Bản chất của kinh tế thị trường là

Về bản chất thị trường là lĩnh vực trao đổi mà thông qua đó người bán và người mua có thể trao đổi sản phẩm, dịch vụ cho nhau tuân theo các quy luật kinh tế hàng hóa.

Như vậy, ta có thể hiểu thị trường được biểu hiện trên ba nét lớn sau:

  • Thị trường là lĩnh vực trao đổi được tổ chức theo quy luật kinh tế hàng hoá như: quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh....
  • Thị trường là sự trao đổi ngang giá và tự do đối với sản phẩm làm ra; gắn sản xuất với tiêu dùng, buộc sản xuất phải phục tùng nhu cầu tiêu dùng.
  • Một thị trường cân đối thì giá cả của nó phải phản ánh chí phí sản xuất xã hội trung bình, do đó buộc người sản xuất phải giảm chi phí, tiết kiệm nguồn lực, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

Cơ cấu tổ chức của thị trường gồm các nhóm chủ thể kinh tế với chức năng riêng biệt của nó trong hệ thống thị trường.

Các nhóm chủ thể kinh tế này có quan hệ với nhau thông qua dây chuyền Marketinh sau:

Người sản xuất - Người bán buôn - Người chế biến - Người bán lẻ - Người tiêu dùng.

Mỗi mắt xích hay mỗi nhóm chủ thể trong dây chuyền Marketinh trên có một chức năng riêng biệt trong hệ thống thị trường:

  • Người sản xuất: Người sản xuất bao gồm các doanh nghiệp, công ty sản xuất, hợp tác xã, hộ gia đình, trang trại có chức năng tạo ra sản phẩm trên cơ sở sử dụng các yếu tố đầu vào của sản xuất, tạo ra giá trị mới bổ sung vào giá trị cũ được chuyển từ các yếu tố đầu vào.
  • Người bán buôn: Người bán buôn gồm các doanh nghiệp thương mại, hợp tác xã thương mại, hộ gia đình có chức năng đưa sản phẩm từ người sản xuất đến người chế biến và do phải thu gom, bảo quản, sơ chế...nên tạo thêm giá trị mới bổ sung vào sản phẩm làm tăng giá trị sản phẩm.
  • Người chế biến: Người chế biến cũng bao gồm các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình có chức năng chế biến sản phẩm từ dạng thô sang sản phẩm có tính công nghiệp làm chất lượng sản phẩm tăng thêm và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Do phải chi phí cho chế biến làm cho giá trị sản phẩm tăng thêm.
  • Người bán lẻ: Người bán lẻ bao gồm các doanh nghiệp, đơn vị tập thể, tư nhân có chức năng đưa sản phẩm từ nơi chế biến đến người tiêu dùng cuối cùng. Do phải chi phí cho hoạt động thương mại do đó làm cho giá trị sản phẩm tăng thêm.
  • Người tiêu dùng: Người tiêu dùng là tất cả các thành viên trong xã hội có chức năng hoàn trả toàn bộ chi phí từ khâu sản xuất đến khâu dịch vụ cuối cùng của quá trình sản xuất và tiêu dùng.
  • Qua cơ cấu trên, người ta có thể phân loại thị trường thành: thị trường các yếu tố đầu vào hay còn gọi là thị trường tư liệu sản xuất và thị trường sản phẩm hay còn gọi là thị trường hàng tiêu dùng.

Bản chất của thị trường còn thể hiện ở những chức năng của nó.Với tính cách là một phạm trù kinh tế, thị trường có các chức năng cơ bản sau:

Mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất hàng hoá đều thực hiện được việc bán, tức là chuyển quyền sở hữu nó với những giá nhất định, thông qua một loạt thảo thuận về giá cả, chất lượng, số lượng, phương thức giao hàng, nhận hàng...trên thị trường.Chức năng thừa nhận của thị trường thể hiện ở chỗ người mua chấp nhận mua hàng hoá, dịch vụ của người bán và do vậy hàng hoá đã bán được. Thực hiện chức năng này nghĩa là thừa nhận các hoạt động sản xuất hàng hoá và mua bán chúng theo yêu cầu các quy luật của kinh tế thị trường.

