Việt nam hội nhập quốc tế năm nào năm 2024

Về ngữ nghĩa, “hội nhập” có nguồn gốc từ “liên kết” (integration) với nghĩa chung nhất là hành động hoặc quá trình gắn kết các phần tử riêng rẽ với nhau; hợp chung các bộ phận vào một chỉnh thể (nhất thể, hợp nhất) và kết hợp các thành tố khác nhau lại (tụ hội, tụ nhóm).

Xét theo nghĩa đó, có thể thấy, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quá trình hội nhập quốc tế đã phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực; diễn ra trên nhiều cấp độ: song phương, tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu; thu hút hầu hết các nước trên thế giới. Mức độ hội nhập cũng ngày một sâu sắc và toàn diện hơn.

Ở cấp độ toàn cầu, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc đã ra đời với số lượng thành viên bao quát hầu hết các nước trên thế giới. Kể từ năm 1995 tiến trình hội nhập về kinh tế, thương mại cũng dần dần được thúc đẩy với việc ra đời của Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT), sau đó được nối tiếp bằng Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đến nay, WTO đã phát triển hệ thống “luật chơi” bao quát hầu hết các lĩnh vực trong quan hệ kinh tế giữa các thành viên và trở thành nền tảng của các thỏa thuận kinh tế khu vực khác trên thế giới.

Ở cấp độ khu vực, quá trình hội nhập bắt đầu từ những thập niên 50 thế kỷ XX và đặc biệt bùng nổ từ thập niên 90 đến nay. Hàng loạt tổ chức khu vực đã ra đời trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Tính đến tháng 5-2012, có 511 thỏa thuận mậu dịch khu vực (RTAs) đã được thông báo cho WTO(1). Bên cạnh đó, hàng trăm RTAs đang trong quá trình đàm phán. Đặc biệt, tiến trình hội nhập toàn diện trong Liên minh châu Âu (EU) đã đạt đến mức cao, biến tổ chức này trở thành một thực thể siêu quốc gia. Các nước trong Cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng đang tiến hành mở rộng và làm sâu sắc tiến trình hội nhập khu vực một cách toàn diện hơn thông qua xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột: Cộng đồng chính trị - an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa - xã hội.

Bên cạnh đó, quá trình hội nhập còn được điều tiết bởi các hiệp định liên kết song phương, dưới dạng hiệp ước liên minh (chính trị, an ninh, quốc phòng), hiệp định đối tác chiến lược, hiệp định kinh tế - thương mại,... Từ cuối thập niên 90 đến nay, xu hướng ký kết các hiệp định song phương (FTA) phát triển đặc biệt mạnh. Hầu hết các nước đều đã ký hoặc đang trong quá trình đàm phán các FTA song phương. Có nước đã ký hoặc đàm phán tới hàng chục hiệp định FTA song phương, như Xin-ga-po, Thái Lan, Nhật Bản, Ố-xtrây-li-a,....

Về mặt lý luận, có nhiều cách tiếp cận về hội nhập quốc tế. Các lý thuyết về hội nhập được phát triển ban đầu chủ yếu để giải thích quá trình hội nhập của các nước châu Âu, do đây là khu vực bắt đầu hội nhập rất sớm. Lý thuyết về hội nhập kinh tế cho rằng, hội nhập kinh tế là quá trình gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau; và lập luận rằng, các thị trường chung siêu quốc gia với việc di chuyển tự do các nhân tố kinh tế giữa các nước sẽ tạo ra nhu cầu tự nhiên phải hội nhập sâu hơn, không chỉ về kinh tế, mà còn cả chính trị(2).

Các lý thuyết chính trị quốc tế cũng có một số cách tiếp cận về hội nhập quốc tế. Nhưng tựu trung, từ thực tiễn và lý luận về hội nhập quốc tế trên thế giới, có thể khái quát một số điểm chung nổi bật như sau:

Thứ nhất, hội nhập quốc tế bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, nhưng không giới hạn ở đó, mà có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực. Thực tiễn trên thế giới cho thấy, quá trình hội nhập đã và đang diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị, quốc phòng - an ninh, văn hóa - xã hội và các lĩnh vực khác. Về lý luận, từ quan điểm biện chứng mác-xít, quốc tế hóa đời sống kinh tế sẽ dẫn tới quốc tế hóa đời sống trên các mặt khác, hình thành nên những chuẩn mực chung trong đời sống quốc tế trên mọi lĩnh vực.

