Hào trong Kinh dịch là gì

       Dưới đây là một số quy tắc rất quan trọng, có thể nói là quan trọng nhất nhất trong Kinh Dịch, trong nhân sinh quan của Trung Hoa, chúng ta nên nhớ kỹ.
       Trước hết phải phân biệt bản thể, tính cách của hào, và vị trí của hào.
       Hào chỉ có hai loại: Dương và Âm. Đó là bản thể của hào.
       Tính cách của Dương là: Đàn ông cương cường, thiện, đại, chính, thành thực, quân tử, phú quý.
       Tính cách của âm là: Đàn bà, nhu thuận, ác (xấu, trái với thiện), tà nguy (trái với thành thực) tiểu nhân, bần tiện…
        Như vậy, Dương tốt đẹp, Âm xấu xa. Nhưng đó chỉ là nét chung. Còn phải xét vị trí của hào nữa, mới định được là tốt hay xấu. Dù là hào dương mà vị trí không trung, chính thì cũng xấu; và là hào âm mà vị trí trung chính thì cũng tốt.

Hào trong Kinh dịch là gì


        Thế nào là trung?
        Nội quái có ba hào: 1 là sơ, 2 là trung, 3 là mạt.
        Ngoại quái cũng có ba hào: 4 là sơ, 5 là trung, 6 là mạt.
       Vậy trung là những hào ở giữa nội quái và ngoại quái, tức là hào 2 và hào 5, dù bản thể của hào là dương hay âm thì cũng vậy.
        Thế nào là chính ?
       Trong 6 hào, những hào số lẻ 1, 3, 5 có vị trí dương, những hào số chẵn 2, 4, 6 vị trí âm.
        Một hào bản thể là dương (nghĩa là một vạch liền) ở vào một vị trí dương thì là chính, ở một vị trí âm thì là bất chinh.
        Một hào bản thể là âm (nghĩa là một vạch đứt) phải ở vào một vị trí Am thì mới gọi là chính, nếu ở vào vị trí Dương thì là bất chính.
        Ví dụ quẻ Thuần Kiền: sáu hào đều là hào dương cả (về bản thể), hào 2 và 5 đều là trung, nhưng hào 2 không chính mà chỉ hào 5 mới được cả trung lẫn chính, vì hào 2 là dương ở vị trí Âm (hào chẵn) mà hào 5 là hào dương ở vị trí dương (hào lẻ ).
       Bôn hào kia thì hào 1 và 3 đắc chính mà không đắc trung, hào 4, 6 không đắc chính cũng không đắc trung.
        Do đó hào 5 quẻ Kiền là hào tốt nhất trong quẻ, mà danh tử “cửu ngũ” (cửu là dương, ngũ là thứ 5, cửu ngũ là hào thứ 5, dương) trở ngôi vua, ngôi chí tôn.
        6- không chính cũng không trung
        5- vừa trung vừa chính
        4- không chính cũng không trung
        3- chính mà không trung
        2- trung mà không chính
        1- chính mà không trung
        Một thí dụ nữa, quẻ Thủy hỏa Kí Tế:
        6-chính mà không trung
        5-vừa trung vừa chính
        4-chính mà không trung
        3-chính mà không trung
        2-vừa trung vừa chính
        1-chính mà không trung

 


Page 2

Hào vị là một trong các điều kiện tìm kiếm phong thủy tốt xấu trong quẻ. Có thể nói nếu không tổ hợp thông tin hào vị thì dự đoán sẽ kém đi rất nhiều, sẽ rất khó đánh giá cụ thể vị trí phong thuỷ tốt xấu.

Lục hào phong thủy hào vị biểu hiện từ năm phương diện.

Một là biểu hiện kết cấu;

Hai là biểu hiện nội ngoại;

Ba là biểu hiện xa gần;

Bốn là biểu hiện trên dưới;

Năm là biểu hiện cao thấp.

Một, biểu hiện kết cấu: Chủ yếu là căn cứ quẻ cấu thành mà biểu hiện hào vị tin tức.

Một quẻ được tạo thành từ ba hào vị, ba hào vị chia làm “Thiên, Địa, Nhân”. Hào Thượng là trời, hạ là Địa, ở giữa là Nhân. Một quẻ hoàn chỉnh lại tạo thành từ quẻ thượng, hạ cho nên hào vị Thiên Địa Nhân cũng chia nội ngoại. Sơ hào cùng hào bốn là Địa, hào hai cùng hào năm làm Nhân, hào ba cùng hào sáu là Thiên.

Ví dụ so sánh hào năm Nhân và hào hai Nhân, hào năm là cao cấp, cho nên hào năm là lãnh đạo, hào năm là gia trưởng, hào hai là bên trong, cho nên hào hai là thai nhi, biểu thị trong bụng; hào năm là người bên ngoài, hào hai là người nội bộ, người bên ngoài đi trên đường nên hào năm là đường đi, người bên trong ở trong nhà nên hào hai là nhà, là tòa nhà.

Hai, biểu hiện Nội ngoại: Quẻ chia nội ngoại, hào ba cùng hào bốn là giao giới giữa quẻ nội và quẻ ngoại cho nên biểu hiện nội ngoại thông tin rất mãnh liệt.

Vì thế hào ba và hào bốn là cửa, hào ba là cửa trong nhà, hào bốn là cửa chính bên ngoài.

Ba, biểu hiện xa gần: Hào hai tại nội, là nhà. Hào sáu là xa, là tường vây, tường viện.

Bốn, biểu hiện trên dưới: Sơ hào là dưới, là chân, hào sáu là trên, là đầu.

Năm, biểu hiện cao thấp: Sơ hào ở dưới là mặt đất, nền nhà, hào sáu là thượng, là nóc nhà, trần nhà.

Hào vị hàm nghĩa bên trên cũng không phải đơn nhất mà là tương hỗ giao thoa nhau. Ở đây chỉ cung cấp một mạch suy nghĩ để mọi người có thể tự diễn xuất mà nắm bắt được bí mật của hào vị.

Lục thân cùng hào vị phân bố

Hào sáu: Trưởng bối, tổ tông, tổ phụ, tổ mẫu.

Hào năm: Bố, gia trưởng.

