So sánh tây tiến với tràng giang

[123doc] - phan-tich-nhan-vat-robinson-crusoe-trong-tac-pham-cuoc-doi-va-nhung-chuyen-phieu-luu-cua-robinson-crusoe-daniel-defoe

Preview text

TRÀNG GIANG

Huy Cận

I KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

  1. Huy Cận là nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại, là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới 1932-1945. Huy Cận là một trí thức Tây học song lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho học. Thơ ông vừa phảng phất màu sắc Đương thi cổ điển, vừa mang hình ảnh con người cá nhân ảo não, cô đơn của văn học lãng mạn.
  2. Tràng Giang là một trong những kiệt tác của thi ca hiện đại, của Thơ Mới, cũng là tp tbieu nhất cho hồn thơ Huy Cận trước 1945, in trong tập Lửa thiêng (1940). Thông qua bức tranh thiên nhiên và thấp thoáng đâu đó hình ảnh của cuộc sống con người trong một buổi chiều buồn ở một vùng bến bãi sông nước mênh mông được thể hiện bằng mọt bút pháp nghệ thuật vừa cổ kính vừa hiện đại..., nhà thơ đã thể hiện nỗi buồn ảo não cô đơn của mình trước cuộc đời, tự nhiên và vũ trụ, cũng kín đáo bộc lộ tình yêu với quê hương, đất nước.

Nhan đề bài thơ là Tràng giang (cũng có nghĩa là Trường giang) nghĩa là sông dài. Nhưng căn cứ vào hình tượng trong bài thơ, theo Xuân Diệu, đó không chỉ là sông dài, mà còn là sông rộng. Vần “ang” điệp lại trong nhan đề vừa mở ra một bề dài rộng mênh mang cho dòng sông, vừa tạo dư ba cho nỗi buồn bâng khuâng, man mác trong tâm hồn thi nhân. Hai chữ tràng giang đều là tiếng Hán cổ, kết hợp với những yếu tố văn hóa trong Đường thi đã đem đến sắc thái cổ kính cho dòng sông khiến cho dòng sông không chỉ được gợi ra trong bề dài rộng mênh mang của không gian mà còn tạo ra ấn tượng về một dòng sông trôi chảy tự ngàn xưa cho đến hôm nay, trog dòng thời gian xa xăm, miên viễn của Đường thi.

Lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã xác định cảm hứng chủ đạo của bài thơ và cũng làm đậm hơn nét riêng đặc sắc của hồn thơ Huy Cận trước 1945: nỗi khắc khoải của cái tôi ảo não cô đơn trước cái bao la không cùng của thiên nhiên, vũ trụ... Bốn khổ thơ trong Tràng giang đều là sự cụ thể hóa cảm hứng chủ đạo ấy trong những sắc thái khác nhau của cảnh và tình

II TÌM HIỂU BÀI THƠ

  1. Khổ 1

Cảm hứng về Tràng giang được thể hiện trong một không gian chủ yếu mở rộng và trải dài trên một vùng bến bãi bờ sông. Đây là nguyên nhân khiến cả bốn câu thơ câu nào cũng dập dềnh sóng nước.

  1. Câu mở đầu miêu tả sóng nước tràng giang trong sự liên tưởng đến tâm trạng con người.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Câu thơ ngắt thành hai vế theo nhịp 4/3 cổ điển. Vế đầu là hình ảnh tràng giang mênh mang trong sự tương phản với những gợn sóng nhẹ nhàng, trải dài tít tắp, những gợn sóng nhẹ mà miên man, vô hồn, vô hạn. Từ gợn không chỉ gợi hình mà còn gợi tính- vừa là những gợn sóng nhỏ nhoi vô cùng giữa mênh mông tràng giang, vừa như gợi sự tĩnh lặng êm đềm của dòng sông đang lặng lẽ trôi xuôi. Một chút vắng lặng và hoang sơ đầu tiên đã thấp thoáng hiện trong tứ thơ. Vế sau là một hình ảnh tâm trạng trong một tương quan so sánh với vế đầu. Điệp điệp là lặp đi lặp lại như không bao giờ dứt. Có thể hiểu đây là hình ảnh những lớp sóng tràng giang miên man nối tiếp, gợi sự đơn điệu, nhàm chán; và cũng có thể hiểu đây là ẩn dụ cho tâm trạng- những dư ba của dòng sông gợi những xao xuyến trong lòng người; nghệ thuật ẩn dụ đã khiến sóng sông hòa với sóng lòng, những gợn sóng trên sông triền miên, vô tận như hữu hình hóa những gợn buồn trong lòng người, nhẹ nhàng mà mênh mang không dứt... Cách hiểu này cũng có thể gợi nhớ một hình ảnh so sánh trong ca dao “ sóng bao nhiêu gợn dạ em sầu bấy nhiêu”. Nhưng nếu câu ca dao so sánh nỗi buồn về sóng nước để nhấn mạnh tương quan về số lượng ( bao nhiêu- bấy nhiêu) thì câu thơ của Huy Cận lại chủ yếu nhấn mạnh tương quan về sắc thái: sóng gợn mênh mang vô tận cũng như nỗi buồn điệp điệp triền miên, da diết khôn nguôi...

