Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt Trót đem thân thế hẹn tang bồng nghĩa là gì

Hướng dẫn

“Đi thi tự vịnh” của Nguyễn Công Trứ đã thể hiện “chí làm trai” và quyết tâm đỗ đạt của kẻ làm trai, khát khao về “nợ tang bồng”. Anh chị hãy phân tích Đi thi tự vịnh của Nguyễn Công Trứ.

I. Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Công Trứ bài thơ Đi thi tự vịnh: Bài thơ “Đi thi tự vịnh” là một bài thơ tiêu biểu, thể hiện cho những tư tưởng ấy của ông

2. Thân bài

  • Quan điểm và khát vọng của nhà thơ: kẻ sĩ khi lên đường đi ứng thứ, mong mỏi một ngày đỗ đạt làm quan
  • Nhà thơ tự khẳng định bản thân và nhắc nhở về trách nhiệm với đất nước: ông quan niệm rằng đã sinh ra là một công dân của đất nước đồng nghĩa với việc mang trong mình trách nhiệm cống hiến
  • Lời nhắc nhở đánh giá cống hiến trên thực tế: nói thì lúc nào cũng dễ, ai cũng nói được, nhưng để thực hiện được thì không phải ai cũng làm được

3. Kết bài

Ý nghĩa bài thơ thi tự vịnh của Nguyễn Công Trứ: Có thể nói, bài thơ “Đi thi tự vịnh” đã mang đậm phong cách của Nguyễn Công Trứ

II. Bài tham khảo

Tác giả Nguyễn Công Trứ là một gương mặt tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế 19 đầu thế kỉ 20. Thơ của ông chứa chất cái nợ tang bồng, khát vọng công danh và khát vọng cống hiến tài năng, trí tuệ của mình cho non sông, đất nước. Bài thơ “Đi thi tự vịnh” là một bài thơ tiêu biểu, thể hiện cho những tư tưởng ấy của ông.

Bài thơ không chỉ thể hiện “chí làm trai” của nhà thơ mà còn thể hiện quyết tâm đỗ đạt, khát khao về “nợ tang bồng”. Đó không phải là cái gì “ngông cuồng” của kẻ sĩ mà được xuất phát từ chính trách nhiệm với tư cách là một người “công dân”. Ngay phần mở đầu, tác giả đã bộc lộ quan điểm và khát vọng của mình:

“Đi không há lẽ trở về không

Cái nợ cầm thư quyết trả xong”.

Hình ảnh “đi không” tượng trưng cho kẻ sĩ khi lên đường đi ứng thứ, mong mỏi một ngày đỗ đạt làm quan. Câu thơ nhấn mạnh quyết tâm của kẻ sĩ, sự tự tin có pha chút ngang tàng và “ngông cuồng” khi quá đề cao bản thân. Tuy nhiên Nguyễn Công Trứ thể hiện niềm tin thái quá ấy không vì danh vọng mà vì “cái nợ cầm thư”, cái nợ với công lao đèn sách, có lỗi với chính mình. “Quyết trả xong” là lời tuyên bố hùng hồn, quyết tâm trả nợ công danh này.

“Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt

Dở đem thân thế hẹn tang bồng”

Các từ hán việt như “điền viên”, “tuế nguyệt”, “tang bồng” đã làm câu thơ có sắc thái trang trọng. Cái vui thú với cỏ cây, hoa lá, sống chan hòa với thiên nhiên đối với một người sống tích cực, có phần ngang tàng như ông có vẻ như mâu thuẫn. Chính vì vậy từ “rắp” đã mang lại ý vị hài hước, vui đùa của nhà thơ, câu thơ chỉ là lời nói đùa đầy hài hước của Nguyễn Công Trứ, bởi ông rất nghiêm túc trong việc thể hiện quan điểm sống cá nhân, một quan điểm tích cực và đầy nhiệt huyết.

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông”

Đối với Nguyễn Công Trứ, ông quan niệm rằng đã sinh ra là một công dân của đất nước đồng nghĩa với việc mang trong mình trách nhiệm cống hiến, xây dựng cho đất nước. Ông tự khẳng định giá trị của bản thân đồng thời nhắc nhở chính mình về trách nhiệm to lớn ấy. Tuy giọng điệu vẫn mang tính ngông cuồng và cao ngạo nhưng ta cảm nhận rõ được sự chân thành trong lời tâm sự của nhà thơ. Đó là một người sống tích cực với những mục đích cao cả, đáng trân trọng.