Hào bốn: Mẹ.

Hào ba: Anh chị em, cô chú bác.

Hào hai: Vợ chồng, thai nhi.

Sơ hào: Trẻ con, con cháu, đời sau, vãn bối.

Hai, kết cấu nhà cửa cùng phân bố hào vị

Hào sáu: Nóc nhà, tường vây, vách tường, thần vị, hàng xóm, tổ mộ phần, thủy khẩu.

Hào năm: Con đường, thang lầu, thông đạo.

Hào bốn: Cửa chính, cửa sổ, nhà vệ sinh.

Hào ba: Phòng ngủ, cửa, giường, bàn thờ Phật.

Hào hai: Nhà, phòng ở, sân, nhà bếp.

Sơ hào: Nền nhà, mặt đất, giếng nước, cống rãnh, cống thoát nước, hàng xóm.

Ba, bộ vị cơ thể và phân bố hào vị

Hào sáu: Tóc, đầu, mặt mũi, cánh tay, bả vai.

Hào năm: Ngực, yết hầu, cổ, mặt, ngũ quan, bả vai, lưng.

Hào bốn: Ngực, vú, hai sườn, nách, lưng.

Hào ba: Đùi, bụng, eo, rốn.

Hào hai: Chân, đầu gối, bụng, bắp chân.

Sơ hào: Chân, gan bàn chân.

Bốn, phủ tạng và phân bổ hào vị

Hào sáu: Óc, sọ, đầu óc.

Hào năm: Lá lách, tim, yết hầu, tuyến giáp trạng, thực quản, phổi.

Hào bốn: Tỳ vị, tim, lồng ngực, phổi, khí quản, tuyến vú.

Hào ba: Dạ dày, gan mật, thận, bàng quang, tuỵ, hậu môn, tâm tạng.

Hào hai: Ruột, gan mật, ruột thừa, tuỵ, tử cung, bộ phận sinh dục, thận, hậu môn, bàng quang.

Sơ hào: Ngón chân, xương chân.

Năm, địa phương hành chính và phân bổ hào vị

Hào sáu: Biên cảnh, nơi khác, nước ngoài, vừa xa, phương xa, cấp tỉnh.

Hào năm: Tỉnh lị, thủ đô, trung tâm thành phố, thành thị, địa khu.

Hào bốn: Vùng ngoại thành, huyện thành.

Hào ba: Hương trấn, tiểu trấn.

Hào hai: Chợ búa, hẻm nhỏ, cộng đồng, đường đi.

Sơ hào: Nông thôn.

Sáu, chức quan và phân bổ hào vị

Hào sáu: người về hưu, nhân viên hậu cần, nhân viên ngoài biên chế, người không được trọng dụng.

Hào năm: Lãnh đạo, cấp trên, chủ quản, tổng thống, tỉnh trưởng, Hoàng đế, thị trưởng, tư lệnh viên, quân trưởng.

Hào bốn: Sở trưởng, bộ trưởng, thủ tướng, quản lí chi nhánh.

Hào ba: Trưởng phòng, đoàn trưởng, doanh trưởng.

Hào hai: Khoa trưởng, người phụ trách phòng, đại đội trưởng, ban trưởng.

Sơ hào: Viên chức, thuộc hạ, binh sĩ, quần chúng, bách tính.

Kinh Dịch (giản thể: 易经; phồn thể: 易經, bính âm: Yì Jīng; IPA Quảng Đông: jɪk gɪŋ; Việt bính Quảng Đông: jik ging; các kiểu Latinh hóa khác: I Jing, Yi Ching, Yi King) là bộ sách kinh điển của nước Trung Hoa và văn hóa của quốc gia này. Nó là một hệ thống tư tưởng triết học của người Á Đông cổ đại. Tư tưởng triết học cơ bản dựa trên cơ sở của sự cân bằng thông qua đối kháng và thay đổi (chuyển dịch). Ban đầu, Kinh Dịch được coi là một hệ thống để bói toán, nhưng sau đó được phát triển dần lên bởi các nhà triết học Trung Hoa. Cho tới nay, Kinh Dịch đã được bổ sung các nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt các tư tưởng triết học cổ Á Đông và được coi là một tinh hoa của cổ học Trung Hoa. Nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa lý, quân sự, nhân mệnh...

Hào trong Kinh dịch là gì
Kinh Dịch

Kinh Dịch

Thông tin sáchQuốc giaTrung Quốc
Hào trong Kinh dịch là gì
Yi Ching易經

Trang tiêu đề của một ấn bản triều đại nhà Tống của sách Kinh Dịch

Thông tin sáchQuốc giaNhà ChuThể loạiBói toán, vũ trụ họcI ChingPhồn thể易經Giản thể易经Bính âm Hán ngữYìjīng

Kinh (經 jīng) có nghĩa là một tác phẩm kinh điển, trong tiếng Hoa có gốc gác từ "quy tắc" hay "bền vững", hàm ý rằng tác phẩm này miêu tả những quy luật tạo hóa không thay đổi theo thời gian.

Dịch (易 yì) có nghĩa là "thay đổi" của những thành phần bên trong một vật thể nào đó mà trở nên khác đi.

Khái niệm ẩn chứa sau tiêu đề này là rất sâu sắc. Nó có ba ý nghĩa cơ bản có quan hệ tương hỗ như sau:

  • Bất dịch - bản chất của thực thể. Vạn vật ở tại trong vũ trụ là luôn thay đổi, tuy nhiên trong những thay đổi đó luôn luôn tồn tại nguyên lý bền vững - quy luật trung tâm - là không hề đổi theo không gian và thời gian.
  • Biến dịch - hành vi của mọi thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là liên tục thay đổi. Nhận thức được điều này con người có thể hiểu được tầm quan trọng của sự mềm dẻo trong cuộc sống và có thể trau dồi những giá trị đích thực để có thể xử sự trong những tình huống khác nhau.
  • Giản dịch - thực chất của mọi thực thể. Quy luật nền tảng của mọi thực thể trong vũ trụ là hoàn toàn rõ ràng và đơn giản, không hề cần biết là biểu hiện của nó là khó hiểu hay phức tạp.