Hoạt động mua và bán là hoạt động lớn nhất, bao trùm nhất của thị trường. Trong nền kinh tế thị trường phát triển, mọi yếu tố đầu vào cho sản xuất và đầu ra sản phẩm chủ yếu đều được tiền tệ hoá thì hoạt động mua và bán là cơ sở quan trọng quyết định các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế. Chức năng thực hiện của thị trường thể hiện ở chỗ, thị trường thực hiện hành vi trao đổi , thực hiện cân bằng cung cầu từng loại sản phẩm hàng hoá, hình thành giá cả và thực hiện giá trị của các sản phẩm hàng hoá.

Nhu cầu thị trường là mục đích đáp ứng của mọi quá trình hoạt động sản xuất – kinh doanh. Thị trường vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế. Đây chính là cơ sơ khách quan để thực hiện chức năng điều tiết kích thích của thị trường. Thực hiện chức năng này, thị trường có vai trò quan trọng trong việc phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực khan hiếm của đất nước cho quá trình sản xuất kinh doanh sản phẩm.

Có nhiều kênh thông tin kinh tế, trong đó thông tin thị trường là rất quan trọng. Chức năng thông tin thị trường bao gồm: Tổng cung, tổng cầu hàng hoá, dịch vụ, cơ cấu cung cầu các loại sản phẩm hàng hoá trên thị trường, chất lượng, giá cả hàng hoá, thậm chí cả thị hiếu, cách thức, phong tục tiêu dùng của người dân...Những thông tin thị trường chính xác là cơ sở quan trọng cho việc ra các quyết định.

Các chức năng trên của thị trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, làm cho thị trường thể hiện đầy đủ vai trò bản chất của mình. Chức năng thừa nhận là quan trọng nhất, có tính quyết định. Chừng nào chức năng này được thực hiện thì các chức năng khác mới phát huy tác dụng. Nếu chức năng thừa nhận đã được thực hiện mà các chức năng khác không thể hiện ra thì chắc chắn đã có những yếu tố phi kinh tế nào đó can thiệp vào thị trường làm cho nó biến dạng đi.

Thị trường có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế thị trường . Thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hoá và dịch vụ thông qua các quy luật của kinh tế hàng hoá, do đó nó là điều kiện cần và buộc phải có để kết thúc một chu trình sản xuất kinh doanh, thực hiện lợi nhuận cho nhà đầu tư. Thông qua thị trường, tất cả các chủ thể kinh tế đều có thể tự do mua những gì mình cần, bán những gì khách hàng muốn cũng như mình có thể đáp ứng, nhằm thu lợi nhuận. Giá cả thị trường được xác định bởi sự cân bằng cung – cầu, do đó bí quyết để thành công trong kinh doanh là phải làm sao chiếm được lòng tin của khách hàng, mở rộng thị trường, thị phần cho sản phẩm của mình. Ngoài vai trò thực hiện lợi nhuận cho người kinh doanh, thị trường còn có vai trò trong việc phân bổ những nguồn lực khan hiếm đều cho các ngành, các lĩnh vực và các chủ thể kinh tế thông qua giá cả thị trường.

Qua những vai trò trên, hơn ai hết những người làm kinh tế và những người nghiên cứu kinh tế phải đánh giá đúng tầm quan trọng của thị trường, từ đó có những giải pháp để tìm kiếm và phát triển thị trường cho sản phẩm của mình một cách phù hợp. Nắm được bí quyết để tiêu thụ tốt, nhiều sản phẩm trên thị trường là một trong những thành công lớn mà bất cứ người làm kinh tế nào cũng mong đạt được. Nhưng để đạt được thành công đó không phải là vấn đề đơn giản, mà là cả một quá trình nghiên cứu, tìm tòi cũng như chấp nhận mạo hiểm, rủi ro trong kinh doanh do chính thị trường mang lại.

