Đánh giá khả năng hóa rắn

Nhằm mục đích tránh các tai nạn như vậy, Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) đã đưa ra quy định về việc bắt buộc áp dụng Bộ luật quốc tế về vận...

Nhằm mục đích tránh các tai nạn như vậy, Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) đã đưa ra quy định về việc bắt buộc áp dụng Bộ luật quốc tế về vận chuyển hàng rời rắn bằng đường biển (IMSBC) từ ngày 01 tháng một năm 2011.

Hàng có thể bị hóa lỏng được phân loại thuộc Nhóm A của Bộ luật IMSBC. Khi độ ẩm của loại hàng này vượt quá giới hạn độ ẩm vận chuyển (transportable moisture limit - TML), thì không được phép xếp hàng lên tàu. Những loại hàng không được liệt kê trong Bộ luật IMSBC, chẳng hạn như quặng sắt tinh hoặc quặng ni ken, phải được cơ quan có thẩm quyền của cảng xếp hàng đánh giá rủi ro sơ bộ tạm thời. Nếu kết quả đánh giá cho thấy hàng có rủi ro hóa lỏng, cơ quan có thẩm quyền của cảng sẽ yêu cầu áp dụng các hạn chế xếp hàng như đối với hàng thuộc Nhóm A. Ví dụ, hiện nay, Chính quyền Ấn Độ đã đánh giá quặng sắt tinh sản xuất ở nước này thuộc Nhóm A.

Thêm vào đó, các hội bảo hiểm P&I cũng đã đưa ra khuyến cáo là mặc dù thông tin về hàng chỉ ra độ ẩm của loại hàng dự kiến xếp lên tàu nằm dưới TML, nhưng do ảnh hưởng của mưa trong quá trình xếp hàng, độ ẩm thực tế của hàng khi đã ở trong hầm hàng có thể cao hơn TML, dẫn đến việc hàng bị hóa lỏng, và điều này có thể gây ra tai nạn đáng tiếc.

Do đó, cần phải có sự quan tâm thỏa đáng đến các vấn đề dưới đây, khi các loại hàng có thể hóa lỏng, như quặng sắt tinh và quặng ni ken, được vận chuyển bằng tàu:

1. Trước khi xếp hàng lên tàu, các nội dung sau phải được kiểm tra trong thông tin về hàng do người gửi hàng cung cấp cho thuyền trưởng:

  1. TML và độ ẩm được nêu trong giấy chứng nhận hàng.
  2. Việc thử nghiệm để xác định TML của hàng đã được thực hiện trong khoảng thời gian 6 tháng tính đến ngày xếp hàng lên tàu.
  3. Thời gian từ khi lấy mẫu hàng/thử nghiệm cho đến khi xếp hàng lên tàu không được vượt quá 7 ngày.
  4. Có các thông tin thích hợp về hàng xếp trong mỗi hầm hàng, ngoại trừ trường hợp độ ẩm của toàn bộ hàng xếp trên tàu là đồng nhất.

2. Thuyền trưởng không chấp nhận việc xếp hàng lên tàu, trừ khi độ ẩm của hàng nêu trong thông tin về hàng được xác nhận là nằm dưới TML.

3. Nếu có nghi ngờ về độ ẩm của hàng do ảnh hưởng của mưa trong khoảng thời gian từ khi thử nghiệm cho đến khi xếp hàng thực tế lên tàu, thuyền trưởng phải tiến hành thử nghiệm bổ sung (can test) hoặc yêu cầu thử xác nhận độ ẩm tại phòng thí nghiệm.

4. Trước khi xếp hàng, phải kiểm tra xác nhận sự hoạt động thỏa mãn của hệ thống hút khô hầm hàng.

5. Sau khi hoàn thành việc xếp hàng trong hầm hàng không chứa đầy, phải tiến hành san phẳng bề mặt hàng.

6. Trước khi tàu khởi hành, phải tiến hành đo lượng nước ở đáy hầm hàng (nước la canh) và thực hiện việc xả khô, nếu cần thiết.

Kem đánh răng, sốt cà chua, sơn và máu là những chất lỏng phi Newton, có khả năng hóa rắn lập tức tại nơi chịu lực tác dụng đột ngột.

Đánh giá khả năng hóa rắn

Chất lỏng phi Newton là hợp chất đặc biệt có độ nhớt không tuân theo định luật ma sát trong của nhà bác học Isaac Newton. Một cách tạo ra chất lỏng phi Newton là pha bột ngô với nước, theo Seeker. Hỗn hợp trông giống chất lỏng nhưng khi chạm vào lại cho cảm giác như là chất rắn. Đặc tính này xuất phát từ các hạt chất lỏng có kích thước rất lớn. Khi bị tác dụng lực đột ngột như đấm lên bề mặt, chúng không có đủ thời gian để di chuyển như chất lỏng thông thường và hóa rắn. Nếu ngừng tác dụng lực, chúng lại trở thành chất lỏng như cũ.

Dân số tăng nhanh đi kèm với quá trình đô thị là nguyên nhân chính tạo ra hàng triệu tấn chất thải rắn. Phương pháp phổ biến và thuận tiện nhất được lựa chọn tại hầu hết các nước đang phát triển để giải quyết vấn đề này là chôn lấp do chi phí cho công nghệ thấp và dễ dàng vận hành. Tuy nhiên, nước rỉ rác từ các ô chôn lấp lại là vấn đề khó khăn đối với các nhà khoa học cũng như các nhà quản lý môi trường do nồng độ các chất gây ô nhiễm cao. Trong bài nghiên cứu này, một hệ thống keo tụ điện hóa quy mô phòng thí nghiệm với tám điện cực sắt đã được thiết kế để khảo sát hiệu suất loại bỏ TSS và độ màu trong nước rỉ rác Nam Sơn. Một loạt các yếu tố ảnh hưởng: cường độ dòng điện, thời gian điện phân, pH ban đầu của nước thải và khoảng cách điện cực đã được nghiên cứu để đánh giá hiệu quả của quá trình xử lý. Kết quả cho thấy ở điều kiện tối ưu với cường độ dòng điện: 3A, thời gian điện phân: 60 phút, pH ban đầu của nước thải bãic hôn lấp: 8, khoảng cách điện cực: 1cm, hệ thống có thể loại bỏ khoảng 71,6% màu và 39,2% TSS trong nước rỉ rác. Từ khóa: Keo tụ điện hóa; nước rỉ rác Nam Sơn; điện cực sắt; TSS; độ màu.