Tóm lại:

Vì biến dịch, cho nên có sự sống. Vì bất dịch, cho nên có trật tự của sự sống. Vì giản dịch, nên con người có thể qui tụ mọi biến động sai biệt thành những quy luật để tổ chức đời sống xã hội.

Hay: Thiên hạ chi động, trinh phù nhất (Dịch Hệ từ hạ truyện).

Kinh Dịch được cho là có nguồn gốc từ huyền thoại Phục Hy (伏羲 Fú Xī). Theo nghĩa này thì ông là một nhà văn hóa, một trong Tam Hoàng của Trung Hoa thời thượng cổ (khoảng 2852-2738 TCN, theo huyền thoại), được cho người sáng tạo ra bát quái (八卦 bā gùa) là tổ hợp của ba hào. Dưới triều vua Vũ (禹 Yǔ) nhà Hạ, bát quái đã phát triển thành quẻ, có tất cả sáu mươi tư quẻ (六十四卦 lìu shí­ sì gùa), được ghi chép lại trong kinh Liên Sơn (連山 Lián Shān) còn gọi là Liên Sơn Dịch. Liên Sơn, có nghĩa là "các dãy núi liên tiếp" trong tiếng Hoa, bắt đầu bằng quẻ Thuần Cấn (艮 gèn) (núi), với nội quáingoại quái đều là Cấn (tức hai ngọn núi liên tiếp nhau) hay là Tiên Thiên Bát Quái.

Sau khi nhà Hạ bị nhà Thương thay thế, các quẻ sáu hào được suy diễn ra để tạo thành Quy Tàng (歸藏 Gūi Cáng; còn gọi là Quy Tàng Dịch), và quẻ Thuần Khôn (坤 kūn) trở thành quẻ đầu tiên. Trong Quy Tàng, đất (Khôn) được coi như là quẻ đầu tiên. Vào thời kỳ cuối của nhà Thương, vua Văn Vương nhà Chu diễn giải quẻ (gọi là thoán hay soán) và khám phá ra là quẻ Thuần Càn (乾 qián) (trời) biểu lộ sự ra đời của nhà Chu. Sau đó ông miêu tả lại các quẻ theo bản chất tự nhiên của chúng trong Thoán Từ (卦辭 guà cí) và quẻ Thuần Càn trở thành quẻ đầu tiên. Hậu Thiên Bát Quái ra đời.

Khi vua Chu Vũ Vương (con vua Văn Vương) tiêu diệt nhà Thương, em ông là Chu Công Đán tạo ra Hào Từ (爻辭 yáo cí), để giải thích dễ hiểu hơn ý nghĩa của mỗi hào trong mỗi quẻ. Tính triết học của nó ảnh hưởng mạnh đến chính quyền và văn học thời nhà Chu (khoảng 1122-256 TCN).

Muộn hơn, trong thời kỳ Xuân Thu (khoảng 722-481 TCN), Khổng Tử đã viết Thập Dực (十翼 shí yì), để chú giải Kinh Dịch. Ông nói "Nếu trời để cho ta sống thêm mươi năm nữa thì ta sẽ đọc thông Kinh Dịch. Năm mươi tuổi mới học Kinh Dịch cũng có thể không mắc phải sai lầm lớn.".[1] Vào thời Hán Vũ Đế (漢武帝 Hàn Wǔ Dì) của nhà Tây Hán (khoảng 200 TCN), Thập Dực được gọi là Dịch truyện (易傳 yì zhùan), và cùng với Kinh Dịch nó tạo thành Chu Dịch (周易 zhōu yì).

Trong hơn 50 năm qua, lịch sử "hiện đại" của Kinh Dịch đã trỗi dậy, dựa trên cơ sở các phê phán và tìm kiếm bản khắc mai rùa thời Thương và Chu cũng như bản khắc trên đồ đồng thời Chu và các nguồn khác (xem dưới đây). Việc xây dựng lại nguồn gốc của Kinh Dịch này có quan hệ với một loạt các cuốn sách như The Mandate of Heaven: Hidden History in the I Ching của tác giả: S. J. Marshall và Zhouyi: The Book of Changes của Richard Rutt, (xem Tham khảo dưới đây). Các nghiên cứu khoa học có liên quan đến cách hiểu mới về Kinh Dịch bao gồm các luận án tiến sĩ của Richard Kunst và Edward Shaughnessy. Các công trình khoa học này được giúp đỡ rất nhiều bởi phát hiện trong những năm 1970 của các nhà khảo cổ học Trung Quốc về các ngôi mộ cổ còn gần như nguyên vẹn từ thời nhà Hán ở Mã Vương Đôi (馬王堆) gần Trường Sa, tỉnh Hồ Nam. Một trong các ngôi mộ chứa bản Kinh Dịch gần như còn hoàn hảo vào khoảng thế kỷ II TCN, Đạo Đức Kinh và các tác phẩm khác, nói chung rất giống với những bản còn tồn tại đến ngày nay tuy có một số sai biệt nhỏ.

Văn bản trong ngôi mộ cổ bao gồm cả những chú giải bổ sung của Kinh Dịch mà trước đây người ta không được biết và có vẻ như được viết ra (như người ta vẫn gán cho) bởi Khổng Tử. Mọi văn bản trong ngôi mộ ở Mã Vương Đôi là sớm hơn vài thế kỷ so với các bản sớm nhất được công nhận. Khi nói về sự tiến hóa của Kinh Dịch các nhà khoa học nghiêng về xu hướng hiện đại cho rằng đây là điều quan trọng để phân biệt giữa văn bản của Kinh Dịch truyền thống và văn bản giống như Kinh Dịch (mà theo họ là sai niên đại), nằm trong những chú giải được thần thánh hóa suốt hàng thế kỷ cùng với chủ thể của chúng, và các nghiên cứu lịch sử gần đây nhất còn nhận được hỗ trợ bởi các phê phán của các nhà ngôn ngữ học hiện đại và khảo cổ học. Nhiều người cho rằng các văn bản này không nhất thiết phải loại trừ lẫn nhau.

