Xử lý chất thải rắn bằng phương pháp chôn lấp đang được sử dụng khá phổ biến hiện nay. Ở bài viết này, Bách Khoa sẽ giới thiệu cụ thể về phương pháp này Bãi chôn chất thải rắn phải có diện tích lớn Xử lý chất thải rắn bằng phương pháp chôn lấp như thế nào?Đây là phương pháp xử lý chất thải đang được áp dụng phổ biến ở nước ta bởi sự đơn giản. Nhưng cùng với đó, phương pháp này vẫn còn nhiều điểm hạn chế đáng kể như:
2. Phương thức vận hành Phương pháp chôn lấp trải bề mặt Phương pháp này thường được sử dụng ở những vùng trũng tự nhiên, trên những mặt bằng đã được chuẩn bị sẵn. Mặt bằng nằm dưới đáy có thể là đất tự nhiên, đất được lót đáy hoặc đất đã được đầm nén kỹ tùy thuộc vào yêu cầu thiết kế. Trên bề mặt cần được bổ xung thêm các lớp đất lót và che phủ. Bề dày của lớp che phủ và thời gian tiếp xúc như sau:
Để cho lớp che phủ không bị hư hỏng, có thể lưu trữ vật liệu che phủ trên bề mặt của ô chôn lấp, khi thực hiện che phủ, máy trải vật liệu chỉ nên di chuyển phía trên lớp che phủ. Nên làm sạch các bánh xe trước khi sử dụng hay đầm nén rác thải. Cho dù là phương pháp nào thì lớp che phủ cũng nên được đầm nén và làm phẳng. Lớp che phủ có tác dụng kiểm soát các tác nhân gây mùi, tránh thấm nước và hỏa hoạn. Việc đầm nén rác bằng phẳng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc che phủ và máy móc vận hành. Nếu sử dụng đất làm vật liệu che phủ thì bề dày đầm nén tối thiểu là 15cm. Lớp đất che phủ trung gian phần nào tương tự như lớp che phủ hàng ngày, tuy nhiên thời gian hở nhiều hơn Những diện tích đã hoàn thành nên được che phủ lớp đất cuối cùng càng sớm càng tốt. Độ sâu, loại đất sử dụng và yêu cầu tỉ lệ đầm nén tùy thuộc vào thiết kế, vận hành của bãi chôn lấp. Lớp che phủ cuối cùng nên đầm nén để giữ cho đất càng ít thấm càng tốt. Cuối cùng tiến hành trồng cây, phủ rơm và điều chỉnh pH cho đất. Phương pháp đào rãnh Phương pháp này sử dụng cho khu vực có bề mặt nhấp nhô hoặc khá bằng phẳng với mực nước ngầm thấp. Tùy vào địa điểm mà có diện tích hố đào thích hợp. Phương pháp này có thể yêu cầu nhiều đất và trang thiết bị hơn phương pháp bề mặt, bên cạnh đó nhu cầu lưu trữ và sử dụng đố lượng đất là rất lớn. Một bãi chôn lấp đã hoàn thành đạt tiêu chuẩn có thể sử dụng để xây dựng công trình, tuy nhiên, quá trình chôn lấp luôn chứa những nguy cơ tiềm ẩn. Sự sụp lún: đây là vấn đề có thể xảy ra ở tất cả các bãi chôn lấp, tùy vào tính chất đất mà ảnh hưởng đến mức độ sụp lún. Sự sinh khí: Metan có thể trở thành mối nguy hiểm gây nên sự cháy nổ, hoặc những hợp chất este và những chất có nguồn gốc sunfua gây ra mùi hôi khó chịu. Sự ăn mòn: có rất nhiều sản phẩm gây khả năng phân hủy hóa học được tìm thấy trong sự phân hủy rác. Sự ăn mòn này có thể tấn công vào các vật liệu xây dựng của các công trình, phá vỡ sự liên kết của bê tông và ăn mòn kim loại.
Mặt cắt ngang của hệ thống lớp lót đáy
Các hạng mục công trình bãi chôn lấp.