“Trong cuộc đời trần ai, ai dễ biết

Rồi ra mới biết mặt anh hùng”

Đó là hai câu thơ cuối bài mà Nguyễn Công Trứ đã nhấn mạnh đến những cống hiến trên thực tế, bởi nói thì lúc nào cũng dễ, ai cũng nói được, nhưng để thực hiện được thì không phải ai cũng làm được. Vì thế cần phải xem những cống hiến trên thực tế rồi mới đánh giá mới “biết mặt anh hùng”.

Có thể nói, bài thơ “Đi thi tự vịnh” đã mang đậm phong cách của Nguyễn Công Trứ, đó là cái ngông nghênh trong suy nghĩ, cái ngang tàng trong hành động. Tuy nhiên cái ngông nghênh và ngang tàng ấy không hề phù du và vô lý, nó có chỗ dựa là tài năng và trí tuệ xuất chúng, bản lĩnh hơn người của Nguyễn Công Trứ.

Theo Tacgiatacpham.com

Xem thêm:  Phân tích bài ca dao trèo lên cây bưởi hái hoa …( mẫu 1 )

Giúp em với ạ
Nêu hiệu quả của phép đối được sử dụng trong hai câu thơ:
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng

Câu hỏi:Thông điệp của bài thơ Đi thi tự vịnh?

Lời giải:

- Thông điệp ý nghĩa : Ý thức được trách nhiệm nghĩa vụ của bản thân trong việc nổ lực học tập, tiếp thu tri thức nhầm phục vụ và đem lại lợi ích cho quốc gia dân tộc.

Cùng Top lời giải tìm hiểu thêm về bài thơ đi thi tự vịnh nhé !

1. Tác giả Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ là một gương mặt nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Nổi bật lên trong thơ Nguyễn Công Trứ, đó chính là nợ tang bồng, khát vọng công danh, khát vọng cống hiến tài năng, trí tuệ của mình cho đất nước, non sông. Bài thơ “Đi thi tự vịnh” là một bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Công Trứ thể hiện được đầy đủ tư tưởng, quan điểm ấy của nhà thơ.

“Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,

Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo

Thảnh thơi thơ túi rượu bầu”

(Chí anh hùng)

Ông để lại một số bài thơ chữ Hán, trên 50 bài thơ Nôm, trên 60 bài hát nói và bài phú “Hàn nho phong vị phú” bằng chữ Nôm. Thơ văn Nguyễn Công Trứ “ý tứ mạnh mẽ, từ điệu rắn rỏi, khiến cho người đọc cũng thấy phấn khởi, hăng hái lên” (Dương Quảng Hàm).

Thời trai trẻ, chật vật trong cảnh nghèo, lận đận mãi trong thi cử, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở công danh sự nghiệp, mãi đến năm 41 tuổi mới đỗ giải nguyên. “Đi thi tự vịnh” là một bài thơ ứng tác được Nguyễn Công Trứ viết vào thuở hàn vi, trước lúc bước vào khoa thi Hương trường Nghệ An.

2. Phân tích tác phẩm “Đi thi tự vịnh”

“Đi thi tự vịnh” là một trong nhiều bài thơ nói về chí nam nhi và niềm hăm hở lập công danh của Nguyễn Công Trứ. Hai câuđềthể hiện một quyết tâm, một niềm tin của kẻ sĩ trước lúc bước vào hội công danh, đua tài:

“Đikhônghá lẽ trở vềkhông,

Cái nợ cầm thư phải trả xong.”