Tuy đa phần các văn bản và học giả xưa nay đều cho rằng Kinh Dịch là sản phẩm của nền văn hóa Hoa Hạ tại Trung Quốc, gần đây một số tác giả Việt Nam như Kim Định, Nguyễn Thiếu Dũng và Thích Viên Như[2] lại cho rằng Kinh Dịch do người Việt cổ sáng chế, dựa trên việc có một số khái niệm giống như Kinh Dịch được mã hóa trên các họa tiết trống đồng và tranh Đông Hồ. Tuy nhiên, những giả thuyết này mang tính suy diễn chủ quan, vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết và cũng chưa tìm được các bằng chứng khảo cổ để chứng minh, nên chưa đủ sức thuyết phục ngay cả đối với giới học giả trong nước Việt Nam. Mặt khác, đối chiếu niên đại thì các giả thuyết này thể hiện sự vô lý: trống đồng của người Việt có niên đại cổ nhất là khoảng gần 2.800 năm trước, tranh Đông Hồ thì chỉ mới xuất hiện vài trăm năm trước, trong khi các yếu tố của Kinh Dịch đã được người Trung Quốc ghi lại trên giáp cốt văn từ thời nhà Thương cách đây 3.500 năm rồi, nên càng không có căn cứ để nói rằng Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt.

  • Truyền thuyết nói rằng Kinh Dịch bắt đầu ra đời từ vua Phục Hy, lúc ấy Hoàng Hà có con long mã hiện hình lưng nó có khoáy thành đám, từ một đến chín, vua Phục Hy coi những khoáy đó, mà hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ, mới đem lẽ đó vạch ra thành nét. Đầu tiên vạch một nét liền (tức là vạch lẻ), để làm phù hiệu (tượng trưng) cho khí Dương, và một nét đứt (tức là vạch chẵn), để làm phù hiệu (tượng trưng) cho khí Âm. Hai cái vạch đó gọi là hai Nghi. Trên mỗi nghi thêm một nét nữa, thành ra bốn cái hai vạch, gọi là bốn Tượng. Trên mỗi Tượng lại vạch thêm một vạch nữa, thành ra tám cái ba vạch, gọi là tám Quẻ (tức là quẻ đơn). Sau cùng Phục Hy lại đem quẻ nọ chồng lên quẻ kia, thành ra sáu mươi tư cái sáu vạch, gọi là sáu mươi tư Quẻ (tức là quẻ kép). Từ thời Phục Hy đến cuối nhà Thương Kinh Dịch vẫn chỉ là những vạch liền, vạch đứt, chưa có tên hiệu chữ nghĩa gì cả.
  • Sang tới đầu nhà Chu, Chu Văn Vương mới đem những Quẻ của Phục Hy mà đặt từng tên và diễn thêm lời ở dưới mỗi quẻ để nói về sự lành dữ của cả quẻ, như chữ nguyên hanh lợi tẫn mã chi trinh ở quẻ Khôn v.v... Lời đó gọi là Lời Quẻ (quái từ), hay lời thoán (thoán từ).
  • Rồi sau đó Chu Công tức Cơ Đán (con trai thứ Văn Vương), lại theo số vạch của các quẻ mà chia mỗi quẻ ra làm sáu phần, mỗi phần gọi là một Hào, và dưới mỗi hào đều có thêm một hoặc vài câu, để nói về sự lành dữ của từng hào, như câu Sơ Cửu: tiềm long vật dụng hay câu Cửu Nhị: hiện long tại điền trong quẻ Kiền và câu Sơ Lục lý sương kiên băng chí hay câu Lục Tam: Hàm chương khả trinh trong quẻ Khôn... Lời đó gọi là lời hào (Hào từ) vì phần nhiều nó căn cứ vào hình tượng của các hào, cho nên nó còn gọi là (Lời tượng).
  • Tiếp đến Khổng Tử lại soạn ra bảy thứ nữa, là Thoán truyện, Tượng truyện, Văn ngôn, Hệ từ truyện, Thuyết quái, Tự quái, Tạp quái. Thoán truyện có hai thiên: Thượng Thoán và Hạ Thoán; Tượng truyện có hai thiên: Thượng và Hạ Tượng; Hệ từ cũng có hai thiên: Thượng Hệ và Hạ Hệ; tất cả mười thiên, thường gọi là Thập dực (mười cánh). Sáu thứ đó tuy đều tán cho ý nghĩa Kinh Dịch rộng thêm, nhưng mỗi thứ có một tính cách.

Bát quái và Kinh dịch đại diện cho quá trình diễn tiến nhận thức của người Trung Quốc cổ đại đối với các hiện tượng tự nhiên, hiện tượng xã hội. Đầu tiên có các hào dương và hào âm với phù hiệu đơn giản nhất, sau đó phát triển thành 8 quẻ (Bát quái) có thể đại diện được cho tám loại hiện tượng của thế giới tự nhiên. Rồi lại phát triển tiếp tám tám sáu mươi tư quẻ, có thể thuyết minh cho nhiều hiện tượng tự nhiên và hiện tượng xã hội hơn. Cuối cùng mới có "Kinh dịch" với các lời quẻ là chính, cấu thành một tác phẩm triết học có thể đại diện cho vũ trụ quan, nhân sinh quan… của người Trung Quốc cổ đại. Mỗi một giai đoạn phát triển đều không thể chỉ là sự sáng tạo phát minh của một cá nhân nào đó, mà là một quá trình diễn tiến có sự kế thừa và phát triển trước sau, liên tục không ngừng. Nói Phục Hy sáng tạo ra Bát quái dựa trên "con long mã hiện hình" thực ra chỉ là truyền thuyết đơn giản hóa vấn đề mà thôi.

Khái luật

Trình Di nói: Rất huyền vi là Lý, rất tỏ rõ là Tượng, thể chất và công dụng vẫn là một nguồn, huyền vi và tỏ rõ không hề cách nhau, xem sự hội thông, để thi hành điển lễ của nó, thì Lời không có cái gì không đủ. Cho nên kẻ khéo học dịch, tìm kiếm về Lời, phải tự chỗ gần trước đã. Nếu mà khinh rẻ chỗ gần thì không phải là kẻ biết nói Kinh Dịch. Còn sự do Lời mà biết được Ý thì cốt ở người.