Xây dựng các bãi chôn lấp cần tiến hành đúng quy trình với những tiêu chuẩn nhất định nhằm hạn chế những rủi ro phát sinh gây tác động tiêu cực đối với môi trường. Để sở hữu một hệ thống xử lý chất thải rắn bằng phương pháp chôn lấp đạt tiêu chuẩn, đảm bảo xử lý triệt để chất thải và không ảnh hưởng đến môi trường, Quý doanh nghiệp có thể liên hệ với Bách Khoa để được tư vấn.
1. Chôn lấp
Ưu điểm: Phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh là phương pháp rẻ tiền, đang được sử dụng nhiều ở Việt Nam Nhược điểm: Tuy nhiên việc chôn lấp chưa đạt yêu cầu vệ sinh môi trường hoặc được xem là hợp vệ sinh thì vấn đề xử lý nước rỉ từ các vết rách, mối nối phát sinh trong quá trình thi công cũng là vấn đề đáng quan tâm.Phương pháp này chiếm nhiều diện tích đất, không phù hợp với hướng đô thị hóa hiện nay. 2. Chế biến phân vi sinh (compost)
Ưu điểm: Phương pháp này được xem là phương pháp an toàn với môi trường, chiếm ít diện tích hơn phương pháp chôn lấp, loại trừ được 50% lượng CTR đô thị phát sinh mà chủ yếu là rác hữu cơ dễ bị phân hủy nhanh gây ô nhiễm môi trường nước, đất, không khí, sản phẩm ra không độc hại, giảm được lượng phân hóa học sử dụng chăm sóc cây trồng, nước rỉ rác sinh ra trong quá trình ủ được thu gom sử dụng lại ( tưới vào ngăn phối trộn hặc ngăn ủ) nên không gây ô nhiễm. Nhược điểm: Nhưng khi áp dụng gặp nhiều khó khăn như: đầu ra của phân compost,.. 3. Thiêu đốt Ngoài công nghệ thiêu đốt CTR nguy hại từ công nghiệp tại khu liên hợp xử lý CTR Nam Sơn (Hà Nội), hiện nay nước ta chỉ sử dụng công nghệ thiêu đốt đối với CTR y tế. Tính đến năm 2003, cả nước có 61 lò đốt CTR y tế, trong đó: - 14 lò sản xuất trong nước, các lò khác đều nhập từ nước ngoài. - 3/61 lò đốt có thiết bị xử lý khí thải (nhưng chỉ có hai lò đốt vận hành thiết bị xử lý khí thải). - 2/61 lò dốt công suất lớn sử dụng chung (công suất > 1 tấn/ngày) được đặt bên ngoài bệnh viện; các lò đốt khác đều đặt trong khuôn viên bệnh viện. Tại thành phố Hà Nội, ngoài lò đốt chất thải y tế tập trung ở Cầu Diễn (công suất 3,2 tấn/ngày) và một số lò đốt riêng của một số bệnh viện, còn có lò đốt CTR công nghiệp nguy hại (công suất 150 kg/giờ) đã hoạt động từ năm 2003. Ưu điểm: Phương pháp này là giảm được thể tích và khối lượng, của chất thải đến 70 - 90% so với thể tích chất thải ban đầu. (Giảm một cách nhanh chóng, thời gian lữu trữ ngắn) - Có thể đốt tại chỗ không cần phải vận chuyển đi xa - Nhiệt tỏa ra của quá trình đốt có thể sử dụng cho các quá trình khác. - Kiểm soát được ô nhiễm không khí, giảm tác động đến môi trường không khí - Có thể sử dụng phương pháp này để xử lý phần lớn các chất thải hữu cơ nguy hại. - Yêu cầu diện tích nhỏ hơn so với phương pháp xử lý bằng sinh học và chôn lấp. - Ô nhiễm nước ngầm ít hơn đối với phương pháp xử lý bằng chôn lấp. - Xử lý triệt để các chỉ tiêu ô nhiễm của chất thải rắn. - Giảm thể tích tối đa sau khi xử lý, cho nên tiết kiệm được diện tích chôn. - Tro thải ra sau khi đốt thường là những chất trơ Nhược