Việt Nam, từ khi xác định phát triển nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường lấy việc tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật làm nền tảng, đã đưa nền kinh tế nước ta tiến được một bước tiến đáng kể so với cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tất cả các thành viên trong xã hội có đủ điều kiện kinh doanh theo luật doanh nghiệp Việt Nam đều được kinh doanh các mặt hàng mà nhà nước không cấm. Các thông tin thị trường luôn là những thông tin mở, nắm bắt nó một cách nhanh chóng, nhạy cảm sẽ đem lại những thành công lớn cho người làm kinh tế, qua đó góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp hiện đại trên thế giới.

Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.

Các hệ thống kinh tế

Kinh tế tư bản chủ nghĩa
Kinh tế xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường
Kinh tế kế hoạch
Kinh tế hỗn hợp
Chủ nghĩa xã hội thị trường
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường xã hội
Kinh tế chuyển đổi
Kinh tế mở
Kinh tế khép kín
Kinh tế tự cung tự cấp
Kinh tế hàng hóa
Kinh tế tiền tệ

Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, cho phép họ tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải. Do đó, nền kinh tế thị trường tạo ra động lực để các doanh nghiệp có thể đổi mới, phát triển mình, bởi khi các doanh nghiệp đó muốn cạnh tranh và đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường thì đòi hỏi họ phải đổi mới về công nghệ, về quy trình sản xuất, quản lý, về các sản phẩm của mình.

Ở nền kinh tế thị trường thì con người mong muốn tìm ra phương án cải tiến cho phương thức làm việc, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là nơi để phát hiện, đào tạo, tuyển chọn, sử dụng những người có năng lực tốt, nâng cao quy trình quản lý kinh doanh, cũng là nơi để đào thải những nhà quản lý chưa đạt được hiệu quả cao.

Kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước mình. Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai bên.

Thúc đẩy các cá nhân sử dụng lao động tạo động lực cho những người lao động đồng thời sáng tạo ra các công nghệ, phương thức mới nhằm thay đổi thể chế quản lý sang hướng có lợi nhiều hơn cho người lao động.

Các nền kinh tế thị trường có xu hướng cung cấp nhiều việc làm hơn. Một ví dụ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 99,7% tổng số doanh nghiệp tại Hoa Kỳ, các doanh nghiệp có ít hơn 20 nhân viên ở Hoa Kỳ chiếm 89,6% lực lượng lao động tại nước này. Với nền kinh tế thị trường, sự tập trung vào đổi mới cho phép các doanh nghiệp nhỏ này tìm ra những thị trường ngách và cung cấp các công việc với mức lương cao ở địa phương.

Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng trong xã hội và quan niệm. Người giàu sẽ sử dụng lợi thế về tài sản để chiếm hữu ngày càng nhiều của cải và quyền lực hơn, trong khi người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn. Cuối cùng sẽ dẫn tới phân chia giai cấp: thiểu số người giàu nắm quyền lực cai trị xã hội, còn đa số là người nghèo có đời sống khó khăn. Chênh lệch giàu nghèo quá mức sẽ dẫn tới nguy cơ bất ổn xã hội khi người nghèo đấu tranh (nhiều khi bằng bạo loạn, lật đổ) để có cuộc sống tốt hơn.

Sau một thời gian cạnh tranh "cá lớn nuốt cá bé", các nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ bị các hãng sản xuất lớn mạnh hơn thôn tính. Cuối cùng chỉ còn lại một số ít các nhà sản xuất lớn có tiềm lực mạnh, họ sẽ thâu tóm phần lớn các ngành kinh tế, toàn bộ nền kinh tế sẽ chỉ do một vài nhà tài phiệt nắm quyền thao túng. Kinh tế thị trường sẽ dần biến thành kinh tế độc quyền chi phối. Các doanh nghiệp độc quyền không có đối thủ cạnh tranh nên tùy ý chi phối thị trường, nếu Nhà nước không can thiệp thì họ sẽ cố ý tăng giá, giảm chất lượng sản phẩm để tăng thêm lợi nhuận, gây ra tổn thất cho xã hội và người tiêu dùng.

