Tiêu luận nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng Tháng Tám năm 1945

Tiểu luận Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945 ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.01 KB, 25 trang )

Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
ST
T
HỌ VÀ TÊN MSSV NHIỆM VỤ
NHÓM ĐÁNH
GIÁ NHIỆM VỤ
1 Nguyễn Thị Ngọc Yến ( NT) 152523855
Tìm hiểu phần 3
vận dụng
100 %
2 Trần Thị Mỹ 152523849
Tìm hiểu phần 3
vận dụng
100 %
3 Nguyễn Thị Bích Thủy
Tìm hiểu phần 3
vận dụng
100 %
4 Dương Vũ Nhật Miên
Viết nội dung phần
mở bài & kết luận
95%
5 Lương Thị Bích Nhung
Tìm hiểu phần 2 a
95%
6 Nguyễn Thị Hồng Loan
Tìm hiểu phần 2 b
90%
7 Nguyễn Trung Tính
Tìm hiểu phần 1 a +


b 90%
MỤC LỤC
Trang
1
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
***
I/ Mở đầu 3
II/ Nội dung 4
1/ Lý luận chung về vấn đề thời cơ 4
a) Khái niệm thời cơ 4
b) Vai trò của thời cơ 4
2/ Thời cơ trong cách mạng Tháng Tám 4
a) Xác định thời cơ trong cách mạng Tháng Tám 4
b) Kết quả của việc chớp đúng thời cơ của Đảng ta 9
3/ Vận dụng 11
III/ Kết luận 22
I/ MỞ ĐẦU
Trang
2
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
Việt Nam chúng ta vốn dĩ là một đất nước giàu tài nguyên thiên
nhiên , lại nằm trong ngã ba Đông Dương nên được xem như là một miếng
mồi ngon và béo bở của nhiều nước trên thế giới lúc bấy giờ. Do đó trong
quá trình đi xâm lấn, mở rộng thuộc địa, tư bản phương Tây đã để ý tới nước
ta. Năm 1958, đế quốc Pháp nổ súng xâm lược nước ta, Triều đình nhà
Nguyễn ký hiệp ước Pa-Tơ -Nốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc
pháp.Từ đó chúng ta là thuộc địa của chúng, cũng kể từ đó nhân dân ta chịu
đựng bao đau khổ, lầm than dưới sự bóc lột tận cùng của thực dân Pháp đã
làm hằn sâu trong tiềm thức mỗi người Việt Nam ý chí kiên cường.
Bằng sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, đánh dấu


một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và việc chớp đúng thời cơ đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức to lớn, nó
đã phá tan hai tầng xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp kéo dài hơn 80 năm
và của phát xít Nhật đồng thời nó còn lật đổ chế độ Phong kiến tồn tại ngót
ngàn năm trên đất nước ta, lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mở
ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Cách mạng tháng Tám được xem là một sự kiện lịch sử vĩ đại của dân
tộc Việt Nam, cũng như để lại nhiều bài học quý giá cho sự phát triển về
kinh tế, văn hóa, chính trị,…của đất nước ta sau này, để tìm hiểu kỹ hơn về
việc chớp đúng thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945 và sự ảnh hưởng
của thời cơ đến nước ta hiện nay, nhóm chúng em đã nghiên cứu đề tài: “
Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945 ở Việt Nam”. Do sự
hạn hẹp về kiến thức và tính phức tạp của đề tài nên trong quá trình làm bài
không tránh khỏi những hạn chế và sai sót, mong nhận được sự đóng góp ý
kiến từ cô giáo.
Trang
3
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
II/ NỘI DUNG
1/ Lý luận chung về vấn đề thời cơ :
a/ Khái niệm thời cơ :
Thời cơ là một hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, là
tình thế xuất hiện trong thời điểm nhất định có lợi nhất có lợi nhất cho việc
phát huy mọi sức mạnh, đảm bảo một việc nào đó có thể tiến hành để giành
thắng lợi. Thời cơ, đó là một thành tố khách quan, hoàn toàn không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân nào, của một tổ chức chính trị
nào. Nó xuất hiện một cách bất ngờ và tồn tại trong một khoảng thời gian
nhất định. Nói như vậy không có nghĩa là thời cơ là một cái gì đó không thể
biết trước được, không thể đoán định được. Tuy nhiên, điều lý thú là ở chỗ,
nó có mà không có và ngược lại. Vì thế, không phải ai cũng có thể dự báo


được thời cơ, theo dõi, nắm bắt nó và cuối cùng là lợi dụng nó để đạt tới cái
đích của mình.
b/ Vai trò của thời cơ:
Thời cơ là một khái niệm rất quan trọng, gắn liền với sự thành bại của
mỗi cá nhân, của các đảng phái chính trị và của mỗi cộng đồng với những
quy mô khác nhau, khi ta biết tận dụng được hết những thuận lợi để đem đến
thành công.
2/ Thời cơ trong cách mạng tháng tám
a/ Xác định thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945:
Một cuộc khởi nghĩa hoặc tổng khởi nghĩa muốn thắng lợi đòi hỏi phải
hội đủ những điều kiện bên trong và bên ngoài (chủ quan và khách quan) mà
chúng ta thường gọi là điều kiện chín muồi. Cách mạng tháng Tám đã hội đủ
các điều kiện cần thiết. Chúng ta hãy thử quay ngược thời gian xem Đảng
Cộng sản Việt Nam, một tổ chức chính trị mạnh mẽ và rộng lớn nhất lúc đó,
đã dự báo thời cơ cho cuộc vùng dậy xung thiên vào tháng 8-1945 từ bao
Trang
4
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
giờ. Có thể từ tháng 5-1941, trong Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ tám dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và
Quyền Tổng Bí thư Trường Chinh, tại Pắc Bó, Cao Bằng. Nghị quyết đã dự
báo một cách chính xác về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của
nó: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội
chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội
chủ nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều nước thành công…”
(1)
. Nghị quyết này
được thông qua vào tháng 5-1941, khi Liên Xô chưa tham chiến; một tháng
sau, tháng 6-1941, phát-xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Như vậy, thời cơ
sẽ đến với nhiều nước trên thế giới khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc,


phần thắng nghiêng về Liên Xô và phe dân chủ. Đó là một khả năng làm
xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng nhiều nước, trong đó có cách mạng
nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của thời cơ, Đảng ta đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chi Minh đã sớm đưa ra những quan điểm, Người viết: “Đằng
sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục,
đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến. Bộ phận ưu
tú phải thúc đẩy cho thời cơ đến mau”. Với sự phân tích chính xác, khoa học
mâu thuẫu trong hàng ngũ kẻ thù, đã dự báo cuộc đảo chính của Nhật ở
Đông Dương và vạch ra những kế hoạch hành động khi tình hình mới tới.
Và sau khi phân tích mâu thuẫn ngày càng tăng trong hàng ngũ kẻ thù,
Trường Chinh đã đi tới một nhận định đúng đắn là, sớm hay muộn cuộc đấu
súng giữa chúng với nhau nhất định sẽ xảy ra: “Sự xung đột giữa Nhật -
Pháp ngày thêm sâu sắc. Cho nên Nhật gấp rút”. Đảng và phong trào cách
mạng của quần chúng chủ động đón nhận. Vì thế, khi cuộc đảo chính của
Nhật nổ ra vào đêm 9-3-1945, Đảng ta không bị động trước thời cuộc mà
trái lại, chủ động vạch ra những nhiệm vụ chiến lược sát đúng để đưa cách
mạng tiếp tục tiến lên. Ngay trong đêm Nhật - Pháp bắn nhau, từ chập tối,
Trang
5
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường
Chinh, đã khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, Bắc Ninh. Sợ bị lộ, Hội nghị chuyển
sang làng Đình Bảng họp tiếp. Trên đường đi, bỗng nghe tiếng súng nổ dồn
từ phía Hà Nội, các đồng chí dự Hội nghị dồn bước tới địa điểm mới, họp
tiếp và ra ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”
vào ngày 12-3-1945. Bản Chỉ thị đó lập tức được chuyển tới nhà in bí mật
của Đảng tại làng Tráng Việt, huyện Mê Linh, Hà Nội. Ông Nguyễn Lương
Hoàng phụ trách nhà in, đã cấp tốc cho in hàng nghìn bản và theo những
đường giây bí mật chuyển đi các nơi. Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính
của Nhật ở Đông Dương đã tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc,


nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi, tuy vậy cũng đã tạo ra
những tiền đề cần thiết thúc đẩy cuộc khởi nghĩa chóng tới. Trong Bản Chỉ
thị đó, Ban Chấp hành Trung ương, ngoài việc xác định kẻ thù mới và đề ra
khẩu hiệu đấu tranh mới, còn dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho
nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước, đó là: Quân Đồng
minh vào Đông Dương đánh Nhật và Nhật đầu hàng Đồng minh. Dưới ánh
sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương đến địa
phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Sau khi
Hồng quân Liên Xô tiêu diệt một triệu quân Quan đông của Nhật ở Đông
Bắc Trung Quốc và Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma và
Na-ga-sa-ki, ngày 9-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh của Nhật Bản đã
họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pô-xđam. Sau những cuộc
thương lượng giữa Nhật Bản và Đồng minh, ngày 14-8-1945, Hội đồng tối
cao chiến tranh và nội các Nhật Bản với sự hiện diện của Nhật hoàng đã
nhóm họp và thông qua quyết định đầu hàng Đồng minh. Đúng giữa trưa
ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh
trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng
Trang
6
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Tin đó đến với lãnh tụ Hồ Chí Minh rất sớm
qua bản tin đài BBC mà Người nghe được ở lán Nà Lừa, Tân Trào (Tuyên
Quang). Thời cơ có một không hai đã đến với dân tộc chúng ta, bởi vậy, “Dù
phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do độc lập!”
(Lời của lãnh tụ Hồ Chính Minh nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp ở lán Nà
Lừa). Lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban
khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra quân lệnh số 1, trong
đó có đoạn viết: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân
Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà… Chúng ta phải hành
động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!


Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”
(2)
.
Tiếp đó, Hội nghị Đảng toàn quốc và Quốc dân Đại hội nhóm họp tại Tân
Trào quyết định phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả
nước. Như trên đã nói, thời cơ xuất hiện và tồn tại trong một khoảng thời
gian nhất định. Trong Cách mạng Tháng Mười Nga, thời cơ chỉ tồn tại trong
vòng 24 giờ. Còn trong Cách mạng Tháng Tám, thời cơ tồn tại một cách
khách quan trong vòng hai mươi hôm, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố
đầu hàng (ngày 15-8-1945) và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí
giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pô-xđam (ngày 5-9-1945).
Nếu phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày
15-8-1945 và sau ngày 5-9-1945 đều không có khả năng thành công, bởi
trước ngày 15-8-1945, quân Nhật còn mạnh và sau ngày 5-9-1945, trên đất
nước có nhiều kẻ thù (từ vĩ tuyến 16 trở ra là quân Tưởng - Mỹ và sau đó là
những kẻ “theo đóm ăn tàn”, và từ vĩ tuyến 16 trở vào là quân Anh và sau nó
là quân Pháp trở lại xâm lược). Chỉ có thể giành chính quyền thắng lợi trong
ngưỡng thời gian khắc nghiệt này.Vì thế, vào tháng 7-1945, cho dù đang bị
Trang
7
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
ốm giữa rừng Tân Trào, khi biết tin phát xít Đức-Ý đã bại trận trên chiến
trường Châu Âu. Ở Châu Á, phát xít Nhật đang trên đường sụp đổ, Bác Hồ
vẫn chỉ thị cho các đồng chí của mình: “ Lúc này, thời cơ đã đến, dù hy sinh
tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết dành cho
được độc lập!”. Sau đó hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở Tân
Trào từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945 đã đi đến kết luận: “Những điều kiện
khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi”, vì vậy, phải “Kịp thời hành động,
không bỏ lỡ cơ hội”, khẩn trương “Đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng,
không kể thành phố hay thôn quê, thành lập uỷ ban nhân dân ở những nơi


làm chủ”, tất cả vì mục tiêu: “Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Đến 23 giờ ngày
13-8-1945, Uỷ ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: Hiệu triệu toàn dân đứng
lên khởi nghĩa giành chính quyền. Tiếp đó, ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc
dân tại Tân Trào đã thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thông qua
lệnh tổng khởi nghĩa, quyết định Quốc kỳ nền đỏ sao vàng, Quốc ca và bầu
Trung ương, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi” “Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn thể đồng bào hãy đứng lên
đem sức ta mà giải phóng cho ta!”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả
nước ta đã đồng loạt đứng dậy, tiến hành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
trong khắp cả nước. Cuộc tổng khởi nghĩa bắt đầu nổ ra từ ngày 14-8-1945
và đến ngày 18-8-1945, chúng ta đã giành thắng lợi ở nông thôn đồng bằng
Bắc Bộ, đại bộ phận các tỉnh miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị
xã Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam. Ngày 19-8-1945,
khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế
và các thị xã: Bắc Cạn, Hoà Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Trị, Quảng
Bình, Bình Định, Lâm Viên, Gia Lai, Tân An, Bạc Liêu. Ngày 25-8-1945,
khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Lạng Sơn, Kon Tum,
Sóc Trăng, Vĩnh Long, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh, Biên Hoà, Tây
Trang
8
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
Ninh, Bến Tre… Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi
nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền
cả nước thuộc về nhân dân. Cuộc Cách mạng Tháng Tám mà Đảng và Mặt
trận Việt Minh phát động, như cơn sóng thần, đã cuốn phăng chính quyền
phát-xít Nhật và tay sai. Ngày 30-8-1945, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị và
tuyên bố “thà làm dân một nước tự do, còn hơn làm vua một nước nô lệ”.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước cuộc mít tinh
khổng lồ cảu gần 1 triệu đồng bào. Chủ tịch Hồ Chí mInh thay mặt Chính
phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố nước Việt


Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Như vậy, mọi việc được chúng ta hoàn tất
trước ba ngày để ngày 5-9-1945, với tư cách là chủ nhà, Chính phủ Lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đón tiếp quân Đồng minh vào tước khí
giới quân Nhật trên đất nước ta.
b/ Kết quả của việc chớp đúng thời cơ của Đảng ta
Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Ðảng ta, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định
đúng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt lực lượng, sẵn sàng chủ động, chớp
thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Ðây
là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách
mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.
Cách mạng tháng Tám đã nêu cao tinh thần quật khởi của dân tộc Việt Nam,
một dân tộc có truyền thống lâu đời chiến đấu vì độc lập tự do, quyết không
chịu làm nô lệ. Là kết quả của tám mươi năm đấu tranh không ngừng của
dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp. Nó cũng là một sự kiện lịch sử vĩ
đại nhất của nước ta từ khi Quang Trung đánh đuổi quân xâm lược Mãn
Thanh (1789) đến nay. Thật thế, suốt trong thời gian ấy, không có một cuộc
Trang
9
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
vận động nào thể hiện tinh thần anh dũng, quật cường và sự đoàn kết, thống
nhất của dân tộc Việt Nam bằng Cách mạng tháng Tám. Không những giật
tung được xiềng xích của bọn đế quốc phát-xít, Cách mạng tháng Tám lại lật
nhào được chế độ quân chủ thành lập trên đất nước ta hàng chục thế kỷ, làm
cho nước Việt Nam thành một nước cộng hòa dân chủ, đưa dân tộc Việt
Nam lên hàng các dân tộc tiên phong. Giá trị lớn lao của Cách mạng tháng
Tám chính ở chỗ đó. Và cụ Hồ Chí Minh, vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Người lãnh đạo Cách mạng tháng Tám, rất xứng
đáng là anh hùng dân tộc của nước ta. Cách mạng tháng Tám tỏ rõ tinh thần
chống phát-xít và yêu chuộng dân chủ và hòa bình của nhân dân Việt Nam.