Lưỡng Nghi

Lưỡng Nghi là khởi nguồn của Kinh Dịch, đó là Âm và Dương, Dương được ghi lại bằng vạch liền (-) còn Âm vạch cách đoạn (--)

Tứ Tượng

Tượng là dùng hai Nghi chồng lên nhau và đảo chỗ, vì thế được Tứ Tượng. Tứ tượng là 4 tượng, bao gồm: thái dương, thiếu dương, thái âm và thiếu âm.

Quẻ đơn

 

Gương bát quái

Tứ Tượng chỉ có hai vạch chồng lên nhau, người ta chồng tiếp một vạch nữa lên (là có ba vạch). Được tám hình thái khác nhau gọi là Bát Quái (quẻ đơn) {xem chi tiết phần sau}

Quẻ kép

Quẻ kép (còn gọi là trùng quái) là đem những quẻ đơn chồng lên nhau, được sáu mươi tư hình thái khác nhau, đó là Sáu mươi tư quẻ.{xem chi tiết phần sau}

Siêu quẻ

Nếu có thể người ta chồng hai quẻ kép lên nhau sẽ được 64 x 64 quẻ nữa. Nhưng có lẽ trí tuệ của con người chưa thể hiểu được những Quẻ đó, vì vậy tạm dừng lại ở 64 quẻ kép. Tiêu Diên Thọ có sáng kiến chồng 64 thẻ lên nhau tạo thành 64x64 = 4096 quái (mỗi quẻ mới gồm 12 hào), như thế quá nhiều nên ít ai theo.[3]

Các biểu tượng của Kinh Dịch là nằm trong tập hợp của 64 tổ hợp của các đường trừu tượng gọi là quẻ (卦 guà). Mỗi quẻ bao gồm 6 hào (爻 yáo) được biểu diễn dưới dạng các đoạn thẳng nằm ngang; mỗi hào này có thể là Dương (đường liền nét) hay Âm (đường đứt nét bao gồm hai đoạn thẳng cách nhau một khe nhỏ). Với sáu đoạn thẳng này được đặt lên nhau từ dưới lên trên trong mỗi quẻ suy ra có 26 hay 64 tổ hợp của hào và như vậy có 64 quẻ.

Mỗi quẻ được cho là tổ hợp của hai tập hợp con, mỗi tập con gồm ba đường gọi là quái (卦 guà). Như vậy có 23 hay 8 quái khác nhau.

Mỗi quẻ đại diện cho một trạng thái, tiến trình hay sự thay đổi có thể xảy ra. Khi quẻ được gieo bằng một trong những phương thức của bói toán bằng Kinh Dịch thì mỗi một đường (hào) có thể là tĩnh hoặc động. Hào động có thể có sự thay đổi từ Âm sang Dương hay ngược lại để tạo thành một quẻ khác, việc giải nghĩa của quẻ được gieo ban đầu dựa trên sự cân nhắc và xem xét các thay đổi đó.

Các phương pháp truyền thống để gieo quẻ sử dụng số ngẫu nhiên để sinh ra quẻ, vì thế 64 quẻ này là không đồng nhất xét về xác suất.

Có một số hình thức khác nhau sắp xếp quái và quẻ. Bát quái (八卦 bā gùa) là sự sắp xếp của các quái, thông thường là trên gương hoặc đĩa. Truyền thuyết cho rằng Phục Hi đã tìm thấy bát quái được viết trên mai rùa (Xem Hà Đồ). Kiểu sắp xếp tám quái dựa trên suy diễn này gọi là Tiên thiên bát quái.

Sự sắp xếp của vua Văn Vương được gọi là Hậu thiên bát quái. (Xem Lạc Thư)

Thành phần hợp thành của quẻ

Vạch liền là Dương, tượng của mặt trời. Vạch đứt là Âm, tượng của mặt trăng. Mỗi một vạch (liền hoặc đứt) là một hào. Các thành phần này được biểu diễn trong một biểu tượng hình tròn chung (☯), được biết đến như Thái Cực đồ (☯) (太極圖 taijitu), nhưng nói chung người ta gọi tắt là đồ Âm-Dương (陰陽 yin-yang), miêu tả quan hệ giữa hai trạng thái của mọi thay đổi, chuyển dịch: khi Dương đạt tới cực đỉnh thì Âm bắt đầu phát sinh và ngược lại. Thái Cực đồ cũng là nguyên lý phát sinh Âm-Dương.

Vô Cực sinh Thái Cực Thái Cực sinh Lưỡng Nghi Lưỡng Nghi sinh Tứ tượng Tứ Tượng sinh Bát Quái Bát Quái sinh vô lượng

Trong đó:

  • Vô Cực tương đương trong Lão giáo là Vô Vi - có thể coi là hư vô.
  • Thái Cực có thể tạm coi như trạng thái cân bằng khi vũ trụ hình thành.
  • Lưỡng Nghi là hai thành phần Âm và Dương.
  • Tứ Tượng là Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm.

Trong danh sách sau, quái và quẻ được biểu diễn bằng cách sử dụng các quy ước thông thường trong soạn thảo văn bản theo chiều ngang từ trái qua phải, với ký hiệu '|' cho Dương và ':' cho Âm. Lưu ý rằng, biểu diễn trong thực tế của quái và quẻ là các đường theo chiều đứng từ thấp lên cao (có nghĩa là để hình dung ra quái hay quẻ trong thực tế, ta cần phải quay đoạn văn bản biểu diễn chúng ngược chiều kim đồng hồ một góc 90°).