điểm: - Vận hành dây chuyền phức tạp, đòi hỏi kỹ thuật và tay nghề cao - Chi phí đầu tư ban đầu lớn - Không phải mọi chất thải đều có thể đốt được - Phải bổ sung nhiên liệu cho quá trình đốt - Một số sản phẩm phụ tạo ra trong quá trình đốt Những chất đốt được: dung môi, dầu thải, bùn dầu, chất thải bệnh viện, dược phẩm quá hạn, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), các loại chất dẽo, cao su, sơn, keo, các hợp chất PVCs, PCBs (poly chlorinated biphenyl). Những chất không nên đốt: là các chất không cháy được, chất thải phóng xạ, chất thải dễ nổ,.. 4. Tái chế / tái sử dụng Ngoài chế biến rác hữu cơ thành phân bón, các thành phần khác (như nilon, nhựa, cao su...) cũng được chế biến thành hạt nhựa, ống cống và vật liệu xây dựng tại một số nhà máy. Đa số các thành phần kim loại, nhựa, nilon, giấy, thuỷ tinh, cao su... có trong rác thải (khoảng 20% CTR) được lực lượng “đồng nát” thu mua và đưa đi tái sử dụng/tái chế tại các làng nghề. 5. Các công nghệ khác (do Việt Nam nghiên cứu, chế tạo) Trong vài năm gần đây, nước ta xuất hiện một số công nghệ xử lý CTR do Việt Nam tự nghiên cứu, chế tạo. Đáng kể là: - Bộ Quốc phòng và Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Xuân Kiên nghiên cứu chế tạo lò đốt CTR y tế với công suất nhỏ. - Công ty Cổ phần Môi trường xanh nghiên cứu mô hình xử lý CTR sinh hoạt thành phân Compost theo công nghệ Seraphin tại Đông Vinh (thành phố Vinh – Nghệ An) và tại Sơn Tây (Hà tây cũ). Là tổ hợp của 3 công nghệ Công nghệ xé, tách và tuyển rác; công nghệ ủ vi sinh; công nghệ tái chế đối với vật liệu chất dẻo và các phế thải. Việc tận dụng nilon, nhựa từ rác thải là hết sức cần thiết, đây chính là thành phần không phân huỷ, hạn chế sự phân huỷ cácthành phần khác khichônlấp. Chất lượng phân bón hữu cơ của các nhà máy xử lý rác làm phân bón hữu cơ compost trong cả nước nói chung, của công nghệ Seraphin nói riêng, do chất lượng nguyên liệu đầu vào thấp do lẫn nhiều tạp chất và các loại rác không phân huỷ dược. Nên việc xử lý rác làm phân compost chỉ có thể thành công khi việc phân loại rác tại nguồn được thực hiện. Phân loại rác tại nguồn là sự đảm bảo cho chất lượng của nguyên liệu đầu và, dẫn đến tăng chất lượng sản phẩm chế biến. Việc phân loại rác tại nguồn, còn làm giảm chi phí trong quá trình xử lý rác sản xuất phân compost, đặc biệt kiểm soát được các thành phần hoá học và các chất gây hại cho cây trồng. - Công ty Cổ phần Tâm Sinh Nghĩa – ASC nghiên cứu mô hình xử lý CTR sinh hoạt thành phân compost theo công nghệ An Sinh (ASC) tại Thuỷ Phương (Huế) - Công ty TNHH Thuỷ lực máy nghiên cứu mô hình xử lý CTR sinh hoạt thành nhiên liệu đốt dân dụng và công nghiệp theo công nghệ MBT – CD – 08 tại thị trấn Đồng Văn (huyện Duy Tiên – Hà Nam). Trong đó, ý tưởng công nghệ và loại sản phẩm tạo ra của ASC và Seraphin là giống nhau; chỉ khác nhau về trang thiết bị máy móc và chất lượng sản phẩm. Riêng sản phẩm của công nghệ MBT – CD – 08 linh hoạt hơn (có thể tạo ra phân bón hoặc nhiên liệu đốt). |