Nó kết thúc vẻ vang một cao trào chống phát-xít Nhật, Pháp trong thời kỳ
chiến tranh thế giới thứ hai. Bằng Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam
đã nêu ra trước Liên hợp quốc điều yêu sách tổng quát của mình: Các cường
quốc phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam theo đúng
các hiến chương Đại Tây Dương và Cựu Kim Sơn. Chính thế, vì phát-xít
Nhật đổ thì tất cả những dân tộc thuộc địa Nhật phải được giải phóng, không
kẻ nào có thể thay chân Nhật mà áp bức, bóc lột các dân tộc ấy được. Nhân
dân Việt Nam bị Nhật thống trị từ năm 1940, lại có công đánh Nhật bên
cạnh Đồng minh, nhất định phải được độc lập! Nhân dân Việt Nam quyết
không để cho thực dân Pháp trở lại áp bức mình như trước, cũng không chịu
chế độ "quốc tế quản trị", vì nhân dân Việt Nam đã trưởng thành rồi! Cách
mạng tháng Tám và cuộc chiến đấu chống phản động Pháp trong ngót một
năm nay của nhân dân Việt Nam đã thét lớn nguyện vọng thiết tha trên đây
cho thế giới biết. Cách mạng tháng Tám đã chọc thủng được hệ thống thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc ở một trong những mắt xích yếu nhất của nó, mở
đầu cho một quá trình tan rã không thể cứu vãn được của chủ nghĩa thực dân
trên thế giới. Cách mạng tháng Tám đã báo hiệu giờ giải phóng của các dân
Trang
10
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
tộc bị áp bức đến rồi. Về mặt quốc tế, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã
chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa
thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa
thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới, cổ vũ các cuộc vận động giải
phóng dân tộc của nhân dân Lào, nhân dân Cao Miên và nhân dân các nước
thuộc địa khác ở Đông-Nam châu Á. Bằng cuộc Cách mạng tháng Tám và
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hiện nay, nhân dân Việt Nam đã và
đang dũng cảm gánh một phần nhiệm vụ ấy. Trong hàng ngũ các lực lượng
dân chủ, tiến bộ đấu tranh cho một thế giới tươi đẹp hơn, không vắng mặt


nhân dân Việt Nam. Dù người ta muốn hay không muốn, Cách mạng Việt
Nam đã thành một bộ phận của cuộc đấu tranh vĩ đại của nhân dân thế giới
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhân dân Việt Nam
đã hiểu nhiệm vụ quốc tế của mình trong thời kỳ sau chiến tranh này. Nó
quyết hoàn thành nhiệm vụ ấy, bất chấp mọi trở lực.
3/ Vận dụng.
Hơn sáu thập kỷ đã trôi qua, bài học về nhận định thời cơ và chớp thời cơ
cách mạng của Ðảng trong Cách mạng Tháng Tám 1945, vẫn còn nguyên
giá trị thời sự và đi cùng năm tháng. Nếu như trước đây, trong Cách mạng
Tháng Tám, Ðảng chủ trương xây dựng lực lượng, chủ động đón thời cơ
khởi nghĩa giành chính quyền,thì ngày nay, nhận định về thời cơ trong bối
cảnh tình hình trong nước và quốc tế đã có những thay đổi căn bản, vấn đề
hội nhập, toàn cầu hóa nổi lên như một xu thế vận động tất yếu của thế giới
hiện đại. Cho dù khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng nếu biết
tranh thủ thời cơ, tận dụng những yếu tố thuận lợi, những thời cơ nảy sinh từ
cuộc khủng hoảng, nhất định chúng ta sẽ vượt qua thách thức đưa đất nước
Trang
11
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
tiếp tục tiến lên, vững bước trên con đường Ðổi mới. Ðể nắm bắt được thời
cơ, vượt qua thách thức, trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển
mạnh mẽ, thời đại phát triển kinh tế tri thức, Ðảng ta chỉ ra rằng, cùng quyết
tâm chính trị, thì yếu tố con người, nguồn lực con người có tri thức là yếu tố
quyết định.Trên nền tảng ổn định chính trị, Đảng ta đề ra đường lối đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, theo phương châm “Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước”. Đường lối đối ngoại cởi mở đó đã tạo ra
những cơ hội tốt đẹp, trong đó có việc thu hút vốn của các nước vào Việt
Nam, nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vị trí của Việt Nam
trên trường quốc tế ngày một cao. Việt Nam là thành viên của Liên hợp
quốc, của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và vào ngày 7-11-


2006, là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Những bước
tiến thần kỳ của đất nước thời kỳ đổi mới có một phần là do Đảng ta nắm
vững và vận dụng bài học thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cũng như trong Cách mạng Tháng Tám và các thời kỳ cách mạng
trước đây, trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng
được xây dựng và chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
thể hiện trong trình độ tư duy lý luận, vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan để đề ra Cương lĩnh, đường lối thích hợp, tăng cường sức mạnh tổ
chức, kỷ luật và năng lực tổ chức thực tiễn. Những chủ trương, đường lối
được Đảng ta đề ra kịp thời, thiết thực, đáp ứng yêu cầu phát triển của thực
tiễn là minh chứng sinh động cho việc kế thừa, vận dụng một cách linh hoạt,
sáng tạo bài học về thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám vào điều kiện và
tình hình cụ thể của nước ta trong từng giai đoạn phát triển đất nước. Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền thông qua việc phát huy ngày càng tốt hơn
quyền làm chủ của nhân dân và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thông qua nhà
Trang
12
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không ngừng được củng cố và hoàn
thiện. Sự lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân
dân, xã hội thừa nhận, ủng hộ, được thể chế trong Hiến pháp và pháp luật và
được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Hiện nay, đã tiến hành xong Đại hội Đảng
bộ cấp cơ sở, đang tiến hành Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI vào đầu năm 2011. Đại hội XI có ý nghĩa
trọng đại, đề ra đường lối tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, tạo tiền đề vững chắc để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế tuy vẫn còn những khó khăn, thách thức
và diễn biến khó lường, song Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã


tranh thủ tối đa những cơ hội thuận lợi, vượt qua mọi thách thức, phát triển
đất nước. Đó là thành tựu nhiều mặt của cuộc cách mạng khoa học, công
nghệ trên thế giới. Đó là thời kỳ chấm dứt chiến tranh lạnh, đối thoại thay
cho đối đầu, là quá trình toàn cầu hóa, hợp tác và hội nhập quốc tế. Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã và đang thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn,
đối tác tin cậy của các nước, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, nhờ vào
việc vận dụng thờ cơ trong cách mạng Tháng Tám vào thực tế ngày nay.
Trước hết, nhận định đúng tình hình và yêu cầu phát triển của thực
tiễn để có thể đề ra các quyết sách hợp lý. Những năm đầu sau ngày giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nước ta còn nhiều khó khăn, đời
Trang
13
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
sống nhân dân còn túng thiếu. Đặc biệt, sai lầm về tổng điều chỉnh giá,
lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế đất nước đến những khó khăn
mới, nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Trước tình hình
trên, Đảng xác định cần tiến hành công cuộc đổi mới, chỉ rõ thách thức lớn
nhất của cách mạng nước ta là nền kinh tế từ điểm xuất phát rất thấp lại lâm
vào khủng hoảng kéo dài, vừa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện nhiệm
vụ dân tộc, vừa làm nghĩa vụ quốc tế, vấn đề cấp bách là ổn định, cải thiện
đời sống nhân dân, sớm đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) khởi xướng đã
mở đầu cho thời kỳ mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX nước ta lại chịu tác
động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
các nước Đông Âu và Liên Xô. Trong nước, có không ít ý kiến dao động,