Có tám quái hay bát quái (八卦 bāguà) tạo thành do tổ hợp chập ba của Âm và/hoặc Dương:

Số Quái Tên Bản chất tự nhiên Ngũ hành Độ số theo Hà đồ, Lạc thư Hướng theo Tiên Thiên/Hậu Thiên Bát Quái
1||| (☰) Càn (乾 qián)Trời (天)dương kim6nam/tây bắc
2||: (☱)Đoài (兌 duì) Đầm (hồ) (澤)âm kim4đông nam/tây
3|:| (☲)Ly (離 lý) Hỏa (lửa) (火)âm hỏa7đông/nam
4|:: (☳)Chấn (震 zhèn) Sấm (雷)dương mộc9đông bắc/đông
5:|| (☴)Tốn (巽 xùn) Gió (風)âm mộc3tây nam/đông nam
6:|: (☵)Khảm (坎 kǎn)Nước (水)dương thủy1tây/bắc
7::| (☶)Cấn (艮 gèn) Núi (山)dương thổ8tây bắc/đông bắc
8::: (☷)Khôn (坤 kūn)Đất (地)âm thổ2bắc/tây nam

Ba hào dưới của quẻ, được gọi là nội quái, được coi như xu hướng thay đổi bên trong. Ba hào trên của quẻ, được gọi là ngoại quái, được coi như xu hướng thay đổi bên ngoài (bề mặt). Sự thay đổi chung của quẻ là liên kết động của những thay đổi bên trong và bên ngoài. Vì vậy, quẻ số 13 (|:||||) Thiên Hỏa đồng nhân, bao gồm nội quái |:| (Ly hay Hỏa), liên kết với ngoại quái ||| (Càn/Trời).

Bát quái nạp vào Hà Đồ và 8 đường kinh nạp vào Hà Đồ theo tính chất ngũ hành tương ứng được minh họa như sau:

 

Chu kỳ dòng khí luân phiên trong 8 đường kinh.

 

Chu kỳ dòng khí luân phiên trong 12 đường kinh.

 

Hệ 64 quẻ Tiên thiên và Hà đồ

 

Hệ 64 quẻ Tiên thiên và Hà đồ

 

Tượng Số Tiên Thiên Bán Cầu Bắc

 

Tượng Số Tiên Thiên Bán Cầu Nam

 

Tượng Số Tiên Thiên Địa Cầu Phân Cực Bắc Nam

 

Ngũ hành tương khắc trong Hà đồ và Bát quái Hậu thiên

Biểu đồ các quái

Ngoại quái

Nội quái

|||

Càn

Trời

|::

Chấn

Sấm

:|:

Khảm

Nước

::|

Cấn

Núi

:::

Khôn

Đất

:||

Tốn

Gió

|:|

Ly

Hỏa

||:

Đoài

Đầm

|||

Càn

1 34 5 26 11 9 14 43
|::

Chấn

25 51 3 27 24 42 21 17
:|:

Khảm

6 40 29 4 7 59 64 47
::|

Cấn

33 62 39 52 15 53 56 31
:::

Khôn

12 16 8 23 2 20 35 45
:||

Tốn

44 32 48 18 46 57 50 28
|:|

Ly

13 55 63 22 36 37 30 49
||:

Đoài

10 54 60 41 19 61 38 58

64 quẻ

Dưới đây là sáu mươi tư quẻ của Kinh Dịch.

Các quẻ từ số 01 đến số 30 được gọi là Thượng Kinh, bắt đầu với hai quẻ Càn (trời), Khôn (đất) nên phần này đôi khi gọi là "đạo của Trời Đất".

Các quẻ từ số 31 đến số 64 được gọi là Hạ Kinh, bắt đầu với hai quẻ Hàm (tình yêu), Hằng (vợ chồng) nên phần này đôi khi gọi là "đạo của vợ chồng".

Tên gọi các quẻ: tên gọi của mỗi quẻ gồm 3 phần, bắt đầu với tên của các quẻ đơn tạo nên nó, đầu tiên là ngoại quái rồi đến nội quái, phần cuối của tên chỉ ý nghĩa của quẻ. Ví dụ quẻ Thủy Hỏa Ký Tế:

  • thủy chỉ ngoại quái: Khảm (nước);
  • hỏa chỉ nội quái: Li (lửa);
  • ký tế chỉ ý nghĩa của quẻ: đã xong, đã hoàn thành, đã qua sông;

ví dụ khác là quẻ Địa Sơn Khiêm:

