Trước đây, theo quy định cũ, doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo số tài khoản ngân hàng với cơ quan thuế trong thời hạn 10 ngày (do thông tin tài khoản ngân hàng là một trong các thông tin đăng ký thuế). Việc thông báo số tài khoản ngân hàng với cơ quan thuế thực hiện qua cơ quan đăng ký kinh doanh là Phòng ĐKKD – Sở KHĐT tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp đặt trụ sở. Theo quy định tại Điều 36 Luật Quản lý Thuế 2019 (hiệu lực từ 01/07/2020) quy định về việc thay đổi thông tin đăng ký thuế với doanh nghiệp, hợp tác xã như sau: Điều 36. Thông báo thay đổi thông tin đăng ký thuế “1. Người nộp thuế đăng ký thuế cùng với đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hợp tác xã, đăng ký kinh doanh khi có thay đổi thông tin đăng ký thuế thì thực hiện thông báo thay đổi thông tin đăng ký thuế cùng với việc thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hợp tác xã, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Trường hợp người nộp thuế thay đổi địa chỉ trụ sở dẫn đến thay đổi cơ quan thuế quản lý, người nộp thuế phải thực hiện các thủ tục về thuế với cơ quan thuế quản lý trực tiếp theo quy định của Luật này trước khi đăng ký thay đổi thông tin với cơ quan đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hợp tác xã, đăng ký kinh doanh.” Theo quy định này việc thay đổi thông tin đăng ký thuế sẽ thực hiện tại phòng ĐKKD – Sở KHĐT. Tuy nhiên, cần xem xét “số tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp” có nằm trong thông tin đăng ký thuế hay không? Từ ngày 01/05/2021 thông tư 01/2021/TT-BKHĐT có hiệu lực hướng dẫn Nghị định 01/2021/NĐ-CP về biểu mẫu đăng ký doanh nghiệp cụ thể: – Bỏ thông tin tài khoản ngân hàng trong giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp. Tại phần thông tin đăng ký thuế không còn thông tin số tài khoản ngân hàng. Do vậy, “số tài khoản ngân hàng” không phải là “thông tin đăng ký thuế“; – Bỏ thông tin tài khoản ngân hàng trong thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp. Trước đây khi thông báo số tài khoản ngân hàng thì sử dụng mẫu thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, tuy nhiên hiện nay biểu mẫu này không còn thông tin số tài khoản. Vì vậy, doanh nghiệp không phải tiến hành nộp hồ sơ thông báo Tài khoản ngân hàng lên Phòng Đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, tài khoản ngân hàng vẫn phải thông báo đến cơ quan thuế trong thời hạn 10 ngày, kể từ Doanh nghiệp mở tài khoản ngân hàng, bởi lẽ, tài khoản ngân hàng là một chỉ tiêu trong thông tin đăng ký thuế. Hồ sơ thông báo tài khoản ngân hàng gửi lên cơ quan Thuế bao gồm:
Trên đây, là những thông tin mới nhất về quy định thông báo tài khoản ngân hàng đến cơ quan đăng kí doanh nghiệp. Nếu băn khoăn hay còn điều gì lo lắng hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn, giải đáp. Từ ngày 01/05/2021, doanh nghiệp không phải thông báo tài khoản ngân hàng tới cơ quan thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh vì
(Update theo công văn 7323/CTVPH-KK ngày 4 tháng 8 năm 2021 Theo công văn 22087/CTHN-TTHT ngày 21 tháng 6 năm 2021 của cục thuế TP Hà Nội, Ngân hàng thương mại sẽ chủ động cung cấp thông tin tài khoản của doanh nghiệp cho cơ quan thuế: Tuy nhiên theo kinh nghiệm thực tế khảo sát, một số cơ quan thuế địa phương vẫn yêu cầu người nộp thuế làm công văn thông báo về việc mở tài khoản mới. Do đó, doanh nghiệp nên hỏi trực tiếp cơ quan thuế quản lý về thủ tục thông báo tài khoản trong giai đoạn này Phối hợp cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng Từ năm 2020, theo điều 30 chương VI số 126/2020/NĐ-CP quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của ngân hàng thương mại, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán Ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp các thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế như sau:
Theo điều 26, chương VI, nghị định 126/2020 quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan quản lý nhà nước a.5) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp Bộ Tài chính chỉ đạo, hướng dẫn ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp phép trong việc kết nối, cung cấp thông tin với cơ quan quản lý thuế liên quan đến giao dịch qua ngân hàng của tổ chức, cá nhân và phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong thực hiện biện pháp cưỡng chế thuế; phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành có liên quan trong việc thiết lập cơ chế quản lý, giám sát các giao dịch thanh toán xuyên biên giới trong thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam; việc thực hiện khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế đối với nhà cung cấp ở nước ngoài khi có giao dịch thanh toán giữa nhà cung cấp ở nước ngoài với người mua hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam và cung cấp thông tin khác theo quy định tại Luật Quản lý thuế và pháp luật có liên quan. |