đòi phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, và cho rằng không nên tiếp tục đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa Sớm nhận thấy những tác động tiêu cực
đó, tháng 3-1989, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VI đã đề ra 5 nguyên tắc chỉ đạo đổi mới, bảo đảm cho nước ta vượt
qua thách thức mới, thực hiện công cuộc đổi mới đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa. Bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất
nước ta đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức, đặc biệt là tình trạng một
bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, nạn tham nhũng, lãng phí có
nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X (tháng 7-2006) đã ra Nghị quyết Về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Những quan điểm, chủ trương và giải pháp mạnh mẽ phòng, chống tham
nhũng, lãng phí đã có được những kết quả quan trọng, nhằm ngăn chặn và
đẩy lùi một trong những nguy cơ lớn đối với đất nước và chế độ ta. Ngày 7-
Trang
14
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
11-2006, Bộ Chính trị đã có Quyết định số 06 phát động “toàn Đảng, toàn
dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Việc học tập và
làm theo đạo đức của Bác Hồ có ý nghĩa quan trọng để đẩy lùi sự suy thoái
về đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay, nhưng
quan trọng hơn là xây dựng, củng cố nền tảng đạo đức cách mạng của xã hội
ta, dân tộc ta, hướng đến sự phát triển mạnh mẽ, bền vững của đất nước
trong thời đại ngày nay.
Thứ hai, "dĩ bất biến, ứng vạn biến", bảo đảm và giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong hội nhập trên cơ sở kiên định con đường và mục tiêu xã
hội chủ nghĩa, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
kết hợp với tìm hiểu và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân
dân, xác định đúng tình hình và yêu cầu thực tiễn của đất nước để đề ra
những quyết sách hợp lý. Tại Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng ta đã đề ra


Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Chiến lược
xác định: xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ đó, tình hình kinh tế - xã hội dần có những biến chuyển mới, đời sống
người dân có những cải thiện đáng kể, chính trị, xã hội tiếp tục ổn định, quốc
phòng, an ninh được giữ vững, đường lối đối ngoại Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước trên thế giới đã chủ động, tích cực mở rộng quan hệ đối
ngoại giúp tăng cường, củng cố lòng tin của nhân dân về vai trò lãnh đạo
của Đảng. Sự kết thúc Chiến tranh lạnh, đối thoại thay cho đối đầu, sự mở
rộng liên kết, hợp tác giữa các nước, các khu vực, phát triển thị trường thế
giới và thành quả của cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đã tạo
điều kiện cho nhiều nước ổn định và phát triển. Đó là cơ hội thuận lợi cho
Việt Nam phát triển ở thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, tiến hành chính sách đối
Trang
15
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
thoại, hợp tác và hội nhập quốc tế: khôi phục quan hệ bình thường với Trung
Quốc (năm 1991), bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ (năm 1995), gia
nhập Hiệp hội các nước Đông Nam á (năm 1995). Sau mười năm đổi mới,
năm 1996, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và hoàn thành
những nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đó là
cơ hội thuận lợi để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở
rộng hơn quan hệ hợp tác với các nước và tích cực, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế. Những năm cuối của thế kỷ XX đất nước phải vượt qua thách
thức mới do khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực 1997 - 1998,
những khó khăn trong nước và đã ngăn chặn có hiệu quả đà suy giảm về
kinh tế.
Thứ ba, xác định đúng thời cơ, thời điểm để đưa ra đường lối phát triển
phù hợp. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng về đường lối đổi mới, phát triển
đất nước, làm cho sản xuất "bung ra" trong điều kiện đời sống nhân dân gặp


nhiều khó khăn, lạm phát phi mã đến 774,7%, đã thực sự thổi một luồng sinh
khí vào đời sống xã hội, đem đến sự phấn chấn về tinh thần cho người dân,
tạo những khởi sắc bước đầu cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Khi
đất nước bước vào thời kỳ hội nhập, Đảng ta đã nhận định rõ những thời cơ
và thách thức lớn, đặc biệt nhấn mạnh việc các thế lực thù địch vẫn không
ngừng tiến hành những âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình" nhằm chống
phá các thành quả cách mạng của chúng ta. Từ đó, tuỳ từng giai đoạn cụ thể,
Đảng đã đề ra các chủ trương, đường lối về phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, quan điểm Việt Nam muốn là bạn với tất cả
các nước, "hoà nhập nhưng không hoà tan", đặc biệt là việc ban hành Nghị
quyết Trung ương 5 khoá VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" trong bối cảnh nền văn hoá nước ta
Trang
16
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
có nguy cơ bị mai một, biến đổi trước những tác động của nền kinh tế thị
trường thời mở cửa thực sự là những quyết sách được đưa ra kịp thời, vừa
đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, vừa có tính chất định hướng cho sự
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Trong công cuộc đổi mới,
Việt Nam đã chủ động đề nghị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), các nước trên thế giới cũng từng bước thừa nhận nền kinh tế thị
trường của Việt Nam và cùng vớisự kiên trì đàm phán qua 11 năm, ngày 7-
11-2006, Việt Nam đã được kết nạp vào tổ chức này. Đó là một cơ hội cho
nước ta hội nhập kinh tế quốc tế tốt hơn, toàn diện và có hiệu quả hơn. Tại
Hội nghị Trung ương 4 khoá X họp tháng 1-2007, Đảng đã kịp thời ra Nghị
quyết số 8-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới. Trong Nghị quyết quan trọng đó Trung ương đã nêu rõ 5 cơ hội
và 5 thách thức khi nước ta là thành viên của WTO, từ đó góp phần định
hướng phát triển kinh tế đất nước một cách hiệu quả. Từ cuối năm 2007, thế