  • địa chỉ ngoại quái: Khôn (đất);
  • sơn chỉ nội quái: Cấn (núi);
  • khiêm chỉ ý nghĩa của quẻ: khiêm nhường.
  1. |||||| Thuần Càn (乾 qián) Thuần Khôn (坤 kūn)
  2. |:::|: Thủy Lôi Truân (屯 chún) |:::| Sơn Thủy Mông (蒙 méng)
  3. |||:|: Thủy Thiên Nhu (需 xū) |:||| Thiên Thủy Tụng (訟 sòng) |:::: Địa Thủy Sư (師 shī) |: Thủy Địa Tỷ (比 bǐ)
  4. |||:|| Phong Thiên Tiểu Súc (小畜 xiǎo chù)
  5. ||:||| Thiên Trạch Lý (履 lǚ)
  6. |||::: Địa Thiên Thái (泰 tài) ||| Thiên Địa Bĩ (否 pǐ)
  7. |:|||| Thiên Hỏa Đồng Nhân (同人 tóng rén)
  8. ||||:| Hỏa Thiên Đại Hữu (大有 dà yǒu) |::: Địa Sơn Khiêm (謙 qiān) |:: Lôi Địa Dự (豫 yù)
  9. |::||: Trạch Lôi Tùy (隨 suí) ||::| Sơn Phong Cổ (蠱 gǔ)
  10. ||:::: Địa Trạch Lâm (臨 lín) || Phong Địa Quan (觀 guān)
  11. |::|:| Hỏa Lôi Phệ Hạp (噬嗑 shì kè)
  12. |:|::| Sơn Hỏa Bí (賁 bì) | Sơn Địa Bác (剝 bō)
  13. |::::: Địa Lôi Phục (復 fù)
  14. |::||| Thiên Lôi Vô Vọng (無妄 wú wàng)
  15. |||::| Sơn Thiên Đại Súc (大畜 dà chù)
  16. |::::| Sơn Lôi Di (頤 yí) ||||: Trạch Phong Đại Quá (大過 dà guò) |::|: Thuần Khảm (坎 kǎn)
  17. |:||:| Thuần Ly (離 lý) |||: Trạch Sơn Hàm (咸 xián) |||:: Lôi Phong Hằng (恆 héng) |||| Thiên Sơn Độn (遯 dùn)
  18. ||||:: Lôi Thiên Đại Tráng (大壯 dà zhuàng) |:| Hỏa Địa Tấn (晉 jìn)
  19. |:|::: Địa Hỏa Minh Di (明夷 míng yí)
  20. |:|:|| Phong Hỏa Gia Nhân (家人 jiā rén)
  21. ||:|:| Hỏa Trạch Khuê (睽 kuí) |:|: Thủy Sơn Kiển (蹇 jiǎn) |:|:: Lôi Thủy Giải (解 xiè)
  22. ||:::| Sơn Trạch Tổn (損 sǔn)
  23. |:::|| Phong Lôi Ích (益 yì)
  24. |||||: Trạch Thiên Quải (夬 guài) ||||| Thiên Phong Cấu (姤 gòu) ||: Trạch Địa Tụy (萃 cuì) ||::: Địa Phong Thăng (升 shēng) |:||: Trạch Thủy Khốn (困 kùn) ||:|: Thủy Phong Tỉnh (井 jǐng)
  25. |:|||: Trạch Hỏa Cách (革 gé) |||:| Hỏa Phong Đỉnh (鼎 dǐng)
  26. |::|:: Thuần Chấn (震 zhèn) |::| Thuần Cấn (艮 gèn) |:|| Phong Sơn Tiệm (漸 jiàn)
  27. ||:|:: Lôi Trạch Quy Muội (歸妹 guī mèi)
  28. |:||:: Lôi Hỏa Phong (豐 fēng) ||:| Hỏa Sơn Lữ (旅 lǚ) ||:|| Thuần Tốn (巽 xùn)
  29. ||:||: Thuần Đoài (兌 duì) |::|| Phong Thủy Hoán (渙 huàn)
  30. ||::|: Thủy Trạch Tiết (節 jié)
  31. ||::|| Phong Trạch Trung Phu (中孚 zhōng fú) ||:: Lôi Sơn Tiểu Quá (小過 xiǎo guò)
  32. |:|:|: Thủy Hỏa Ký Tế (既濟 jì jì) |:|:| Hỏa Thủy Vị Tế (未濟 wèi jì)
64 quẻ trong Kinh Dịch  
Thượng kinh: Thuần Càn | Thuần Khôn | Thủy Lôi Truân | Sơn Thủy Mông | Thủy Thiên Nhu | Thiên Thủy Tụng | Địa Thủy Sư | Thủy Địa Tỷ | Phong Thiên Tiểu Súc | Thiên Trạch Lý | Địa Thiên Thái | Thiên Địa Bĩ | Thiên Hỏa Đồng Nhân | Hỏa Thiên Đại Hữu | Địa Sơn Khiêm | Lôi Địa Dự | Trạch Lôi Tùy | Sơn Phong Cổ | Địa Trạch Lâm | Phong Địa Quan | Hỏa Lôi Phệ Hạp | Sơn Hỏa Bí | Sơn Địa Bác | Địa Lôi Phục | Thiên Lôi Vô Vọng | Sơn Thiên Đại Súc | Sơn Lôi Di | Trạch Phong Đại Quá | Thuần Khảm | Thuần Ly
Hạ Kinh: Trạch Sơn Hàm | Lôi Phong Hằng | Thiên Sơn Độn | Lôi Thiên Đại Tráng | Hỏa Địa Tấn | Địa Hỏa Minh Di | Phong Hỏa Gia Nhân | Hỏa Trạch Khuê | Thủy Sơn Kiển | Lôi Thủy Giải | Sơn Trạch Tổn | Phong Lôi Ích | Trạch Thiên Quải | Thiên Phong Cấu | Trạch Địa Tụy | Địa Phong Thăng | Trạch Thủy Khốn | Thủy Phong Tỉnh | Trạch Hỏa Cách | Hỏa Phong Đỉnh | Thuần Chấn | Thuần Cấn | Phong Sơn Tiệm | Lôi Trạch Quy Muội | Lôi Hỏa Phong | Hỏa Sơn Lữ | Thuần Tốn | Thuần Đoài | Phong Thủy Hoán | Thủy Trạch Tiết | Phong Trạch Trung Phu | Lôi Sơn Tiểu Quá | Thủy Hỏa Ký Tế | Hỏa Thủy Vị Tế

Trong bảng mã Unicode các ký hiệu cho các quẻ của Kinh Dịch nằm trong khoảng từ 4DC0 đến 4DFF (19904 – 19967). Có thể tham khảo các mã Unicode ở Yijing Hexagram Symbols Lưu trữ 2008-10-11 tại Wayback Machine

Sự phát triển của hình thức biểu diễn nhị phân dựa trên Âm và Dương (Thái Dương, Thái Âm; Thiếu Dương hay Thiếu Âm) (xem mục #Bói toán dưới đây) là những nền tảng để quẻ được xây dựng nên từ đó. Âm và Dương có liên quan đến nhiều trường phái khác nhau của văn minh Trung Hoa cổ đại, đặc biệt là liên quan đến Lão giáo.

Một cách nhìn nhận khác cho rằng Kinh Dịch là những văn bản đạo đức hay triết học khởi thủy của đạo Khổng. Cách nhìn nhận này dựa trên các yếu tố sau:

  • Thập Dực hay các chú giải bổ sung là do Khổng Tử viết.
  • Việc nghiên cứu Kinh Dịch là một phần bắt buộc của các sĩ tử trước khi đi thi trong chế độ phong kiến. Các kỳ thi này chỉ hỏi về các tài liệu liên quan đến Khổng giáo.
  • Nó là một trong Ngũ Kinh của đạo Khổng.
  • Nó không xuất hiện trong bất kỳ thư tịch nào còn sót lại của Đạo tạng (道藏).
  • Phần lớn các chú giải chính được viết bởi những người theo Khổng giáo hay tân Khổng giáo.