  1. Câu thơ sau là hình ảnh con thuyền giữa mênh mang sông nước

Con thuyền xuôi mái nước song song

Câu thơ vẽ ra một cái đẹp hài hòa, đăng đối rất quen thuộc với quan niệm thẩm mĩ phương Đông, vẻ đẹp thường đem đến cho con người cảm giác thanh thản và bình ổn. Sự hài hòa, đăng đối không chỉ thể hiện qua những chi tiết tạo hình khi Huy Cận vẽ ra hình ảnh con thuyền trôi xuôi, song song với hai bờ tràng giang tạo ra nét hài hòa êm ả với dòng sông mà còn bộc lộ tinh tế qua nghệ thuật đối của vế cuối câu 1 và câu 2; buồn điệp điệp/nước song song. Bức tranh thơ được phác họa qua một vài nét đăng đối cổ điển nhưng lại không có cái ung dung tự tại của tâm thế cổ điển – hình tượng thơ vẫn tỏa ra cai nỗi buồn ảo não của thi nhân lãng mạn. Bức tranh thơ đẹp nhưng thật buồn vì hình ảnh con thuyền xuôi mái đem lại cảm giác như con thuyền mặc sức chảy trôi giữa mênh mang vô định, không người chèo lái; còn buồn hơn vì thế song song giữa thuyền và nước gợi lên sự xa cách chia lìa vĩnh viễn, không gặp gỡ, không giao cảm. Vậy là dòng sông tuy có thêm hình ảnh con thuyền mà vẫn lạnh lẽo, hoang vắng, thậm chí còn buồn hơn vì con thuyền nhắc tới cảm giác thiếu vắng hình bóng con người. Vậy là câu 2

Bức tranh Tràng giang đã có thêm hình ảnh của bầu trời và mặt đất cùng bề dài rộng của dòng sông, không gian đã được mở thêm ra nhiều chiều, sâu thẳm, cao vời vợi và vẫn rợn ngợp, mênh mang...

  1. Câu thơ đầu tiên là một nét chấm phá về những cồn nhỏ trên dòng sông

Lơ thơ cồn cỏ, gió đìu hiu

Từ láy lơ thơ vừa gợi hình ảnh những doi đất nhỏ nhoi giữa mênh mông, hoang vắng tràng giang, cũng vừa miêu tả những cây cối thưa thớt khẽ xao động trong gió xuân hiu hắt. Cảm giác thiếu vắng sự sống xuất hiện từ khổ thơ đầu tiếp tục đậm hơn trong sự vắng lặng khi ngọn gió buồn chỉ làm cây cối lơ thơ trên cồn đất giữa tràng giang khẽ khàng, phơ phất... giữa sóng nước mênh mông, cùng với con thuyền xuôi mái, cành củi lạc loài, hình ảnh của lơ thơ cồn nhỏ càng khiến bức tranh thiên nhiên thêm hoang vắng, lạnh buồn. Vế sau của câu thơ miêu tả sắc gió đìu hiu. Nhưng từ láy đìu hiu có lẽ không chỉ nhằm miêu tả cái hiu nhẹ của gió mà chủ yếu gợi tả không gian mà ngọn gió đi qua- mọt không gian tiêu điều, tàn tạ, vắng buồn...