giới lâm vào khủng hoảng và suy thoái kinh tế nặng nề và kéo dài suốt các
năm 2008, 2009 đã tác động tiêu cực không chỉ đến các nền kinh tế của các
nước phát triển hàng đầu mà cả với các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam đứng trước những khó khăn thách thức
mới: Thị trường xuất khẩu thu hẹp, vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh, lạm
phát tăng, năm 2008 lên tới trên 19%, lao động thiếu việc làm, nhiều doanh
nghiệp có nguy cơ phá sản, giá cả tăng, đời sống khó khăn Để chủ động
vượt qua tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới, ngày 4-4-2008,
Bộ Chính trị đã có kết luận số 22 và Chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp
nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.
Hội nghị Trung ương 7 khoá X (tháng 7-2008) đã đề ra những chủ trương
lớn để khắc phục khủng hoảng. Hội nghị Trung ương 8 (tháng 10-2008) đã
Trang
17
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
đánh giá và đề ra giải pháp toàn diện, đưa ra Quốc hội khoá XII kỳ họp thứ 4
thảo luận và quyết định. Chính phủ có chính sách hỗ trợ có hiệu quả cho các
doanh nghiệp, các ngành, các thành phần kinh tế, phát triển mạnh thị trường
trong nước. Với những quyết sách đó, kinh tế - xã hội của đất nước ngày
càng có những bước phát triển mới; nền văn hoá dân tộc được duy trì và
phát huy, thực sự là nền tảng tinh thần, là động lực cho sự phát triển; quốc
phòng, an ninh được giữ vững; đời sống nhân dân ngày càng ổn định, ấm no;
mối quan hệ hợp tác của nước ta với nhiều nước trên thế giới được củng cố
thêm, tăng cường, tạo nền tảng cho sự phát triển hoà bình, ổn định trong khu
vực và trên thế giới. Năm 2008, Việt Nam đạt thu nhập đầu người trên 1.000
USD vượt qua ngưỡng của nước nghèo, kém phát triển là cơ hội tốt để phát
triển nhanh để có thu nhập 2.000 USD vào năm 2015, 3.000 USD vào năm
2020. Cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng của đất nước không ngừng
phát triển bảo đảm cho sự phát triển nhanh và vững chắc của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. ị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về


đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước; về chống tham nhũng, lãng phí Với sự nỗ lực, cố gắng của toàn dân,
của các thành phần kinh tế thực hiện các chủ trương, biện pháp đúng đắn của
Đảng và Chính phủ nên đã ngăn ngừa có hiệu quả, giảm thiểu tác động tiêu
cực của khủng hoảng đối với nền kinh tế của Việt Nam. Tăng trưởng GDP
năm 2008 đạt 6,18%, năm 2009 là 5,32%. Tổng giá trị sản phẩm nội địa
(GDP) năm 2005 là 53 tỉ USD đã tăng lên 88,7 tỉ USD năm 2008. Thu nhập
bình quân đầu người năm 2009 đạt trên 1.100 USD, vượt qua ngưỡng nước
đang phát triển có thu nhập thấp. Lạm phát được kiểm soát và đẩy lùi xuống
dưới 7%. Xuất khẩu 6 triệu tấn gạo. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2006 là 15,5%, năm
2007 là 14,8%, năm 2008 là 13,1% và năm 2009 giảm xuống còn 12,4%.
Năm 2010, chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt thu nhập bình quân đầu
Trang
18
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
người khoảng 1.200 USD và tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5%. Bằng việc
phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới, tận dụng và nắm
bắt thời cơ, cơ hội một cách nhanh chóng, sáng tạo, lấy đó làm nền tảng đẩy
lùi và hạn chế các nguy cơ, thách thức. Sau khi gia nhập WTO, Đảng và Nhà
nước động viên toàn dân phát huy nội lực, tranh thủ cơ hội mới để phát triển
và tích cực, chủ động đẩy lùi nguy cơ. Vì vậy, xuất khẩu hàng hoá đã tăng
nhanh, vốn đầu tư nước ngoài vẫn không ngừng tăng lên. Nền kinh tế của
đất nước và từng ngành kinh tế đứng trước yêu cầu mới, là không ngừng
nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản
xuất kinh doanh. Đó là điều kiện rất quan trọng để Việt Nam có thể vượt qua
khủng hoảng kinh tế của thế giới những năm 2007 - 2009, tạo tiền đề cho
bước phát triển mới trong những năm tiếp theo.
Thứ tư là thu phục lòng dân từ chính những quyết sách, định hướng phát
triển đúng đắn, hợp lý đã được đề ra để từ đó biết huy động sức dân mà vận


dụng thời cơ một cách thích hợp, đẩy lùi, hạn chế những nguy cơ, thách
thức, để nhân dân tin tưởng và đoàn kết, nhất trí một lòng thi đua thực hiện
tốt các chủ trương, đường lối của Đảng. Đảng đề cao sự phát huy cao độ nội
lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới, tận dụng và nắm bắt thời cơ, cơ hội một
cách nhanh chóng, sáng tạo, lấy đó làm nền tảng đẩy lùi và hạn chế các nguy
cơ, thách thức. Sau khi gia nhập WTO, Đảng và Nhà nước động viên toàn
dân phát huy nội lực, tranh thủ cơ hội mới để phát triển và tích cực, chủ
động đẩy lùi nguy cơ. Nước ta có nội lực rất to lớn (tài nguyên, đất đai,
rừng, biển, sức lao động). Kinh tế nông nghiệp, kinh tế biển là thế mạnh.
Dân số đang ở thời kỳ dân số vàng, có hơn 40 triệu lao động trẻ, khỏe, nếu
Trang
19
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
được đào tạo tạo nên nguồn nhân lực có trình độ cao sẽ tạo nên sức phát
triển to lớn cho đất nước. Năm 2008, Việt Nam đạt thu nhập đầu người trên
1.000 USD vượt qua ngưỡng của nước nghèo, kém phát triển là cơ hội tốt để
phát triển nhanh để có thu nhập 2.000 USD vào năm 2015, 3.000 USD vào
năm 2020. Cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng của đất nước không
ngừng phát triển bảo đảm cho sự phát triển nhanh và vững chắc của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền kinh tế nước ta đã xuất
hiện những dấu hiệu tích cực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiềm
chế, an sinh xã hội được giữ vững. Một số lĩnh vực kinh tế sản xuất và kinh
doanh đã phục hồi trở lại. Đứng trước thời cơ mới xuất hiện trong làm ăn về
kinh tế như trên, các ngành kinh tế, các nhà doanh nghiệp, các cấp ủy đảng
và chính quyền các cấp cần quan tâm hơn nữa tạo mọi điều kiện để cho các
doanh nghiệp có điều kiện để bứt phá nhằm hoàn thành kế hoạch sản xuất,
kinh doanh năm 2009. Cùng với việc tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp,
các chủ thể sản xuất kinh doanh có nguồn vốn, vật tư, đủ sản xuất và kinh
doanh, nhất là các đơn vị làm hàng xuất khẩu, thì một vấn đề có tính cấp


bách và lâu dài là phải chú ý đến nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực có chất lượng cao, có đủ đức tài, có khả năng nắm bắt, đón đầu làm chủ
khoa học công nghệ, chính là nhiệm vụ hàng đầu, với tinh thần thi đua yêu
nước, lao động, học tập, làm việc, cống hiến hết mình của đội ngũ cán bộ,
đảng viên và nhân dân vì sự phát triển chung của đất nước là minh chứng rõ
rệt cho sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng ta. Vì vậy,
xuất khẩu hàng hoá đã tăng nhanh, vốn đầu tư nước ngoài vẫn không ngừng
tăng lên. Nền kinh tế của đất nước và từng ngành kinh tế đứng trước yêu cầu
mới, là không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản
phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đó là điều kiện rất quan trọng để
Trang
20
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
Việt Nam có thể vượt qua khủng hoảng kinh tế của thế giới những năm 2007
- 2009, tạo tiền đề cho bước phát triển mới trong những năm tiếp theo.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) khẳng
định công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có
ý nghĩa lịch sử. Để phát triển nhanh và bền vững hơn, Đại hội X xác định 8
nhiệm vụ chủ yếu và đề ra 5 giải pháp chủ yếu về chính sách phát huy các
nguồn lực; về phát triển đồng bộ các loại thị trường, hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; về chống tham nhũng,
lãng phí cùng với sự nỗ lực, cố gắng của toàn dân, của các thành phần kinh
tế thực hiện các chủ trương, biện pháp đúng đắn của Đảng và Chính phủ nên
đã ngăn ngừa có hiệu quả, giảm thiểu tác động tiêu cực của khủng hoảng đối
với nền kinh tế của Việt Nam. Tăng trưởng GDP năm 2008 đạt 6,18%, năm
2009 là 5,32%. Tổng giá trị sản phẩm nội địa (GDP) năm 2005 là 53 tỉ USD
đã tăng lên 88,7 tỉ USD năm 2008. Thu nhập bình quân đầu người năm 2009
đạt trên 1.100 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp.
Lạm phát được kiểm soát và đẩy lùi xuống dưới 7%. Xuất khẩu 6 triệu tấn


