhận ghép đặc hiệu với kháng nguyên của người cho dự kiến. Kháng thể này, nếu có, sẽ dẫn đến nguy cơ phản ứng thải ghép tối cấp, nghĩa là tạng ghép bị tấn công và mất chức năng ngay sau khi dòng máu của người nhận đi vào tạng ghép. Để thực hiện xét nghiệm này, cần lấy mẫu máu của cả người nhận ghép và người cho tạng dự kiến. Sự có mặt của kháng thể đặc hiệu với kháng nguyên của người cho trong máu người nhận là một chống chỉ định của ghép tạng.

Trạng thái tiền mẫn cảm là gì?

Trong một số trường hợp, trong máu của người nhận ghép có sẵn một số kháng thể kháng HLA. Tình trạng có sẵn kháng thể kháng HLA trong huyết thanh người nhận trước ghép được gọi là trạng thái tiền mẫn cảm. Nguyên nhân hình thành các kháng thể này có thể là do được truyền máu nhiều lần, phụ nữ mang thai nhiều lần, hoặc được ghép tạng/mô trước đó. Các kháng thể này có thể là nhân tố tham gia phản ứng thải ghép, nếu một hoặc nhiều trong số chúng đặc hiệu với kháng nguyên HLA của người cho. Có thể xét nghiệm sàng lọc (xác định sự có mặt) hoặc định danh (xác định cụ thể) kháng thể kháng HLA trong huyết thanh người nhận bằng các kỹ thuật xét nghiệm miễn dịch. Tên gọi "xét nghiệm PRA" xuất phát từ phương pháp kỹ thuật được sử dụng đầu tiên để sàng lọc kháng thể kháng HLA: trộn huyết thanh người nhận ghép lần lượt với từng loại tế bào lympho trong một tập hợp (panel) nhiều loại tế bào lympho khác nhau (mỗi loại lấy từ một người cho, với các kháng nguyên HLA đã được xác định trước đó), sau đó quan sát mức độ phản ứng của huyết thanh người nhận với các loại tế bào lympho trong panel.



Video liên quan

Chủ đề