Thứ hai, hội nhập quốc tế là quá trình không có giới hạn về thời gian. Điều đó có nghĩa hội nhập quốc tế là một quá trình liên tục trong quan hệ hợp tác giữa các nước, có thể đi từ thấp đến cao, từ trạng thái này đến trạng thái khác. Không có quốc gia nào có thể tuyên bố là đã “hoàn thành hội nhập”. Các nước châu Âu là những nước đi đầu trong hội nhập quốc tế, hiện nay vẫn tiếp tục quá trình hội nhập.

Thứ ba, hội nhập quốc tế không chỉ diễn ra thông qua việc tham gia các cơ chế hợp tác đa phương mà còn trên nhiều bình diện. Về bản chất, hợp tác song phương, nếu dựa trên cơ sở các luật lệ và chuẩn mực chung thì cũng có đầy đủ tính chất của hội nhập quốc tế. Thậm chí, một số xu hướng phân tích gần đây còn mở rộng khái niệm hội nhập sang cả cấp độ quốc gia, tức là quá trình hội nhập bên trong của mỗi nước(3). Tuy nhiên, hội nhập bên trong nên được coi là một trong những “yếu tố nền tảng” với các chính sách đối nội và những biện pháp mà các nước tiến hành để thực hiện hội nhập quốc tế.

Thứ tư, bản chất của hội nhập quốc tế là quá trình xây dựng và áp dụng các luật lệ và chuẩn mực chung. Đây chính là đặc điểm phân biệt hội nhập quốc tế với các hoạt động hợp tác quốc tế khác, như trao đổi, tham vấn, phối hợp chính sách,... Nói cách khác, hội nhập là một hình thức hợp tác quốc tế ở trình độ cao, gắn với luật lệ và chuẩn mực chung giữa các nước.

Hội nhập quốc tế ở Việt Nam

Có thể nói quá trình hội nhập chính trị của nước ta thực tế đã bắt đầu từ khi Việt Nam trở thành thành viên Liên hợp quốc từ năm 1976. Thời điểm Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế có thể được tính khi nước ta gia nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (năm 1978), mặc dù các chuẩn mực và nguyên tắc hợp tác có nhiều khác biệt so với các cơ chế hợp tác quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, quá trình phát triển tư duy của Đảng ta về hội nhập quốc tế thực chất chỉ bắt đầu cùng với sự nghiệp đổi mới được Đại hội VI (năm 1986) khởi xướng.

Đại hội VI của Đảng nhận định: “Một đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa các lực lượng sản xuất”(4). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua năm 1991 khẳng định “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới là một thời cơ để phát triển”(5). Như vậy, cho đến Đại hội VII, khái niệm hội nhập chưa xuất hiện, nhưng nhận thức của Đảng ta về quá trình quốc tế hóa là các tiền đề quan trọng để phát triển tư duy về hội nhập quốc tế. Trong thời kỳ này, trên thực tế, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã bắt đầu diễn ra với việc Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) vào tháng 10-1993.

Thuật ngữ hội nhập bắt đầu được đề cập lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (năm 1996): “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”(6). Trước khi khái niệm “hội nhập” được sử dụng chính thức, ở nước ta đã có một số thử nghiệm về ngôn ngữ liên quan tới khái niệm này. Lúc đầu là khái niệm “nhất thể hóa” được sử dụng, sau đó là khái niệm “hòa nhập”. Hai khái niệm này tuy thể hiện khá chính xác nội hàm, nhưng gây lo ngại về mất bản sắc và độc lập, do đó thuật ngữ “hội nhập” được sử dụng và trở thành khái niệm chính thức trong văn kiện của Đảng.

Chính trong giai đoạn này, hội nhập quốc tế của nước ta đã chính thức bắt đầu với việc gia nhập ASEAN (năm 1995), ký Hiệp định hợp tác khung Việt Nam - Ủy ban châu Âu dựa theo các chuẩn mực quốc tế (năm 1995), gia nhập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, và Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998. Cũng trong giai đoạn này, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO (năm 1995), tuy quá trình đàm phán còn chậm và chưa được thúc đẩy mạnh mẽ.

Đến Đại hội IX (năm 2001), chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được nhấn mạnh: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”(7). Tuy nhiên, quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện cụ thể nhất trong Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX (năm 2001) về hội nhập kinh tế quốc tế(8).