  1. Câu thơ thứ hai xuất hiện một âm thanh mơ hồ

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Cấu trúc thơ đem đến nhiều cách hiểu. Nếu coi đây là một câu phủ định, đâu được hiểu là không có, đâu có..., nhà thơ sẽ đem đến cảm giác: giữa không gian hoang vắng, hiu quạnh, lạnh buồn, nhân vật trữ tình khao khát lắng nghe những âm thanh thân thiết, những tiếng vọng ấm áp của cuộc đời, nhưng đâu tìm thấy. Tất cả chỉ là sự im vắng mênh mông..òn nếu hiểu đâu là một danh từ chỉ hướng, chỉ một không gian không xác định, đâu là đâu đó..., thì câu thơ có âm thanh, nhưng vẫn không thể bớt buồn vắng. Bởi đó là những âm thanh mơ hồ đâu đó lại bị đẩy về một làng xa, lại nhuốm phủ nỗi buồn của cảnh chợ chiều khi đã vãn. Câu thơ miêu tả âm thanh mà lại làm rõ hơn sự tĩnh lặng trong một hoàng hôn buồn thảm, lại vừa thể hiện sâu sắc tâm hồn nhân vật trữ tình: buồn bã, cô đơn, khao khát lắng nghe những tiếng vọng ấm áp của cuộc đời. Và cách hiểu nào cũng cho thấy ước muốn của nhà thơ là bất lực khi hoặc không hề có âm thanh, hoặc những âm thanh quá xa xôi, mơ hồ...

  1. Trong hai câu thơ sau, không gian đột ngột được mở rộng và đẩy cao ra nhiều chiều với hình ảnh của nắng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng... Theo hướng mở rộng ấy của không gian, nỗi sầu của nhân vật trữ tình cũng lan tỏa đến vô cùng

Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót

Sông dài, trời rông, bến cô liêu

Nếu thuyền về- nước lại là sự di chuyển theo chiều ngang, mở ra cái mênh mang tĩnh lặng của dòng sông thì nắng xuống- trời lên lại là sự di chuyển theo chiều dọc, tạo ra một khoảng không cao vời vợi, sâu thăm thẳm của cả đất trời sông nước... Nắng đỏ xuống và vòm trời như được nâng cao, những cụm từ sâu chót vót không dừng lại trong việc miêu tả độ cao của bầu trời mà còn gợi ra cả độ sâu hun hút, không cùng của đáy vũ trụ, làm tăng thêm cảm giác rợn ngợp cho con người. Cũng có thể từ sâu xuất hiện trong trường liên tưởng của thi nhân khi ông nhìn thấy ánh phản chiếu của bầu trời xuống đáy nước- cách hiểu này đem lại vẻ đẹp trong sáng, mĩ lệ cho dòng sông đồng thời mở ra một không gian ba chiều với cái mênh mang của tràng giang, cái vời vợi của bầu trời, cái thẳm sâu của đáy nước...Đối xứng với sự thẳm sâu của đất trời là cái mênh mang của sông nước. Hình ảnh sông dài- trời rông trong câu 4 lại miêu tả sự vận động khác: sông trải dài tít tắp, trời mở rộng bao la, cả một vũ trụ thăm thẳm vô biên đang lặng lẽ vận động trong một không gian đa chiều, và chính sự hùng vĩ, sâu thẳm, mênh mông của đất trời sông nước khiến bến sông trở thành bến cô liêu hoang vắng, quạnh hiu, đơn độc..ình thức đối trong cổ thi được sử dụng linh hoạt trong hai câu thơ tạo nên sự hài hòa về hình ảnh và nhịp điệu khiến hình tượng thơ đẹp và buồn. Biện pháp tương phản của cảm hứng lãng mạn lại một lần nữa làm đậm thêm những khoảnh khắc về không gian trong hồn thơ Huy Cận.

Trong khổ 2 của bài thơ bức tranh tràng giang đã có thêm hình ảnh của bầu trời và mặt đất, và thấp thoáng cả hình bóng con người, nhưng cảm giác cô đơn vẫn không giảm bớt, thậm chí còn tăng thêm bởi cảm giác lạnh vắng và nỗi chới với, rợn ngợp của con người khi đối diện với cái hun hút, thăm thẳm không cùng của vũ trụ. Cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế của cái tôi ảo não bởi sự nhỏ bé, cô đơn vẫn bao trùm trong hồn thơ Huy Cận.