Cả hai cách nhìn nhận này đã chứng minh rằng Kinh Dịch là nền tảng của các triết lý Trung Hoa, là nền tảng cho cả hai trường phái Khổng - Lão. Từng bị lãng quên khi đạo Phật phát triển ở Trung Quốc thời nhà Đường, Kinh Dịch đã nhận được nhiều sự chú ý hơn từ các trường phái trong thời kỳ nhà Tống. Nó đi kèm theo với sự đánh giá lại đạo Khổng bởi những người theo Khổng giáo trong sự kết hợp với các triết lý trừu tượng của đạo Lão và đạo Phật, và được biết đến ở phương Tây như là tân Khổng giáo. Kinh Dịch đã giúp cho các triết gia Khổng giáo thời Tống tổng hợp các thuyết vũ trụ học của đạo Lão và đạo Phật cùng với các luân lý của đạo Khổng và đạo Lão. Sản phẩm cuối cùng là một thuyết vũ trụ học mới, có thể liên quan đến cái gọi là "Đạo đã mất" của Khổng Tử và Mạnh Tử.

Chuỗi nhị phân

Trong bài báo của mình Explication de l'Arithmétique Binaire (1703) Gottfried Leibniz viết rằng ông tìm thấy trong quẻ nền tảng của tính vũ trụ trong hệ thống đếm cơ số nhị phân. Ông lấy hình dạng tổ hợp tìm thấy trong quẻ để biểu diễn trật tự nhị phân, vì thế ¦¦¦¦¦¦ tương đương với trật tự nhị phân 000000 và ¦¦¦¦¦| sẽ là 000001 v.v.

 

Tương quan giữa số đếm Việt với tên và giá trị nhị phân Dịch.

Kinh Dịch đã có một lịch sử lâu dài trong việc sử dụng để xem bói và có nhiều phương thức khác nhau để lấy và diễn giải một quẻ trong mối quan hệ tương hỗ của nó với những quẻ khác. Dưới thời Nhà Tần với chủ trương Đốt sách chôn nho thì Tần Thủy Hoàng coi Kinh Dịch, Chu Dịch chỉ là sách bói đơn thuần (vô hại) nên bộ sách này đã không bị đốt.
Hiện nay, Kinh Dịch trong bói toán được chia ra làm: Kinh Dịch Lục Hào và Mai Hoa Dịch Số.
Kinh Dịch Lục Hào : Sử dụng 3 đồng tiền xu để gieo quẻ, luận đoán sự việc dựa trên nguyên lý âm dương ngũ hành.
Mai Hoa Dịch Số : Cách gieo quẻ đa dạng, luận đoán dựa trên tượng quẻ và hào từ của quẻ dịch.

 

Bàn cờ Dịch lúc bắt đầu với 18 quân

Cờ Dịch[4] là trò chơi trên bàn dành cho hai người, được tạo ra dựa vào Lạc Thư. Cờ Dịch chứa đựng tư tưởng cốt lõi của Kinh Dịch cũng như Vương Đạo - đường lối dùng đức, tài để trị vì thiên hạ của người quân tử. Nếu như trong cờ vây, cờ tướng hay cờ vua, người chơi tập trung tìm cách chiếm đất hay tiêu diệt quân đối phương, thì trong cờ Dịch, người chơi chỉ cần thay đổi vị trí các quân cờ để xoay chuyển cục diện.

 

Quốc kỳ Hàn Quốc

 

Quốc kỳ Đế quốc Việt Nam

 

Quốc kỳ Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa

Quốc kỳ của Hàn Quốc có chứa Thái Cực đồ (được cho là nguồn gốc phát sinh vạn vật trong vũ trụ). Thái Cực đồ được bao quanh bởi bốn trong tám quái là Càn (Trời), Khôn (Đất), Ly (Lửa) và Khảm (Nước). Quốc kỳ Đế quốc Việt Nam có nền vàng và quẻ Ly ở giữa, quốc kỳ Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa có nền vàng và quẻ Càn ở giữa.

Kinh Dịch có ảnh hưởng không giới hạn trong giới học giả Trung Quốc cũng như trong các hoạt động kinh tế - văn hóa, xã hội khác trong suốt lịch sử phát triển của dân tộc này. Người châu Âu biết đến Kinh Dịch tương đối muộn và sự hiểu biết về nó gần như còn rất sơ khai. Tuy nhiên gần đây một số văn, nghệ sĩ cũng như các ban nhạc châu Âu đã sử dụng nó trong các tác phẩm của mình như John Cage, Philip K. Dick, Dead Prez, George Harrison của nhóm Beatles,...

  1. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên jing

  1. ^ Tứ thư, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2003, trang 242
  2. ^ Thích Viên Như (ngày 16 tháng 10 năm 2014). “Sách khẳng định người Việt sáng tạo ra kinh Dịch”. VnExpress. Hồng Đức. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2020.
  3. ^ Kinh dịch đạo của người quân tử, Nguyễn Hiến Lê, Nhà xuất bản văn học 1994
  4. ^ Nguyễn Hữu Khánh (ngày 21 tháng 12 năm 2017). “Học được gì qua cờ Dịch - 'đạo của người quân tử'”. VnExpress.

  • Kinh Dịch, Ngô Tất Tố dịch và chú giải, Nhà xuất bản Văn học, 2003
  • Nguyễn Hiến Lê, Kinh Dịch - Đạo của người quân tử, Nhà xuất bản Văn học 1992.
  • Khổng Tử, Kinh thư, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2002]
  • Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, Nhà xuất bản ĐH Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2001
  • Phan Bội Châu, Quốc Văn Chu Dịch Diễn Giải, Nhà xuất bản văn học, 2010
  • Kim Định, Dịch Kinh Linh Thể, Nhà xuất bản Ra Khơi, 1970

  • Marshall S. 2001. The Mandate of Heaven: Hidden History in the I Ching. Nhà in Đại học Columbia.
  • Rutt R. 1996. Zhouyi: The Book of Changes. Nhà in Curzon.

(tiếng Việt)

  • Kinh Dịch tại Từ điển bách khoa Việt Nam

(tiếng Anh)

  • I CHING Bookmarks Lưu trữ 2005-09-13 tại Wayback Machine Bản tiếng Anh của Kinh Dịch.
  • Liên kết văn bản: Kinh Dịch Lưu trữ 2005-03-25 tại Wayback Machine Bao gồm toàn bộ bản tiếng Anh của Kinh Dịch và bình luận.
  • Kinh Dịch hay cuốn sách về các thay đổi Cung cấp thông tin về triết học và sử dụng Kinh Dịch trong thực tế.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kinh_Dịch&oldid=68318202”