Do chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp sẽ đầu tư mở rộng sản xuất liên tục, sớm muộn sẽ dẫn đến mất cân bằng cung cầu. Trong giai đoạn đầu, các công ty đầu tư phát triển sản xuất khiến nguồn cung tăng mạnh trong khi cầu tăng không tương xứng với cung. Hiện tượng này tích lũy qua nhiều năm sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa: hàng hoá bị ứ đọng, giá cả sụt giảm, do không bán được hàng để thu hồi chi phí đầu tư nên hàng loạt doanh nghiệp phá sản và dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Cuộc Đại khủng hoảng ở Mỹ năm 1929 chính là kết quả của sự tăng trưởng sản xuất quá mức trong thập kỷ 1920 mà không có sự điều tiết hợp lý của chính phủ.

Đó là chưa kể vấn đề về sự sai và sót trong thông tin có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp và lạm phát.

Trong một số tình huống, thị trường tự do đi ngược lại lợi ích chung của xã hội. Việc quá đề cao tính thị trường mà không có sự điều tiết của Nhà nước sẽ tạo cơ hội cho sự ích kỷ cá nhân, vì lợi ích cá nhân mà vô cảm cộng đồng, nhất là trong những tình huống ngặt nghèo thì sẽ có những người vì lòng tham lợi nhuận mà sẵn sàng gây tổn hại cho xã hội. Ví dụ: 1 vùng xảy ra dịch bệnh nên bị thiếu thuốc men, nếu Nhà nước không can thiệp (quy định mức giá tối đa, cấm đầu cơ tích trữ) thì các nhà buôn thuốc sẽ lợi dụng tình trạng này để đẩy giá bán thuốc chữa bệnh lên cao, phần lớn dân nghèo sẽ không đủ tiền mua thuốc và sẽ phải chết vì bệnh dịch. Hoặc thị trường sản xuất phim ảnh, ca nhạc, giải trí vì chạy theo lợi nhuận mà sản xuất những tác phẩm mang nội dung phản cảm, đồi trụy, gây tổn hại tới đạo đức xã hội.

Để cơ chế thị trường không phát sinh tiêu cực trong cạnh tranh, thì các điều kiện sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo, thông tin minh bạch, không có các ảnh hưởng ngoại lai, không có đầu cơ, không có vi phạm đạo đức kinh doanh, không có lách luật v.v... Tuy nhiên, trong thực tế không có nước nào đáp ứng hoàn hảo các điều kiện này, nên có những trường hợp cơ chế thị trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh tế, thậm chí góp phần gây ra khủng hoảng kinh tế hoặc khủng hoảng nhân đạo. Khi đó sẽ có thất bại thị trường. Một ví dụ tiêu biểu là Hoa Kỳ: nền y tế nước này hoàn toàn do tư nhân kiểm soát, bệnh viện và đội ngũ bác sĩ Hoa kỳ có chất lượng hàng đầu thế giới, nhưng viện phí ở Hoa Kỳ cũng đắt đỏ bậc nhất thế giới. Nếu không có bảo hiểm y tế, một bệnh nhân có thể tiêu tốn hàng trăm nghìn USD cho mỗi lần chữa bệnh, kết quả là những người thu nhập thấp sẽ không được hệ thống y tế này cứu chữa[1]. Hoạt động xét nghiệm y tế ở Hoa Kỳ không được kiểm soát trên toàn quốc, nước này cũng không có hệ thống chăm sóc sức khỏe tập trung và xét nghiệm y tế tập trung do chính phủ quản lý. Vì những điểm yếu này, khi Đại dịch COVID-19 xảy ra, Hoa Kỳ đã trở thành nước bị ảnh hưởng nặng nhất thế giới với hàng chục triệu ca nhiễm bệnh, trong đó vài trăm nghìn người đã chết[2]