Giai đoạn này, hội nhập quốc tế của nước ta đã bắt đầu đi vào chiều sâu với việc ký kết Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ năm 2001, đẩy nhanh đàm phán gia nhập WTO, thực hiện AFTA,...

Đại hội X (năm 2006) tái khẳng định chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và nêu định hướng “đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”(9). Với định hướng này, hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội được đẩy mạnh, nhất là trong khuôn khổ các cơ chế hợp tác của ASEAN và do ASEAN làm chủ đạo. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã có thêm một bước phát triển tư duy quan trọng với việc chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(10), tức là mở rộng phạm vi, lĩnh vực và tính chất của hội nhập.

Giai đoạn giữa Đại hội X và Đại hội XI có những thay đổi về chất trong hội nhập quốc tế với đỉnh cao là việc nước ta chính thức trở thành thành viên của WTO (năm 2007). Những năm sau đó, Việt Nam ký kết nhiều FTA song phương và khu vực, như Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản (JVEPA) năm 2008; Hiệp định khung về Đối tác và hợp tác toàn diện với EU (PCA) năm 2010; FTA với Chi-lê; FTA của ASEAN với các đối tác; bắt đầu đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) năm 2010. Cũng trong giai đoạn này, hợp tác quốc phòng - an ninh được mở rộng với việc tham gia một số cơ chế đối thoại về quốc phòng, như ADMM, ADMM+. Các bộ, ngành chức năng cũng đã tích cực mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực chuyên ngành, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các tổ chức quốc tế và khu vực.

Tóm lại, từ năm 1986, cùng với quá trình đổi mới và mở rộng hợp tác với bên ngoài, tư duy của Đảng ta về hội nhập quốc tế đã liên tục phát triển, các hoạt động hội nhập quốc tế, với hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, cũng liên tục phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Có thể tổng hợp một số nét lớn như sau:

Thứ nhất, hội nhập quốc tế gắn liền với quá trình gia nhập các tổ chức quốc tế, tức là chấp nhận các luật lệ và chuẩn mực quốc tế chung. Điều này xuất phát từ thực tế là nước ta bị bao vây, cô lập, phải chủ động bình thường hóa quan hệ và gia nhập các tổ chức quốc tế. Cũng vì vậy, hội nhập quốc tế được nhìn nhận thiên về quá trình đàm phán gia nhập các tổ chức quốc tế, chấp nhận “luật chơi” quốc tế.

Thứ hai, hội nhập quốc tế cũng được diễn ra trong quan hệ song phương. Ngoài các cấp độ đa phương, các văn kiện của Đảng cũng coi hợp tác song phương theo chuẩn mực chung là một phần của hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 07-NQ/TW đã coi việc ký kết Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ là một nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiều văn kiện của Đảng nhấn mạnh các nội dung có tính chất hội nhập bên trong của nền kinh tế như biện pháp thực hiện hội nhập quốc tế. Trên thực tế, phần lớn các điều khoản của Hiệp định Thương mại với Hoa kỳ được xây dựng trên các quy định của WTO.

Thứ ba, hội nhập quốc tế khởi đầu đặt trọng tâm trong lĩnh vực kinh tế và sau đó mở rộng sang các lĩnh vực khác. Trên thực tế, hội nhập quốc tế ở nước ta đã diễn ra trên nhiều lĩnh vực. Trong giai đoạn đầu, các văn kiện của Đảng chỉ đề cập đến hội nhập kinh tế do đây là lĩnh vực trọng tâm. Đến các đại hội Đảng gần đây, hội nhập trong các lĩnh vực khác đã được định hướng ngày càng rõ hơn, xuất phát từ thực tế là hội nhập kinh tế đã tạo cơ sở để Việt Nam mở rộng hội nhập trên các lĩnh vực khác và hội nhập trên các lĩnh vực khác càng củng cố mức độ hội nhập kinh tế của nước ta.