“Đi không” - lúc lên đường ứng thí, “không” công danh. Vào trường thi chỉ có một văn tài, một bản lĩnh đua tranh, như cá chép vượt Vũ Môn, tác giả tự tin khẳng định: “há lẽ trở về không”. Chữ “không” thứ 2 là không công danh, không sự nghiệp. Chữ “không” thứ 7 là trắng tay, chẳng đỗ đạt gì! Hai chữ “há lẽ” vang lên như một thách thức. “Nợ cầm thư” là nợ đàn sách của sĩ tử ngày xưa. Nợ cầm thư cũng như nợ bút nghiên, nợ đèn sách. “Cầm thư” đã trở thành “cái nợ”, vì thế có nghĩa vụ phải trả, phải hoàn thành xong xuôi, sòng phẳng. Tiếng “cái” trong “cái nợ cầm thư” nói lênsức nặng, cái giá ghê gớm của nợ đèn sách, nợ công danh. Câu thơ thứ 2 “Cái nợ cầm thư phải trả xong” với 4 thanh trắc (cái, nợ, phải, trả) làm cho thanh điệu của câu thơ trĩu xuống, 3 thanh bằng (cầm, thư, xong) đã nâng giọng điệu câu thơ lên thanh thoát, nhẹ nhàng. Câu thơ biểu lộ một sự đĩnh đạc, hào hùng và phơi phới. Đó là sĩ khí của tác giả trước khi bước vào cuộc đọ trí đua tài. Một sĩ tử có tài năng đích thực mới có sự thách thức và niềm tin mạnh mẽ như vậy.

Hai câu trong phầnthực, 4 tiếng Hán Việt:điền viên, tuế nguyệt, thân thế, tang bồng -được đặt trong thế đối xứng hài hòa, ý thơ trở nên trang trọng. Thời trai trẻ, Nguyễn Công Trứ đã mấy phen nếm cay đắng trong chốn trường thi. “thi không ăn ớt thế mà cay”. (Tú Xương). Có lẽ vì thế đã có lúc, tác giả “Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt”, lấy ruộng vườn vui với năm tháng. Nhưng đã trót, đã “Dở đem thân thế hẹn tang bồng” – Tang bồng là cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng, tượng trưng cho chí lớn, sức mạnh vẫy vùng, tung hoành khắp thiên hạ, ôm hoài bão giúp nước, cứu đời. Ở trên đã nói đến “nợ cầm thư”, ở dưới lại nói “tang bồng”, tính hệ thống của ngôn ngữ đã làm hiện lên một tâm thế rất đẹp của một kẻ sĩ mang chí nam nhi, mang nợ tang bồng muốn thi thố tài năng với đời. Trong thơ, Nguyễn Công Trứ nhiều lần nhắc đến nợ cầm thư, chí tang bồng, chí nam nhi với tất cả niềm tự hào và niềm vui phơi phới:

"Chí tang bồng hẹn với giang san,

Đường trung, hiếu, chữ quản thân gánh vác.

Nợ sách đèn đem nghiên bút trả xong,

Cầu xe ngựa lúc đi về mới tỏ ..."

(Nợ tang bồng)

"Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc,

Nợ tang bồng vay giả, giả vay,

Chí làm trai nam bắc đông tây,

Cho phỉ sức vẫy vùng tronq bốn bể ..."

(Chí anh hùng)

Mở rộng ý thơ nói về nợ tang bồng, nợ cầm thư ở hai phần trước, Nguyễn Công Trứ nói lên một lẽ sống đẹp, một mục đích sống cao cả trong phần luận. Đã hai thế kỉ nay, câu thơ của Nguyễn Công Trứ được mến mộ, được truyền tụng như một châm ngôn về hoài bão công danh:

"Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh gì với núi sông"

Với kẻ sĩ đi thi, "phải có danh" trước hết là đỗ đạt, được ghi tên vào bảng vàng bia đá, được vinh quy bái tổ "võng anh đi trước, võng nàng theo sau". "Phải có danh gì với núi sông" là có tài năng đích thực, giúp vua, giúp nước, cứu đời, cứu dân. Có danh là có tài kinh bang tế thế, trị loạn, an dân, làm cho dân giàu nước mạnh. Kẻ tầm thường không có danh mà chỉ có lợi. Kẻ sĩ chàn chính, có tài năng, có lẽ sống, có hoài bão trang trải nợ cầm thư, nợ tang bồng ... mới có đanh tiếng, danh vọng, để lại tiếng thơm cho đời, lưu danh trong sử sách, làm rạng rỡ mẹ cha, dòng họ và quê hương. Trong xã hội phóng kiến, có đi thi đỗ đạt, đổ cử nhân, tiến sĩ mới được ra làm quan để giúp nước, cứu đời, để "có danh" với thiên hạ:

"Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ,

Lưn đắc đan tâm chiếu hãn thanh"

(Chí anh hùng)

Với Nguyễn Công Trứ, công danh luôn luôn gắn liền với đạo làm con, đạo làm tôi:

"Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái — Cái công danh là cái nợ nần — Nặng nề thay hai chữ: quân thân — Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ! " (Trên vì nước, dưới vì nhà). Với Nguyễn Công Trứ, người quân tử, đấng trượng phu, trang nam nhi là phải "có danh", bởi lẽ:

"Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn ...

