Trong nghề nông thời Trần bộ phận ruộng đất đem lại nguồn thu nhập chính cho nhà nước là gì

   

Nhà Trần với chính sách kinh tế, tài chính

Ðặng Viết Thuỷ

Lời mở

: Thời đại Lý Trần là thời đại huy hoàng nhất trong sử Việt, theo suy nghĩ phổ cập không những vì những chiến công hiển hách chống ngoại xâm, mà còn là những công trình trí tuệ xây dựng và phát triển đất nước trong các lãnh vực văn hoá, văn học...Nhưng giáo sư Trần Quốc Vượng đã nhận định bao quát hơn: "Thời đại Lý Trần, và nói rộng hơn, kỷ nguyên Ðại Việt lại là một tổng hợp lớn, lần thứ hai của lịch sử nước nhà." (Theo dòng Lịch sử, TQV, nxb Văn Hóa 1996, tr.12). Thật vậy, đó là một tổng hợp lớn, bởi nó bao gồm các lãnh vực quan trọng của sự phát triển quốc gia, trong đó kinh tế là then chốt. Chúng tôi tin tưởng rằng những nhà lãnh đạo dân tộc sẽ suy nghiệm, rút tỉa được bài học tư tưởng của truyền thống tổ tiên trong sự nghiệp xây dựng đất nước trong kỷ nguyên hiện đại. Chính sách kinh tế, tài chính nhà Trần của tác giả Ðặng Viết Thuỷ (trích lại từ báo trong nước ngày 15..6.01) là một đóng góp nhỏ trong chiều kích lớn mà cả dân tộc đang nao nức chờ mong.

Giao Ðiểm.

Kế 'sâu gốc bền rễ' với chính sách ruộng đất hợp lòng dân.

Ðể giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống Nguyên-Mông, những nhà lãnh đạo thời Trần đã quan tâm trước hết là "mở rộng sức dân" (khoan thực dân lực). Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn coi đó là 'Kế sâu gốc bền rễ' (thâm căn cố đế chi kế) để giữ nước. Giở lại những trang sử cũ, chúng ta thấy vào những thập niên hưng thịnh nhất, triều đình nhà Trần đã hết sức coi trọng, đẩy mạnh phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực quốc phòng, nâng cao trình độ kiến thức và tinh thần thượng võ của nhân dân.

Về hình thức sở hữu, ruộng đất được chia thành: ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và ruộng đất tư nhân. Sự thống trị của triều đình nhà Trần trong phạm vi rộng lớn cả nước và uy quyền chuyên chế của nhà vua đã tạo thành quan niệm: "Ðất của vua, chùa của Bụt", một quan niệm đã xác nhận sự tồn tại tự nhiên: chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất rất phổ biến.

Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước gồm có hai bộ phận cấu thành: ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý và ruộng đất công của thôn làng. Bộ phận ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý có sơn lăng, tịch điền và quốc khố. Ở thời Trần, các vua được chôn cất ở nhiều nơi nên ruộng sơn lăng cũng rải rác, từ Thái Bình, Nam Ðịnh, Quảng Ninh... đều có ruộng sơn lăng. Tuy nhiên, tổng diện tích của ruộng sơn lăng rất nhỏ, không có tác dụng gì đáng kể trong chế độ sở hữu ruộng đất nói chung. Tịch điền đã có từ các triều đại tức. Các vua Tiền Lê, Lý đều có cày ruộng tịch điền. Việc nhà vua cày ruộng tịch điền là nghi thức khuyến khích nông nghiệp, lấy nông làm gốc. Ruộng quốc khố là loại do nhà nước trực tiếp do nhà nước quản lý, khác với sơn lăng và tịch điền. Ruộng đất do nhà nước quản lý tuy không chiếm một số lượng lớn nhưng cũng là nguồn thu nhập đáng kể của triều đình. Ở đây nhà vua là chủ sở hữu thực sự. Ngoài ra, còn có ruộng đất công làng xã, hương là đơn vị hành chính cấp cơ sở của chính quyền nhà Trần. Do yêu cầu thu tô thuế, điều động nhân lực phục dịch và tuyển lính nên triều đình thường tổ chức điều tra dân số. Việc điều tra dân số còn làm cơ sở để phân chia ruộng đất công tác làng. Ruộng đất làng nào do làng sở hữu và sử dụng. Triều đình có quyền thu tô, bắt sưu dịch nhưng không có quyền chuyển đổi phân phối lại ruộng công (nguyên tắc này được duy trì đến giữthế kỷ 15).