gạo. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2006 là 15,5%, năm 2007 là 14,8%, năm 2008 là
13,1% và năm 2009 giảm xuống còn 12,4%. Năm 2010, chúng ta hoàn toàn
có khả năng đạt thu nhập bình quân đầu người khoảng 1.200 USD và tăng
trưởng kinh tế khoảng 6,5%.
Gần một phần tư thế kỷ thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta đã tận dụng được những cơ hội thuận lợi để phát triển đất nước,
đồng thời cũng chủ động vượt qua nhiều thách thức, khủng hoảng chính trị,
kinh tế, tài chính của thế giới để giữ vững ổn định và tiếp tục phát triển về
mọi mặt. Sự kế thừa và vận dụng sáng tạo bài học về chớp thời cơ, đẩy lùi
Trang
21
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
nguy cơ từ cuộc Cách mạng Tháng Tám vẻ vang của Đảng ta trong những
năm qua đã, đang và sẽ luôn là bài học kinh nghiệm quý báu cho bước
đường phát triển đất nước ta trong thời kỳ hội nhập ngày nay. Và hiện nay,
đã tiến hành xong Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở, đang tiến hành Đại hội đảng
bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI vào đầu năm
2011. Đại hội XI có ý nghĩa trọng đại, đề ra đường lối tiếp tục nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo tiền đề vững chắc để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.
Trang
22
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
KẾT LUẬN
Dân tộc Việt Nam đã viết lên nhiều trang sử vẻ vang với những chiến
công chống xâm lược và chống ách thống trị của giặc ngoại xâm, trong đó
cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất,
đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Sự thành công của cách


mạng Tháng Tám là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc
anh hùng, bất khuất có lịch sử hàng nghìn năm chống xâm lược phong kiến
và ngót một trăm năm chống ách thống trị của bọn đế quốc thực dân. Đó
cũng là kết quả của 15 năm đấu tranh (1930 – 1945) của giai cấp công nhân
và của toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng
đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt trong những ngày này, với không khí
cả nước đang vui mừng chào đón ngày quốc khánh, chúng ta bồi hồi nhớ
đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính Người là nhà kiến trúc sư thiên tài đã tiên
đoán được thời cơ và lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chớp được
thời cơ và tiến hành Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công
khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ngày nay là Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tưởng nhớ đến người, sau hơn 41 năm thực hiện
di chúc thiêng liêng của người, chúng ta nguyện, cho dù khó khăn do khủng
hoảng kinh tế toàn cầu tác động đến nền kinh tế nước ta, nhưng toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta chung sức, chung lòng biết tranh thủ thời cơ, tận dụng
những yếu tố thuận lợi, những thời cơ này nảy sinh ra từ cuộc khủng hoảng.
Và sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã
vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nguy cơ, đồng thời cũng tận dụng
được những cơ hội, những nhân tố thuận lợi để thực hiện có hiệu quả đường
lối đổi mới, từng bước đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
Trang
23
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ vững con đường và
mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Trang
24
Đường lối CMĐCS Việt Nam Nhóm 2 – K15QNH5
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I/ Sách, báo


1. Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 3.
2. Một số chuyên đề lịch sử đảng.
3. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam (có chỉnh
sửa bổ sung).
II/ Nguồn từ internet
1.http://edu.go.vn/e-tap-chi/tin/7/32/2151/thoi-co-trong-cach-mang-thang-
tam.html
2.http://truongleduan.quangtri.gov.vn/nghiencuutraodoi.asp?
id=168201073541
3.http://vov.vn/Home/Nhan-thuc-ve-thoi-dai-ngay-nay/20111/127677.vov
4.http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?
co_id=30257 & cn_id=474112#
5.http://sogddt.camau.gov.vn/Default.aspx?tabid=970 & ndid=4834
6.http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?
option=com_content & task=view & id=1064 & Itemid=69
7.http://tinbaoquandoi.wordpress.com/
8.http://www.baobinhduong.org.vn/newsdetails/1D3FE18582D/Kinh_nghie
m_quy_tu_Cach_mang_Thang_Tam.aspx
9.http://qdnd.vn

• Chú giải:
(1) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 7, tr
100
(2) Văn kiện đã dẫn, t 3, tr 140-141
Trang
25

Tiểu luận nghệ thuật chớp thời cơ của Đảng trong cách mạng tháng Tám năm 1945

2 tuần trước

Nghiên cứu, vận dụng bài học chớp thời cơ trong cách mạng tháng Tám năm 1945 của Đảng Cộng sản Việt Nam

Vũ Hữu Hải

2021-08-24T04:44:46-04:00 2021-08-24T04:44:46-04:00 https://truongchinhtri.edu.vn/home/thong-tin-nghien-cuu-trao-doi/mot-vai-suy-nghi-ve-bai-hoc-chop-thoi-co-trong-cach-mang-thang-tam-nam-1945-cua-dang-cong-san-viet-nam-1314.html https://truongchinhtri.edu.vn/home/uploads/news/2021_08/image_3.png

Trường Chính trị tỉnh Bình Phước https://truongchinhtri.edu.vn/home/uploads/logotc108t.png

Thứ tư - 18/08/2021 09:33 6.748 0

Thời cơ cách mạng là toàn bộ những sự kiện, biến cố, những tình huống diễn ra có lợi cho cách mạng trong một thời gian và không gian nhất định. Thời cơ đến nhanh, chín muồi nhanh và trôi qua rất nhanh. Đối với cách mạng Việt Nam, khi thời cơ đến, chớp lấy thời cơ để chiến thắng quân xâm lược vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một điển hình về chớp lấy thời cơ giành chính quyền cách mạng về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Tiêu luận nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng Tháng Tám năm 1945