Trong vũ trụ đã đành phận sự

Phải có danh mà đối với núi sông ...

Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,

Không công danh thời nát với cỏ cây ..."

Nguyễn Công Trứ là một tài năng đích thực: "Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông – ... Lúc Bình Tây, cờ Đại tướng – Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên ..."

Chính ông đã di dân, khẩn hoang, lập ra 2 huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Như vậy, Nguyễn Công Trứ là một con người có công danh: ông đã sống một đời sống phong phú, mãnh liệt như câu thơ ông đã viết. Chẳng thế mà năm 1858, Pháp nổ súng xâm lược nước ta đánh vào bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, lúc bấy giờ Nguyễn Công Trứ đã 80 tuổi vẫn xin vuạ Tự Đức cho cầm quân ra trận đánh giặc. Mặc dù chữ "danh" trong quan niệm của Nguyễn Công Trứ mang ý thức hệ phong kiến nhưng khá tích cực, còn có nhiều ý nghĩa đối với chúng ta trong việc nỗ lực học tập thành tài để phục vụ sự nghiệp đổi mới, phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hai câu kết thể hiện khẩu khí của một con người giàu tài năng, rất tự tin, luôn luôn hướng về phía trước với tất cả tinh thần lạc quan mà lý tưởng cuộc đời đã lựa chọn:

“Trong cuộc trần ai ai dễ biết

Rồi ra mới biết mặt anh hùng”

Câu cuối có văn bản khác ghi là: “Rồi ra mớitỏmặt anh hùng”. Có lẽ chữ “tỏ” đúng hơn, hay hơn. “Tỏ” là sáng tỏ, là hiện lên rõ ràng. Chữ “tỏ” mới thể hiện được niềm tự hào của con người “đi thi tự vịnh”. Hai chữ “ai” dùng rất thần tình. “Trần ai” là bụi bậm, chỉ cuộc đời gian nan khổ sở. Chữ “ai” trong “ai dễ biết” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, là các sĩ tử đang cùng tác giả vác lều chõng đi thi, là mọi người trong thiên hạ. Câu thơ ẩn chứa một sự thách thức, đua tài. Xưa nay, đã mấy ai trước lúc đi thi dám nói bằng cái giọng điệu như nhà thơ Nguyễn Công Trứ?

Bài thơ “Đi thi tự vịnh” là bức chân dung tự họa của Nguyễn Công Trứ thời hàn vi, lều chõng. Bài thơ cho ta thấy một con người có tài năng, giàu chí khí,có lí tưởng và hoài bão đẹp về công danh, tự tin và lạc quan trong học tập và thi cử.Con người ấy đáng để ta học tập.

Thi cử là chuyện muôn đời của sĩ tử, của học trò. Có thi là có đỗ, có hỏng. Có nhà thơ “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy!” (Tú Xương). Có cụ Tam nguyên Yên Đổ: “Cưỡi đầu người kể đã ba phen” (Di chúc)

Bài thơ hay ở giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng: hay ở cách dùng từ. Có chữ thuần Nôm bình dị:há lẽ, rắp, dở, ai dễ biết, rồi ra...Có từ Hán Việt gợi tả sự trang trọng, tự hào:cầm thư, điền viên, tuế nguyệt, thân thế, tang bồng, danh, trần ai, anh hùng,..

Đối với học sinh chúng ta, sức hấp dẫn của bài thơ là ở 2 câu trongphần luận, đó là 2 câu thơ tuyệt cú sáng bừng lên như một câu danh ngôn:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông.”

“Núi sông” là đất nước, ngày nay là Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần có nhiều tài năng lỗi lạc “có danh” và làm nên sự nghiệp lớn “đào núi và lấp biển” như Bác Hồ đã dạy thanh niên.