Ruộng đất tư nhân bao gồm: thái ấp - đất phong của quý tộc nhà Trần, điền trang - ruộng đất tư hữu của địa chủ và ruộng đất tư hữu của tiểu nông. Trong đó, điền trang và thái ấp là hai bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định tính chất loại hình sở hữu ruộng đất quý tộc thời bấy giờ. Nếu như thời Lý "các quan trong, quan ngoài đều không cấp bổng", thì đến thời Trần có định lệ cấp bổng cho các quan văn võ trong ngoài. Có thể thấy thêm chính sách ban cấp ruộng đất và bổng lộc của nhà Trần dưới một hình thức tiêu biểu nhất là thái ấp. Ban thái ấp là chính sách kinh tế quan trọng nhằm tạo ra cơ sở xã hội cho chính quyền thời Trần. Còn điền trang là điểm dân công tiêu biểu cho hình thái kinh tế - xã hội thời Trần. Trong những điểm dân công này, ruộng đất được chia thành từng vùng nhỏ lấy gia đình làm đơn vị sản xuất. Còn hình thức sở hữu tư nhân về ruộng đất của các tầng lớp địa chủ, tiểu nông được hình thành là do kinh tế hàng hóa - tiền tệ phát triển. Năm 1254, triều đình ra điều lệnh "bán ruộng công, mỗi điểm là năm quan tiền, cho phép nhân dân mua làm ruộng tư".

Khi triều đình làm thuỷ lợi

Bên cạnh việc phục hồi, phát triển sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích canh tác, triều đình nhà Trần đã áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích nông nghiệp, trong đó có việc tổ chức công cuộc thuỷ lợi trên phạm vi cả nước. Năm 1248, vua Trần Thái Tông đặt cơ quan Hà đê, có chánh sứ, phó sứ phụ trách việc đê điều ở các lộ phủ. Sách Ðaị Việt sử ký toàn thư chép: "...đắp đê phòng lụt, gọi là đê quai vạc, từ đầu nguồn đến bờ biển, để ngăn lũ tràn ngập... Ðắp đê quai vạc bắt đầu từ đó". Ðây là một bước ngoặc to lớn trong lịch sử thuỷ lợi nước ta. Nhà nước trực tiếp tổ chức đắp đê trên các triền sông và có cơ quan chuyên trách chỉ đạo và quản lý. Triều đình đã chi tiêu một khoản tiền rất lớn cho công trình vĩ đại này. Ðoạn đê nào lấn vào ruộng đất tư nhân đều được đền bù "đo xem đắp mất bao nhiêu ruộng của dân, theo giá trả lại tiền". Ngoài ra, triều đình còn chú trọng đến việc đắp đê ngăn nước mặn, xây dựng nhiều công trình thuỷ nông như đào sông, đào kênh ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thuận Hóa...

Mở rộng mạng giao thông thuỷ bộ

Về kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp đã có những bước phát triển mới. Nhà Trần tiếp tục xây dựng quan xưởng thủ công nghiệp nhà nước, đây là thành phần kinh tế quan trọng bao gồm nhiều ngành khác nhau như: sản xuất các đồ gốm, nghề dệt, xưởng chế tạo vũ khí... Thủ công nghiệp nhân dân có những nghề: gốm, rèn sắt, đúc đồng, làm giấy, khắc bản in, mộc và khai khoáng. Mạng lưới thương nghiệp được phát triển nhờ triều đình đã kiến tạo được một hệ thống giao thông thuỷ bộ trong cả nước. Năm 1244, vua Trần Thái Tông lập Ty thuỷ lộ đề hình với mục đích là mở rộng các đường sông và đường bộ từ Thăng long về các phủ lộ, chủ yếu là ở vùng đồng bằng và vùng Thanh Nghệ. Song song với các tuyến đường trên sông, trên bộ, tuyến đường biển thời nhà Trần cũng góp phần tích cực thúc đẩy thương nghiệp phát triển. Thuyền các nước Indonesia, Miến Ðiện, Ấn Ðộ từng cập bến các hải cảng nước ta.