Trong điều kiện Kinh tế chiến tranh thì kinh tế thị trường lại không hiệu quả bằng kinh tế kế hoạch. Khi xảy ra chiến tranh, kinh tế thị trường không cho phép tập trung các nguồn tài nguyên, năng lực sản xuất vào mục tiêu quan trọng nhất là sản xuất quốc phòng (bởi các nhà sản xuất chỉ quan tâm đến lợi nhuận của bản thân, họ sẽ vẫn tập trung sản xuất các mặt hàng khan hiếm như thực phẩm, hàng tiêu dùng chứ không ưu tiên sản xuất trang bị cho quân đội). Một số nhà sản xuất thậm chí sẽ đi ngược lại lợi ích của quốc gia, ví dụ như bán vũ khí, bí mật công nghệ cho nước đối thủ, hoặc nhận hối lộ của nước đối thủ để ngừng sản xuất hàng hóa thiết yếu cho đất nước. Do vậy, nếu xảy ra chiến tranh, Chính phủ các nước thường chuyển đổi sang nền kinh tế kế hoạch để ngăn chặn tình trạng khủng hoảng xã hội, huy động thêm ngân sách để mở rộng quy mô quân đội, đồng thời tập trung tài nguyên cho sản xuất quốc phòng và khôi phục trật tự kinh tế và xã hội. Tiêu biểu như Hoa Kỳ: khi Thế chiến 2 nổ ra, nước này đã đình chỉ một phần nền kinh tế thị trường để chuyển sang Kinh tế chiến tranh. Trong thời kỳ cao điểm của Thế chiến 2, gần 40% GDP Hoa Kỳ là để cung ứng cho chiến tranh. Chính phủ ưu tiên cho các ngành sản xuất phục vụ cho mục đích quân sự, gần như tất cả những yếu tố đầu vào (nguyên liệu, nhân công) được phân bổ cho sản xuất chiến tranh. Nhiều loại hàng hoá được phân phối cố định theo tem phiếu, giá cả và tiền lương được Chính phủ kiểm soát, và nhiều loại hàng hoá tiêu dùng bị cấm sản xuất. Một phần lớn lực lượng lao động được Chính phủ Mỹ điều động vào quân đội[3] Các nước tham chiến khác như Anh, Đức, Nhật, Ý... cũng thi hành những chính sách tương tự.

Trong thực tế hiện nay, để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, không có nước nào có một nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do - tự phát, các chính phủ luôn can thiệp vào thị trường dù ít hay nhiều. Cũng như vậy, không có nước nào có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (ngay cả kinh tế Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng có 1 phần nhỏ là kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình). Thay vào đó, hầu hết các nước có nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường và yếu tố can thiệp của Nhà nước nhiều hay ít. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, tuy có nền kinh tế chủ yếu là thị trường tư nhân nhưng nước này vẫn có Đạo luật Sản xuất Quốc phòng (DPA), cho phép tổng thống Mỹ có quyền yêu cầu doanh nghiệp buộc phải nhận và ưu tiên đơn hàng chế tạo vật liệu, thiết bị được coi là cần thiết với quốc phòng, dù điều đó có thể gây thua lỗ cho doanh nghiệp, Tổng thống Mỹ cũng có quyền quy định những mặt hàng bị cấm tích trữ hoặc đầu cơ tăng giá.

  1. ^ http://kinhtedothi.vn/dai-dich-covid-19-va-nhung-diem-yeu-kho-ngo-cua-he-thong-y-te-cac-nuoc-phuong-tay-377759.html
  2. ^ https://thanhtra.com.vn/quoc-te/COVID19-phoi-bay-nhung-diem-yeu-trong-he-thong-y-te-cua-My-161847.html
  3. ^ Baten, Jörg (2016). A History of the Global Economy. From 1500 to the Present. Cambridge University Press. tr. 97f. ISBN 9781107507180.

  • Kinh tế thị trường là gì? Lưu trữ 2006-11-14 tại Wayback Machine
  • Khổ vì "nền kinh tế phi thị trường"

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kinh_tế_thị_trường&oldid=68326268”