Sau khi phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh, đội quân Nhật đang có mặt tại nước ta rệu rã mất hết tinh thần chiến đấu, chống cự cầm chừng đợi quân Tưởng và quân Anh đến giải giáp rồi đầu hàng. Đảng Cộng sản Đông Dương do đã được chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức đã biết nắm bắt thời cơ, nhân cơ hội Nhật đầu hàng quân Đồng minh, tổ chức phát động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa. Sự chuẩn bị ấy đã được thực hiện ngay từ khi Đảng ra đời năm 1930 và tiếp tục chuẩn bị kỹ lưỡng cho đến trước ngày tổng khởi nghĩa năm 1945, đánh dấu sự phát triển của cách mạng Việt Nam cả về số lượng và chất lượng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra dự đoán, các nước phát xít bị quân Đồng minh đánh bại. Quân Đồng minh sẽ kéo vào Đông Dương, giải giáp vũ khí của quân Nhật. Chúng ta phải tổng khởi nghĩa, giành chính quyền, ra mắt Chính phủ Lâm thời, tuyên bố độc lập, trước khi quân Đồng minh kéo vào nước ta. Vì đây là thời cơ tốt nhất để chúng ta giành lại độc lập, giành lấy chủ quyền quốc gia từ tay giặc Nhật chứ không phải từ tay giặc Pháp. Triều Nguyễn đã ký Hiệp ước Patơnốt từ năm 1884 bán nước ta cho giặc Pháp, Pháp là kẻ thù chủ yếu của dân tộc.
Từ tháng 5-1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Tám do Hồ Chí Minh chủ trì đã phân tích tình hình thế giới đang bị tác động sâu sắc bởi cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai và dự báo: “cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công” [1] . Đảng ta nhận định, những cơ hội tốt đang giúp cho cách mạng nước ta có những điều kiện khởi nghĩa. Nhật đổ, hàng ngũ chỉ huy của chúng ở Đông Dương bị chia rẽ đến cực điểm; quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần, bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ, những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi. Cơ hội tốt cho ta giành chính quyền độc lập đã tới. Những điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa Đông Dương như: “quân Tàu đại thắng quân Nhật, Cách mạng Pháp hay Cách mạng Nhật nổi dậy, phe dân chủ đại thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng các thuộc địa Pháp, Nhật sôi nổi và nhất là quân Tàu hay quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương” [2].
Trong thời điểm chính quyền Pháp bị quân Nhật lật đổ tình hình chính trị khủng hoảng. Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, nếu Đảng ta không chớp thời cơ trước khi quân Đồng minh tiến vào nước ta với danh nghĩa giải giáp quân Nhật thì sẽ không thể tự giành được độc lập, vận mệnh dân tộc vì vậy đến vạn năm cũng không thể đòi lại. Trong lúc quân Pháp đã đầu hàng quân Nhật, quân Nhật rệu rã không còn tinh thần chiến đấu. Đây chính là thời cơ của cách mạng Việt Nam, thời cơ của toàn Đảng và toàn dân ta. Nếu giành được chính quyền trong thời điểm này Việt Nam mới được công nhận là một nước độc lập, không lệ thuộc vào Quân đội Đồng minh. Sự linh hoạt, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta còn thể hiện ở việc phân tích, dự báo mức độ thương vong ít nhất của quân và dân ta lúc này nếu ta tiến hành khởi nghĩa. Qua phân tích cho thấy đây là thời điểm quân ta hoàn toàn có thể lật đổ chính quyền tay sai từ các địa phương đến toàn quốc mà tránh được sự tổn thất đến mức thấp nhất. Chính vì vậy, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!” [3]. Hồ Chí Minh khẳng định, đây là lúc thời cơ chín muồi nhất, thời cơ đã đến, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ, dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám(5/1941) Đảng ta nhận định, lúc này nếu không giải phóng được dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.Có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng suốt linh hoạt chớp thời cơ của cách mạng từ háng 8/1945. Đó là việc tận dụng những cơ hội hiếm có do khách quan và chủ quan mang đến, những điều kiện thuận lợi ở trong nước và trên thế giới để khởi nghĩa giành chính quyền, giành độc lập cho dân tộc, cứu dân, cứu nước mà ít phải hy sinh xương máu. Trên cơ sở phân tích mâu thuẫn giữa các nước, các dân tộc trong chiến tranh thế giới thứ II, phân tích các mâu thuẫn chủ yếu trong nước; lợi dụng được mâu thuẫn của kẻ thù. Đo lường trước những diễn biến và dự báo kết quả thắng lợi sẽ đạt được. Phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, chớp lấy thời cơ của cách mạng để tiến hành tổng khởi nghĩa, lật đổ chính quyền thực dân phong kiến, đánh Pháp, đuổi Nhật, giành lấy độc lập chủ quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào nước ta. Tránh được ý đồ xâm lược của thực dân Anh và quân Tưởng; hạn chế thiệt hại về người và của, hạn chế sự hy sinh không cần thiết.
Nghệ thuật chớp thời cơ để giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 trở thành bài học quý báu của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, việc kịp thời nhận diện và nắm bắt tốt thời cơ để giành thắng lợi trong mọi nhiệm vụ cách mạng luôn được Đảng ta quan tâm. Hiện nay, thế giới và đất nước đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nhiều cơ hội và thách thức. Bên cạnh đó, tình hình dịch bệnh Covid-19 kéo dài, ngày càng phức tạp, tác động tiêu cực trên nhiều phương diện gây ra không ít khó khăn cho quá trình phát triển đất nước. Tuy nhiên, phát huy những kết quả đạt được trong lãnh đạo thực hiện “mục tiêu kép” trong thời gian qua, khắc phục những khó khăn trước mắt, nhất là nắm lấy những cơ hội từ trong nước và quốc tế để đưa ra những chủ trương đúng đắn, thực hiện mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [4] theo tinh thần Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định.
Tài liệu tham khảo:

[1].Hồ Chí Minh,Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr.612.
[2].Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr. 129-130.
[3]. Hồ Chí Minh,Toàn tập, Sđd, tập 3, tr. 538.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. CTQG Sự thật, H. 2021.

Tác giả bài viết: Vũ Hữu Hải

Bài học về dự báo thời cơ và chớp thời cơ trong cách mạng tháng Tám

Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã lật đổ chế độ phong kiến lỗi thời, đập tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, giành chính quyền về tay Nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công đã để lại nhiều bài học quý giá cho sự nghiệp cách mạng trong nước và thế giới, trong nhiều bài học quý giá đó, có bài học về dự báo thời cơ và chớp thời cơ.

Ngày đăng : 06/08/2021 Xem với cỡ chữ

Tiêu luận nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng Tháng Tám năm 1945
Tiêu luận nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng Tháng Tám năm 1945

Sau khi thành lập, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc một cách đúng đắn, sáng tạo, tạo dựng được cơ sở, nền tảng cách mạng vững chắc để chờ đợi thời cơ thuận lợi phát động khởi nghĩa. Có thể thấy, yếu tố chủ quan cho thắng lợi là sự chuẩn bị chính muồi của lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trải qua các đợt tập duyệt, qua đó đã tạo được một lực lượng vũ trang vững mạnh, sẵn sàng bùng nổ khi có lệnh tổng khởi nghĩa.Tuy nhiên, thắng lợi nhanh chóng, ít tổn thất lực lượng là nhờ yếu tố khách quan là thời cơ ngàn năm có một đã được tận dụng một cách triệt để.

Có người đặt câu hỏi: Nếu lệnh Tổng khởi nghĩa phát ra trước mười ngày hay sau mười ngày so với ngày phát-xít Nhật đầu hàng thì tình hình sẽ thế nào? Không ai có thể trả lời lịch sử bằng chữ “nếu”. Nhưng điều chắc chắn là nếu lệnh Tổng khởi nghĩa phát ra không đúng lúc thì cách mạng chẳng những không thành công suôn sẻ mà có khi còn phải trả giá đắt.

Thực dân pháp xâm lược nước ta từ giữa thế kỷ XIX (1858) nhưng khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ (1939) Nhật Bản, một đế quốc phát xít ở Châu Á đã dần mở rộng xâm lược khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Năm 1940 khi phát xít Nhật vào nước ta, Pháp và Nhật bắt tay nhau cùng vơ vét, bốc lột. Bằng nhiều chính sách hà khắc của thực dân, phát xít, cuối năm 1944 đầu 1945 Nhân dân ta phải gánh chịu một nạn đói kinh hoàng trong lịch sử khi hơn 2 triệu đồng bào chết đói năm Ất Dậu, hình ảnh được khắc họa trong các vần thơ: Lúa mùa mất sạch mọi nơi / Giặc còn vơ vét hết nồi đến thăng ! / Đói xo khắp xóm khắp làng / Rau dưa chết giá, ngô lang xạc xờ / Buồn trông đồng trắng bãi khô / Lúa chiêm thôi hết ước mơ đầy nồi / Một quan gạo sáu lon thôi / Không tiền mua cám mà nuôi mẹ già / Cháu thơ đói lả ôm bà / Con đeo chân bố khóc la đêm ngày !... (Đói - Tố Hữu, tháng 4-1945).

Từ rất sớm, Đảng ta đã đưa ra dự báo thời cơ, bằng việc phân tích chính xác mâu thuẫn giữa các thế lực đế quốc, nhận định phát xít Nhật sẽ đảo chính hất cẳng thực dân Pháp ở Đông Dương và vạch ra kế hoạch hành động khi xuất hiện tình hình mới. Ngày 15-2-1944, trong bài“Bóc trần mưu gian của đế quốc Nhật! Thống nhất hành động đánh đổ thù chung!” đăng trên Báo Cờ Giải phóng, Tổng Bí thư Trường Chinh xác định sớm hay muộn cuộc đấu súng Nhật - Pháp nhất định sẽ xảy ra. Từ đó đến những tháng đầu năm 1945, vấn đề “cuộc đảo chính của phát xít Nhật” luôn luôn được nhắc tới trong những văn kiện, tài liệu tuyên truyền của Đảng, định hướng công tác chuẩn bị của phong trào cách mạng cho thời điểm “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Vì thế, ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh), ra ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào ngày 12-3-1945.

Sau khi đảo chính, Pháp đầu hàng Nhật và giao Đông Dương cho Nhật; như vậy kẻ thù chính của Nhân dân ta lúc nay là phát xít Nhật nên trong bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương tuy gây ra khủng hoảng chính trị, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Trung ương xác định kẻ thù mới là phát xít Nhật, dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ để Nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước. Một là, quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật; hai là, Nhật đầu hàng Đồng minh.

Dưới ánh sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương đến địa phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Đúng giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh. Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Sau khi Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và ra Quân lệnh số 1; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập…giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến, toàn đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”. Như cơn sóng trào dâng, Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đạp đổ chính quyền phát xít Nhật và tay sai. Ngày 30- 8- 1945, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Ngày 2-9-1945, lãnh tụ Hồ Chi Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội). Ba ngày sau, ngày 5-9-1945, với tư cách là chủ nhà, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đón tiếp quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta.

Như vậy, trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, thời cơ tồn tại một cách khách quan trong vòng 20 hôm, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng (ngày 15-8) và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pốt-xđam (ngày 5-9). Nếu phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày 15-8 quân Nhật còn mạnh và nếu chờ cho quân Đồng minh vào Đông Dương sau ngày 5-9 trên đất nước có nhiều kẻ thù, cách mạng đều không có khả năng thành công. Đảng và Nhân dân ta đã chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền thắng lợi trong ngưỡng thời gian khắc nghiệt đó. Thời cơ ở đây là Nhật đầu hàng quân đồng minh, chính quyền tay sai rệu rã, chúng ta cướp chính quyền từ tay Nhật, nhanh chóng tuyên bố độc lập trước khi quân Đồng Minh mà chủ yếu là quân Anh vào với danh nghĩa là giải giáp phát xít Nhật. Nếu chậm trể không giành được chính quyền, khi quân Đồng Minh vào thì khi đó quân Pháp sẽ được quân Anh hậu thuẫn rất khó để chúng ta tuyên bố độc lập.

Nhờ chủ động, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho phong trào cách mạng, hiểu biết sâu sắc về thời cơ cách mạng; dự báo chính xác, nắm bắt kịp thời và chớp thời cơ mau lẹ, trong vẻn vẹn chưa đầy 20 ngày của Mùa thu lịch sử năm 1945, Đảng ta đã lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cuộc tổng khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền, tuyên bố thành lập nước, thành lập Chính phủ lâm thời, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc cho quốc gia dân tộc.

Từ bài học học dự báo và chớp lấy thời cơ trong cách mạng tháng Tám có thể thấy việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo Nhân dân ta chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ để tiến hành thành công Cách mạng tháng Tám chính là tiếp nối bài học lịch sử truyền thống hào hùng của ông cha về “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, qua đó chung ta càng cảm nhận sâu sắc hơn về hai câu thơ của Bác ở bài thơ “Học đánh cờ” trong tập thơ “Nhật Ký trong tù” “Lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công”

Bài học đó còn tiếp tục được các thế hệ về sau vận dụng thành công. Điển hình là việc chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ; phân tích tình hình, thế trận địch – ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để đưa đến thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954, “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” và thắng lợi trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước ngày 30/4/1975.

Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta nhiều lần khẳng định đất nước đang đứng trước cả những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen lẫn nhau, đòi hỏi toàn Đảng phải nâng cao quyết tâm chính trị, dự báo chính xác tình hình và có những quyết sách phù hợp. Do đó, bài học về nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Hồ Chí Minh trong Cách mạng tháng Tám vẫn mang ý nghĩa thời sự hết sức sâu sắc. Những thời cơ, thuận lợi lớn đã được Đảng và Nhân dân nhận thức đầy đủ, kịp thời. Đó là: hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế chủ yếu của thế giới ngày nay; cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, nền kinh tế tri thức, quá trình toàn cầu hoá đang tạo điều kiện chưa từng có cho các quốc gia xích lại gần nhau, tăng cường hội nhập, phát huy lợi thế; xu hướng dân chủ hoá đời sống xã hội, đời sống quốc tế đang tạo hành lang rộng mở cho các chủ thể, các quốc gia khẳng định vai trò, vị trí của mình. Bên cạnh đó, nhiều khó khăn, thách thức, nguy cơ đang cản trở con đường phát triển của các quốc gia dân tộc: an ninh thế giới bị đe doạ nghiêm trọng bởi các nhân tố truyền thống và phi truyền thống (bạo loạn, xung đột, khủng bố, chiến tranh, tội phạm công nghệ cao, thảm hoạ môi trường…); các thế lực phản động tăng cường chiến lược diễn biến hoà bình chống phá chủ nghĩa xã hội và nhiều chính sách khác cản trở độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của các nước trên thế giới…

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc, đầy đủ về thời cơ và nguy cơ trong thế giới đương đại, Đảng, Nhà nước đã chủ động xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời và tổ chức thực hiện có hiệu quả; đã tranh thủ tốt các thời cơ, thuận lợi và ứng phó phù hợp trước các nguy cơ, thách thức, đẩy lùi nhiều khó khăn. Nhờ vậy, từ năm 1986 đến nay, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: bảo vệ, đổi mới và phát triển chủ nghĩa xã hội trước những thử thách nghiệt ngã của lịch sử; khắc phục khủng hoảng, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển; chính trị xã hội ổn định, đời sống Nhân dân có nhiều bước cải thiện rõ rệt, đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; quốc phòng, an ninh vững chắc, đối ngoại rộng mở, đảm bảo môi trường hoà bình, thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Thế và lực của đất nước, sức mạnh tổng hợp quốc gia được nâng cao, như lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh“ chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày hôm nay”.

Có thể khẳng định: Trong từng thành tựu của công cuộc đổi mới và trong mỗi bước phát triển của đất nước hôm nay đều khởi nguồn từ những bài học kinh nghiệm quý báu đúc kết từ các thời kỳ cách mạng trước đây. Trong đó, bài học kinh nghiệm nắm bắt và chớp thời cơ của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 luôn luôn có giá trị lâu bền và ý nghĩa thời đại. Đăng Khoa (Tổng hợp)

Lê Thùy Trang

Lần xem: 12066

Tiêu luận nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng Tháng Tám năm 1945
Go top