Ðồng tiền phát huy tác dụng tích cực

Trong lĩnh vực tiền tệ, năm 1225, vua Trần Thái Tông xuống chiếu định phép dùng tiền, quy định rằng dân gian dùng tiền với nhau thì 1 tiền là 69 đồng, gọi là tiền bớt, khi nộp thuế cho nhà vua phải nộp đủ 70 đồng mới gọi là 1 tiền. Năm 1360, vua Trần Dụ Tông cho đúc "Ðại Trị thông bảo". Nhà Trần đã mở rộng việc mua bán ruộng đất bằng tiền, nộp tiền để lấy quan chức.

Quan hệ tiền tệ đã thâm nhập vào đời sống chính trị và tín ngưỡng. Hằng năm có tổ chức hội thề vào ngày 4/4 âm lịch tại đền Ðông Cổ theo nghi thức cổ truyền có từ thời Lý. Ngày hôm ấy, tể tướng và trăm quan đến trực ngoài cửa thành từ gà gáy, mờ sáng tiến vào triều... đến đền thờ núi Ðông Cổ họp nhau lại uống máu và thề "làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai trái lời thề này, thần minh giết chết". Ai vắng mặt trong hội thề này phải nộp 5 quan tiền.

Chúc năng thanh toán tiền tệ dưới thời Trần đã phát triển rộng lớn. Chẳng hạn, năm 1242, tiều đình thu tô thuế bằng tiền như sau: "1-2 mẫu thu một quan; 3-4 mẫu thu 2 quan...". Cũng trong năm Nhâm Dần 1242, nhà Trần chia nước làm 12 lộ, đặt chức an phủ, trấn phủ... làm đơn số hộ khẩu. Mùa thu, tháng 7 năm đó mưa nhiều. Triều đình miễn một nửa tô ruộng...

Do việc nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề ruộng đất đối với cuộc sống của nhân dân, nhà Trần đã thực sự có những đóng góp to lớn vào việc ổn định tình hình ruộng đất, sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân, tạo nên một nguồn thu nhập vững chắc và ổn định cho triều đình. Ðây cũng là một điều kiện cơ bản để các vua Trần và Quốc công tiết chế Trần Hưng Ðạo phát động một cuộc chiến tranh nhân dân, đánh bại xâm lược Nguyên-Mông, bảo vệ vững chắc nền độc lập, đưa nước Ðaị Việt đạt đến một trong những đỉnh cao của nền thịnh trị thời phong kiến.

(tạp chí Nhân Dân ngày 15.6.01)

 

Câu 21: Trong nghề nông thời Trần, bộ phận ruộng đất đem lại nguồn thu nhập chính cho nhà nước là

A. ruộng đất của địa chủ 

B. điền trang, thái ấp

C. ruộng đất tư của nông dân giàu  

D. ruộng đất công làng xã

Câu 22: Nhà giáo tiêu biểu nhất thời Trần là

A. Chu Văn An 

B. Trương Hán Siêu  

C. Đoàn Nhữ Hài

D. Trần Quốc Tuấn

Câu 23: Dưới thời Trần, cả nước được chia là bao nhiêu lộ?

A. 24 lộ

B. 18 lộ

C. 10 lộ

D. 12 lộ

Câu 24: “Nhân dân quá nửa làm sư, trong nước chỗ nào cũng có chùa” là lời nhận xét về tình hình xã hội nước ta dưới thời nào?

A. Nhà Trần

B. Nhà Tiền Lê

C. Nhà Đinh

D. Nhà Lý

Câu 25: Binh sĩ dưới thời Trần, thích hai chữ “Sát Thát” vào cánh tay với mục đích gì?

A. Giết giặc Mông Cổ

B. Giết giặc Minh

C. Chiến thắng

D. Quyết tâm

Câu 26: “Nếu bệ hạ muốn hàng giặc thì hãy chém đầu thần trước đã” là câu nói của ai?

A. Trần Thủ Độ

B. Trần Quốc Tuấn

C. Trần Khánh Dư

D. Trần Nhật Duật

Câu 27: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” là câu nói của ai?

A. Trần Thủ Độ

B. Trần Quốc Tuấn

C. Trần Khánh Dư

D. Trần Nhật Duật

Câu 28: Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Đại La (sau là Thăng Long) vào năm nào?

A. 1009

B. 1005

C. 1010

D. 1042

Câu 29: Bộ Luật thành văn đầu tiên của nước ta là

A. Hình thư

B. Hồng Đức

C. Gia Long

D. Hình luật

Câu 30: Chủ trương đối phó của Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống Tống 1075- 1077 là gì?

A. Ngồi yên đợi giặc

B. Đầu hàng giặc

C. Thực hiện “Vườn không nhà trống”

D. Đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc

Câu 31: Nhà Lý xây dựng Văn miếu – Quốc Tử Giám để làm nơi

A. Hội họp các quan lại 

B . Đón các sứ giả nước ngoài

C. Vui chơi giải trí

D. Dạy học cho con vua, quan, mở trường thi.

Câu 32: Dưới thời Lý – Trần – hồ, nhân dân ta phải đương đầu với các thế lực ngoại xâm nào của Trung Quốc?

A. Quân Tống, quân Thanh, quân Minh

B. Quân Đường, quân Tống, quân Minh

C. Quân Hán, quân Tống, Quân Minh

D. Quân Tống, quân Mông – Nguyên, quân Minh

Câu 33: Bộ chính sử đầu tiên của Đại Việt là

A. Đại Việt sử kí

B. Đại Việt sử kí toàn thư

C. Đại Nam thực lục

D. Khâm Đinh Việt sử thông giám cương mục

Câu 34: Cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên của nhà Trần thắng lợi không xuất phát từ nguyên nhân nào dưới đây?

A. tinh thần đoàn kết chiến đấu của quân dân Đại Việt

B. đề ra kế sách đánh giặc đúng đắn, sáng tạo

C. Nhà Mông - Nguyên đang bước vào thời kì suy yếu

D. chuẩn bị chu đáo về mọi mặt

Câu 35: Hội nghị nào thể hiện tinh thần đoàn kết giữa triều đình và nhân dân Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần 2 (1285)?

A. Hội nghị Bình Than

B. Hội nghị Diên Hồng

C. Hội nghị Đông Quan

D. Hội nghị Lũng Nhai

Câu 36: Bộ Quốc triều hình luật được ban hành trong thời kì nào?

A. Thời nhà Lý

B. Thời nhà Trần

C. Thời nhà Hồ

D. Thời nhà Tiền Lê

Câu 37: Thời Trần, quân đội được tuyển chọn theo chủ trương như thế nào?

A. Quân phải đông, nước mới mạnh

B. Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông

C. Quân lính vừa đông, vừa tinh nhuệ

D. Quân đội phải văn võ song toàn

Câu 38: Tên gọi của nước ta dưới thời nhà Hồ là gì?

A. Đại Việt

B. Đại Nam

C. Đại Ngu

D. Đại Cồ Việt

Câu 39: Tình hình văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm dưới thời Trần như thế nào?

A. Văn học chữ Hán suy tàn, văn học chữ Nôm phát triển mạnh mẽ.

B. Cả văn học chữ Hán và văn học chữ Quốc Ngữ đều phát triển mạnh mẽ.

C. Cả văn học chữ Hán và văn học dân gian đều không phát triển.

D. Văn học chữ Hán phát triển mạnh mẽ, văn học chữ Nôm bước đầu phát triển.

Câu 40: Nội dung nào sau đây không phản ánh được sự quan tâm của nhà Trần đối với giáo dục?

A. mở các trường công để đào tạo con em quý tộc, quan lại

B. định lệ thi thái học sinh 7 năm 1 lần

C. quy định chọn tam khôi trong kì thi Đình

D. dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu

( MÌNH CÓ TÔ ĐẬM CÁC ĐÁP ÁN ĐÚNG )

Video liên quan

Chủ đề