Khái niệm và nội hàm của hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Những khảo sát về hội nhập trên thế giới và ở nước ta thời gian qua cho thấy có những điểm chung cả về quan niệm lẫn hành động của các chủ thể. Từ góc độ nhà nước, hội nhập quốc tế là quá trình một quốc gia tham gia các hoạt động chung của cộng đồng quốc tế theo các nguyên tắc, chuẩn mực mà cộng đồng quốc tế thừa nhận. Hội nhập quốc tế là yêu cầu có tính khách quan, theo đó các quốc gia tham gia các hoạt động của đời sống quốc tế trên hầu hết các lĩnh vực và ở các mức độ khác nhau do tác động của quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng. Nhưng việc lựa chọn lĩnh vực, mức độ và lộ trình hội nhập lại là quyết định chủ quan của từng quốc gia phù hợp với lợi ích và hoàn cảnh cụ thể mình.

Xét từ hành động của các chủ thể tham gia hội nhập, hai yếu tố quan trọng nhất là: những hoạt động chung của cộng đồng quốc tế (các sân chơi chung) và những nguyên tắc, chuẩn mực của các hoạt động chung đó (các luật chơi chung). Nếu chỉ tham gia các hoạt động chung mà không tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực chung thì chưa được gọi là hội nhập. Ví dụ, khi mới gia nhập Hiệp ước Thuế quan có hiệu lực chung trong ASEAN (CEPT), Việt Nam chưa phải tuân thủ ngay và đầy đủ các điều khoản của Hiệp ước này, do vậy Việt Nam chưa thể được xem là đã hội nhập ASEAN. Ngược lại, một quốc gia thường phải tuân thủ các “luật chơi” của cộng đồng quốc tế khi đã tham gia các “sân chơi” mà cộng đồng quốc tế thiết lập, cũng như tham gia quá trình thay đổi, điều chỉnh “luật chơi” khi hoàn cảnh đòi hỏi. Có rất ít trường hợp ngoại lệ, theo đó các quốc gia tự hội nhập, chấp nhận hoàn toàn hoặc bị áp đặt “luật chơi” dù luật đó không có lợi cho họ.

Trong hơn 25 năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã tiến khá xa trên con đường hội nhập quốc tế nhưng mức độ gắn kết mọi mặt giữa Việt Nam và cộng đồng quốc tế vẫn còn rất thấp. Nếu lấy tiêu chí của Hàn Quốc hay là Xin-ga-po để so sánh thì ở tất cả các lĩnh vực khoảng cách về hội nhập của Việt Nam so với các nước này vẫn còn rất xa. Trong phần lớn các lĩnh vực, nhất là về an ninh, quốc phòng, hội nhập của nước ta mới ở giai đoạn ban đầu.

Ít nhất trong vòng 1 thập niên tới, công việc chính trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta vẫn là thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó chủ yếu là các cam kết về thực hiện những chuẩn mực mà chúng ta đã chấp nhận khi gia nhập. Song song với quá trình này là các hoạt động cùng các nước thành viên xây dựng các chuẩn mực mới. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, nhất là hạn chế về thế và lực, mức độ tham gia của nước ta trong các hoạt động này sẽ tiếp tục ở mức thấp. Để góp phần làm rõ các nhiệm vụ phải làm trong quá trình hội nhập quốc tế, có thể hiểu thực chất hội nhập quốc tế của nước ta trong thời gian tới như sau: “Hội nhập quốc tế là hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ động chấp nhận, áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc”.

Về bản chất, có thể coi hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế là quá trình các nước giao lưu hoặc hành động cùng nhau để đạt được một mục tiêu, lợi ích nào đó. Có thể chia hợp tác quốc tế thành ba mức độ cơ bản, là: 1- Trao đổi, tham vấn; 2- Phối hợp chính sách, triển khai hoạt động phối hợp và thực hiện các dự án chung; 3- Xây dựng, áp dụng luật lệ, chuẩn mực chung. Mức độ thứ 3 là điểm trùng giữa hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế. Nói rộng ra, hội nhập quốc tế bao hàm việc chấp nhận, tham gia xây dựng và thực hiện các chuẩn mực quốc tế, bao gồm: các thể chế, luật lệ, tập quán, nguyên tắc và tiêu chuẩn chung được chấp nhận rộng rãi. Các chuẩn mực này có thể được hình thành từ quá trình hợp tác quốc tế, thông qua những hiệp định, thỏa thuận giữa các nhà nước hoặc các chuẩn mực, tập quán được đặt ra bởi các tổ chức, hiệp hội phi chính phủ được những tổ chức, cá nhân trên thế giới chấp nhận rộng rãi.