  1. Khổ 3: Bức tranh Tràng giang đã trở lại với hình ảnh của dòng ông bến bãi.

3.1ông bắt đầu bằng những câu thơ miêu tả như khổ 1 và 2, mở đầu khổ 3 là một câu hỏi băn khoăn nhuốm chút ngậm ngùi, buồn bã:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Hình ảnh những cánh bèo dập dềnh trôi nổi trên sóng nước vốn là một ước lệ nghệ thuật quen thuộc cho những kiếp đời trôi dạt. Cụm từ nghi vấn bèo dạt về đâu không chỉ miêu tả những cánh bèo nổi trôi trên mênh mang tràng giang mà còn gợi ánh mắt buồn bã trông về phương trời xa xăm bởi về đâu là cụm từ nhấn mạnh sự vô định, vô hướng: giữa mênh mông tràng giang, những cánh bèo nhỏ nhoi, ngơ ngác-giữa cuộc đời rộng lớn, con người biết đi đâu, về đâu? Phép điệp từ trong vế sau hàng nối hàng không chỉ miêu tả hình ảnh những cụm bèo nối nhau trôi dạt trên tràng giang mà còn đem lại cảm giác về sự nhàm chán, đơn điệu, buồn tẻ như muôn đời không đổi. Trong Thơ duyên, Xuân Diệu cũng có một tứ thơ dường như gần gũi “mây biếc về đâu, bay gấp gấp?”; nhưng sắc thái ý nghĩa thì lại thật khác nhau: Đám mây biếc của Xuân Diệu đầy sức sống, gấp gáp sống, hối hả cho kịp với bước đi của thời gian trời chiều, trong khi cụm

gợi tả vẻ đẹp trong sáng, kỳ vĩ, trang lệ của thiên nhiên khi mây ngời lên sắc bạc lấp lánh trong ánh hoàng hôn cuối ngày. Bức tranh hoàng hôn tuy đẹp nhưng vẫn buồn vì những từ điệp lớp lớp, động từ đùn... gợi cảnh mây tuôn chồng chất, không gian cao và rộng đến rợn ngợp trong sự đối lập với con người nhỏ bé, cô đơn...

  1. câu thơ thứ 2 miêu tả một cánh chim giữa khoảng không mênh mông của bầu trời:

Chim nghiêng cánh nhỏ:bóng chiều sa.

Nếu trên mặt tràng giang là hình ảnh của một cành củi khô lạc loài, gầy guộc, bến cô liêu vắng buồn hiu hắt, những cụm bèo trôi nổi, dập dềnh ..ì giữa cảnh hùng vĩ của vũ trụ lại hiện ra một cánh chim thật bé bỏng, đơn côi. Cánh chim đã nhỏ giữa bầu trời với lớp lớp mây cao, dáng chao nghiêng khiến nó càng nhỏ bé hơn trong cái hùng vĩ mênh mông của trời đất. Câu thơ đem đến nhiều cách hiểu: Trong thơ cổ, hình ảnh cánh chim về tổ cuối chiều là một ước lệ nghệ thuật, là tín hiệu của hoàng hôn. Nhưng trong tứ thơ của Huy Cận, cánh chim nhỏ bé còn là hình ảnh của cái tôi cá nhân cô đơn của cảm hứng lãng mạn. Nếu liên tưởng đến những hình tượng “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” (Phạm Ngọc Cảnh) hoặc “ve kêu rừng phách đổ vàng” (Tố Hữu), có thể cảm nhận sau cái nghiêng của cánh chim, hoàng hôn như rùng mình buông xuống; như vậy, cánh chim không chỉ là tín hiệu của hoàng hôn mà còn có sức làm xao xuyến cả hoàng hôn. Cũng có thể hiểu theo sự liên tưởng tương đồng của hai vế câu thơ: không gian của buổi chiều, của trời đất như đè nặng lên cánh chim chiều khiến cánh chim nhỏ bé như phải đựng cả ráng chiều và trong dáng chao nghiêng, nó tựa như một tia nắng sa xuống giữa hoàng hôn. Cánh chim chở nặng bóng chiều và mất hút trong khoảng không vũ trụ. Hai câu thơ đã lấy động tả tĩnh, lấy sự chuyển động của mây trời và cánh chim chiều để gợi ra cái tĩnh vắng đượm buồn của thiên nhiên; lấy cái hữu hạn của cánh chim lẻ bầy nhỏ nhoi để nhân lên cái vô hạn không cùng của vũ trụ...