Về mục tiêu, hội nhập quốc tế cũng như các hình thức hợp tác quốc tế khác đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Các nước tham gia quá trình này cơ bản vì thấy có lợi cho đất nước. Do đó, việc tham gia phải dựa theo một số tiêu chí với mức độ và lộ trình phù hợp.

Về hình thức, hội nhập quốc tế bao gồm các hoạt động: 1-Thúc đẩy quan hệ song phương dựa trên các chuẩn mực quốc tế chung; 2- Gia nhập các tổ chức quốc tế, các cơ chế hợp tác quốc tế; 3- Xây dựng các luật lệ và chuẩn mực; 4- Thực hiện các luật lệ, chuẩn mực, các hoạt động chung ở phạm vi quốc tế và quốc gia.

Về lĩnh vực hội nhập, quá trình hội nhập diễn ra trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh, đến các lĩnh vực khác. Hội nhập trên các lĩnh vực này có mối liên hệ hữu cơ mật thiết, đan xen, tác động qua lại lẫn nhau. Thông thường, kinh tế thường là lĩnh vực đi đầu và là cơ sở vững chắc cho hội nhập trong các lĩnh vực khác. Đồng thời, hội nhập trong các lĩnh vực khác cũng tạo ra một môi trường thuận lợi cho hội nhập kinh tế.

Về chủ thể, cả nhà nước và các chủ thể phi nhà nước đều tham gia quá trình hội nhập, tạo nên một sự đan xen nhiều cấp độ, tầng nấc trong hội nhập quốc tế. Trong các lĩnh vực chính trị và quốc phòng - an ninh, chủ thể chính là nhà nước và các lực lượng chính trị. Tuy nhiên, trong kinh tế, văn hóa, xã hội và nhiều lĩnh vực khác, vai trò của các chủ thể phi nhà nước, như doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, đoàn thể và người dân là rất quan trọng./.

Xét từ nhiều góc độ, quá trình hội nhập quốc tế của nước ta đã bắt đầu từ lâu. Trong các văn kiện của Đảng ta không nêu khái niệm, nội hàm của hội nhập, nhưng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước liên quan đến hội nhập quốc tế thể hiện rõ cách tiếp cận phù hợp với xu hướng chung của khu vực và thế giới, cũng như đặc thù của nước ta. Việc thực hiện chủ trương đó đã đem lại nhiều thành tựu quan trọng.

Tuy nhiên, cho đến nay, trong các văn kiện chính thức của Đảng chưa có định nghĩa rõ về khái niệm hội nhập quốc tế, nội hàm của hội nhập trong từng lĩnh vực. Trong giới nghiên cứu và hoạch định chính sách ở nước ta cũng còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Hiện mới có một số tác giả nước ta đưa ra định nghĩa hội nhập quốc tế, song phần lớn các định nghĩa này tiếp cận hội nhập ở góc độ mục tiêu cuối cùng: xác lập vị trí trong nền chính trị, kinh tế, văn hóa toàn cầu và nền văn minh nhân loại; tăng cường sự gắn kết trên cơ sở chia sẻ lợi ích, nguồn lực.

-----

(1) WTO (2011), Regional Trade Agreements, website: www.wto.org/english/tratop_e/region_e/region_e.htm, truy cập ngày 13-5-2012

(2) Balassa, В. (1967), “Trade Creation and Trade Diversion in the European Common Market”, The Economic Journal, vol. 77, pp. 1-21

(3) Gill, I. and Kharas, H. (2007), An East Asian Renaissance: Ideas for Economic Growth, The World Bank, Washington DC

(4) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 27

(5), (6), (7) Văn kiện Đại hội đã dẫn, tr. 230, 342, 483

(8) Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27-11-2001 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, website: www.cpv.org, truy cập ngày 13-5-2012

(9) Văn kiện Đại hội đã dẫn, tr. 651

(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 236

Việt Nam bắt đầu hội nhập quốc tế từ khi nào?

Tháng 7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á); Năm 1996 là thành viên của APEC (Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương); Năm 2000, ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ; Tháng 1/2007 là thành viên chính thức của WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới) v.v... Trong ...

Hội nhập kinh tế quốc tế là gì?

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết, giao lưu, hợp tác giữa nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế quốc gia khác hay tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu thế lớn và tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới.

Việt Nam tham gia bao nhiêu tổ chức kinh tế?

Xét về mặt kinh tế, Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, ASEAN.

Việt Nam chính thức mở cửa năm bao nhiêu?

Việt Nam.