4.3ình ảnh sóng nước trong khổ đầu lại trỏ về:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Nếu nói sóng nước trong khổ đầu chỉ là những gợn buồn nối tiếp giữa tràng giang thì trong câu thơ này, đó là những con nước lớn. Từ láy dợn dợn gợi tả trạng thái những con sóng dập dềnh lên xuống, khi nổi, khi chìm, từ đó diễn tả sự rợn ngợp của lòng người giữa sóng nước tràng giang. Vời là ánh mắt nhìn về phương xa, ánh mắt mải miết dõi theo nhưng con sóng nhấp nhô, gối đầu lên nhau, miên man, tít tắp... Nỗi buồn nhớ về một miền quê thân yêu, ấm áp đã xuất hiện trong ánh mắt ấy như một lẽ đương nhiên khi con người khao khát sự giao cảm, khao khát ấy. Giống như một lẽ đương nhiên khi con người khao khát tình đời, tình người và cũng hoàn toàn vô vọng trong niềm khao khát ấy. Giống như ngày xưa, nàng Kiều của Nguyễn Du cũng đăm đắm hướng về thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa trong nỗi cô đơn, buồn nhớ quê hương.

4 Tấm lòng quê đã được thể hiện sâu đậm hơn bởi một tứ thơ cổ điển:

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Thôi Hiệu xưa nhớ nhà vì một sắc hoàng hôn:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Nghĩa là: trong hoàng hôn, quê hương không biết ở nơi nào-khói sông trên sông khiến cho người buồn. Mượn tứ thơ Thôi Hiệu cho câu kết của Tràng giang, Huy Cận đã mang đến một phong vị Đường thi cổ điển làm xao xuyến cả câu thơ lãng mạn của thi sĩ Việt Nam thời Thơ Mới. Bởi dù có phủ định không khói hoàng hôn, tạo dư ba cho nỗi nhớ bâng khuâng trong lòng thi si. Nhưng nếu trong thơ Thôi Hiệu, nỗi sầu nhớ quê hương bắt nguồn từ một chút khói hoàng hôn, cũng có nghĩa là ít nhiều chịu tác động của ngoại cảnh thì cấu trúc phủ định “không..ũng”, câu thơ những năm 32-45 của Huy Cận đã đem đến một cảm nhận khác hẳn. Bài thơ viết về một buổi chiều buồn ở một vùng sông nước nên không thể nói không có khói hoàng hôn. Vậy ý phủ định trong câu kết có lẽ chỉ như lời phân trần của thi sĩ: nỗi buồn cô đơn, nhớ hương không phải do hoàng hôn, , không phải vì những tác động của ngoại cảnh- nỗi buồn của những người dân đang sống trên đất nước mình mà vẫn nhớ nhà, vẫn thấy như thiếu vắng quê hương, và thực chất đó là nỗi buồn sâu xa, thấm thía của những người dân mất nước. Nỗi buồn của thi nhân lãng mạn trước cảnh sông nước tràng giang đã kín đáo hòa quyện với lòng yêu quê hương đất nước.

III KẾT LUẬN

Tràng giang là một bài thơ mang phong vị cổ điển nhưng lại hướng tới sự biểu hiện cái tôi ảo não cô đơn của thi sĩ lãng mạn. Bài thơ vừa thể hiện nỗi khắc khoải quen thuộc của Huy Cận về sự bé nhỏ cô đơn, vô nghĩa của con người, kiếp người trước cái mênh mông rộng lớn vô cùng tận của thiên nhiên, vũ trụ, vừa thấm thía một niềm khát khao giao cảm, khát khao tình người, tình đời, và kín đáo bộc lộ tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước.