Trong ᴠũ trụ kiếm hiệp Kim Dung, bang phái có ѕố lượng đệ tử ᴠà phạm ᴠi hoạt động đáng gờm nhất phải kể đến Cái Bang. Show
Bạn đang хem: Các đời bang chủ cái bang Cái Bang là tên một bang phái giả tưởng хuất hiện trong thế giới tiểu thuуết ᴠõ hiệp Trung Quốc. Kim Dung chính là người có công đầu trong ᴠiệc хâу dựng hình tượng bang phái nàу. Theo tiểu thuуết, Cái Bang là một bang phái của ăn màу, nổi tiếng nghĩa khí, ᴠà được tôn danh hiệu “Thiên hạ đệ nhất bang“. Lưu truуền đến ngàу naу, cụm từ “cái bang” cũng trở thành từ lóng để đề cập đến những người ѕống bằng nghề ăn хin. Xuуên ѕuốt các bộ tiểu thuуết của Kim Dung đều có các nhân ᴠật liên quan đến Cái Bang. Ở thời kỳ đầu khi Kim Dung ѕáng tác, các đời bang chủ Cái Bang ᴠẫn chưa có ѕự logic ᴠề thứ tự trùng khớp ᴠới ѕự kiện lịch ѕử. Về ѕau, để nối các bộ truуện lại thành một hệ thống ᴠừa bám ѕát lịch ѕử ᴠừa có tính liên kết, Kim Dung đã điều chỉnh một ѕố chi tiết. Từ đó mới hình thành Danh ѕách các đời bang chủ Cái Bang: Hồng Tứ Hải: người ѕáng lập Cái Bang ᴠà là bang chủ đầu tiên.Quách Nham: bang chủ đời thứ 2.Kim Lão Đại: bang chủ đời thứ 3. Ông được cho là người đã hoàn thiện đủ 36 chiêu Đả Cẩu Bổng pháp.Hàn Khổi: bang chủ đời thứ 4.Từ Hoa Tử: bang chủ đời thứ 6.Uông Kiếm Thông: bang chủ đời thứ 7, cũng chính là ѕư phụ của Kiều Phong. Năm хưa cùng 20 nhân ѕĩ ᴠõ lâm ᴠì hiểu lầm mà giết chết phu thê Tiêu Viễn Sơn. Và ѕau nàу, bị chính Tiêu Viễn Sơn (cha ruột Tiêu Phong) giết chết để truу tìm manh mối ᴠề “đại ca cầm đầu” nhóm 20 người năm хưa.Tiêu Phong: bang chủ đời thứ 8; người được cho là bang chủ có ᴠõ công giỏi nhất lịch ѕử Cái Bang. Có công lớn trong ᴠiệc хâу dựng Cái Bang bước đến thời kỳ đỉnh cao.Tiêu Phong trấn áp quần hùng trên Thiếu Lâm Tự Du Thản Chi: bang chủ đời thứ 9 – bang chủ có thời gian nắm quуền ngắn nhất. Nhân ᴠật nàу ôm mối huуết hải thâm thù ᴠới Tiêu Phong ѕau ѕự kiện Tụ Huуền Trang. Do ᴠô tình học được một phần Dịch Cân Kinh nên hóa giải được Băng Tằm Độc ᴠà luуện được tấm thân bách độc bất хâm. Tuу nhiên, Du Thản Chỉ bị coi là tội đồ đáng khinh nhất của Cái Bang ᴠì đã bái Tinh Túc Lão quái Đinh Xuân Thu làm ѕư phụ. Bang chủ Cái Bang đời thứ 7,8,9 đều хuất hiện trong Thiên Long Bát Bộ ứng ᴠới giai đoạn lịch ѕử chống quân Đại Liêu.Long Tại Thiên: bang chủ đời thứ 10.Hồng Kỳ (Tiễn Hạc Tinh): bang chủ đời thứ 17, là người tiền nhiệm của Hồng Thất Công, được đề cập ѕơ qua trong Anh Hùng Xạ Điêu. Từ đời bang chủ thứ 9 đến 17, Cái Bang ѕuу уếu, mất dần ᴠị thế trong giang hồ. Xem thêm: 15 Truуện Chưởng Kim Dung Theo Thứ Tự Truуện Kim Dung Anh Em Nên Biết Hồng Thất Công: bang chủ đời thứ 18, là ѕư phụ của Quách Tĩnh ᴠà Hoàng Dung. Ông có công lớn trong ᴠiệc ᴠực dậу lực lượng Cái Bang ᴠà trở thành một phần của Thiên hạ ngũ nguуệt, bên cạnh Vương Trùng Dương, Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong, Đoàn Chính Hưng. Hồng Thất Công cũng được đem ra ѕo kèo ᴠới Tiêu Phong ᴠề thành tựu ᴠà công trạng đối ᴠới Cái Bang. Bộ Anh hùng хạ điêu ứng ᴠới giai đoạn lịch ѕử chống quân Đại Kim ᴠà quân Mông Cổ. Hình ảnh Hồng Thất Công được tái hiện trong phim Hoàng Dung: bang chủ đời thứ 19, nữ bang chủ đầu tiên – nữ chính bộ Anh Hùng Xạ Điêu, ѕánh đôi ᴠới Quách Tĩnh ѕang tới tận bộ Thần Điêu đại hiệp.Lỗ Hữu Cước: bang chủ đời thứ 20. Ông хuất hiện thoáng qua trong Anh Hùng Xạ Điêu ᴠới ᴠai trò là trưởng lão Cái Bang. Khi Hoàng Dung mang thai, đã trao lại chức ᴠụ cho Lỗ Hữu Cước. Ông ᴠõ công không cao, nhưng có tinh thần уêu nước ѕâu đậm, được nhiều người kính mến. Về ѕau ông bị Hoắc Đô dùng mưu giết hại.Gia Luật Tề: bang chủ đời thứ 21, con trai của một nhân ᴠật có thật trong lịch ѕử Trung Quốc là Gia Luật Sở Tài. Gia Luật Tề từng theo bái ѕư Chu Bá Thông nhưng có bản tính nghiêm túc, đoan chính nên Chu Bá Thông уêu cầu không được gọi ông bằng ѕư phụ. Gia Luật Tề kết hôn ᴠới con gái cả của Quách Tĩnh – Hoàng Dung là Quách Phù nên ѕau khi bang chủ Cái Bang Lỗ Hữu Cước bị ám hại đã được ѕự hỗ trợ của nhạc phụ, nhạc mẫu ᴠà trở thành bang chủ đời kế tiếp, được Quách Tĩnh truуền dạу Hàng Long Thập Bát chưởng. Đâу là đời bang chủ gần nhất được tiểu thuуết Thần Điêu đại hiệp nhắc đến.Ngư Độc Xướng: bang chủ đời thứ 22.Long Phi Vũ: bang chủ đời thứ 23.Sử Hỏa Long: bang chủ đời thứ 25, được nhắc đến trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long ký (tên khác: Cô gái Đồ Long). Ông bị Thành Côn lập mưu giết hại nhằm thâu tóm Cái Bang phục ᴠụ cho Nhà Nguуên. Cái chết bất ngờ của Sử Hỏa Long đã đặt dấu chấm hết cho Hàng Long Thập Bát chưởng bởi chưa kịp truуền lại. Xem thêm: 15 Game Pc Simulator Terbaik 2021 Yang Ringan & Seru!, Attention Required! Sử Hồng Thạch: bang chủ đời thứ 26, là con gái của Sử Hỏa Long. Sau khi chứng kiến cảnh cha mình bị giết hại, Sử Hỏa Long gặp nạn ᴠà được Dương cô nương (được cho là hậu nhân của Dương Quá – Tiểu Long Nữ) cứu giúp. Họ хuất hiện ở cảnh “хử lý Kim Mao Sư ᴠương trên Thiếu Lâm Tự” trong Ỷ Thiên Đồ Long ký. Kể từ thời kỳ của Sử Hồng Thạch thì Cái Bang bắt đầu ѕuу уếu.Giải Phong: bang chủ đời thứ 30.Trác Bất Phàm: bang chủ đời thứ 32.Hà Nhân Ngã: bang chủ đời thứ 36.Dịch Trọng Mậu: bang chủ đời thứ 37.Kim Thế Di: bang chủ đời thứ 38.Quách Chanh: bang chủ đời thứ 39.Hồ San San: bang chủ đời thứ 40.Phạm Hưng Hán: bang chủ đời thứ 42.Liễu Bắc Quу: bang chủ đời thứ 44.Tô Khất Nhi: bang chủ đời 45. Đâу cũng là ᴠị bang chủ cuối cùng của Cái Bang, không хuất hiện trong tiểu thuуết Kim Dung mà là ѕự tiếp nối của một biên kịch khác. Lịch sử Cái Bang có thể nói là từ rất lâu đời, danh xưng “Thiên Hạ Đệ Nhất Bang” không phải tự nhiên mà có. Nhờ tinh thần quất cường và nhân số đông đảo, phái này luôn chiếm một vị trí đáng kể trong võ lâm Trung Nguyên. Danh tiếng trên Giang hồ của Cái Bang lừng lẫy hàng trăm năm, nhân tài Ngọa hổ tàng long, thời nào cũng có. Trong bốn bể Đông Tây Nam Bắc, nơi nào có ăn xin, nơi đó có Cái Bang. Những đệ tử trong bang thương yêu giúp đỡ nhau, chia sẻ mọi thứ, tạo nên một khối thống nhất luôn theo phò Chính nghĩa.
Trong lịch sử Cái Bang đã chịu nhiều khó khăn nhưng không quên mục tiêu của mình là tôn vinh chữ “nghĩa” và giúp người khó khăn. Vì vậy, Cái Bang trở thành môn phái gần gũi với dân nghèo và trở thành trung tâm của Bách Đạo dựa trên nền tảng sức mạnh của dân chúng.Tất cả mười ba thành đều là lãnh địa của Cái Bang. Dù cho đi đến đâu thì cũng có thể thấy ăn mày và trong số những ăn mày đó thì phần lớn là người của Cái Bang. Phần lớn đệ tử của Cái Bang đã làm cho Cái Bang trở thành môn phái mạnh nhất và Cái Bang được coi là “tai mắt của thiên hạ”. Trong vô số những môn phái của giang hồ thì Cái Bang là môn phái có thế mạnh về tin tức nhất.Tất cả thu nhập của Cái Bang đều dựa vào việc xin ăn. Nhưng việc xin ăn này không phải là do bất hạnh hay vì miếng ăn đơn thuần. Mục đích xin ăn của Cái Bang là kết bạn và cuối cùng là ra tay nghĩa hiệp. Các đệ tử của Cái Bang có quyền học võ của bất kì môn phái nào, hay có thể được Bang Chủ truyền dạy võ công. Nhưng Cái Bang cũng có 2 môn Thần Công trấn phái là Hàng Long Thập Bát Chưởng cùng Đả Cẩu Bổng Pháp. Hai môn võ này được truyền tụng đời đời, các Bang Chủ chấp chưởng đại quyền đều phải biết 2 môn công phu này. Hàng Long chưởng có thể không biết nhưng nhất định phải thông thạo 36 chiêu Đả Cẩu Bổng. Suốt các đời Bang chủ luôn phải lãnh đạo Bang chúng hành hiệp trượng nghĩa, cứu khổ phò nguy đối phó ngoại xâm nội phản chống lại các thế lực ác độc của võ lâm. Vì vậy Cái Bang luôn có thanh thế rất lớn trên giang hồ và luôn nhận được sự kính trọng mến phục của đồng đạo võ lâm. Trong đó nổi tiếng nhất là Hồng Thất Công, bang chủ đời 18 của Cái Bang, người đã đạt đến cảnh giới 2 loại võ công trên. Lịch sử Cái bang: Theo lời kể của Hồng Thất Công, thì Cái Bang có lịch sử cũng khá lâu đời. Khoảng vào thời Đường sau khi Thiếu Lâm khai môn lập phái, vị Tổ Sư mở bang sáng lập bang phái cùng với 18 chiêu Hàng Long chưởng. Còn Đả cẩu Bổng pháp thì chưa được hoàn thiệ , truyền qua từng đời thì tới đời thứ 3 vị Bang chủ này thêm vào thành 36 chiêu Đả Cẩu Bổng hoàn chỉnh …Truyền qua nhiều đời, thời cực thịnh của Cái Bang có thể là từ lúc Tiêu Phong tiếp nhiệm Cái Bang. Ông là vị Bang Chủ được đánh giá là tài ba nhất của Cái Bang với bao nhiêu công trạng to lớn lập được cho võ lâm Trung Nguyên và triều đình Đại Tống. Lực lượng Cái Bang lúc đó khoảng hơn 60 vạn người, tiếc thay anh hùng thường bị trời ghen ghét. Nên Tiêu Phong đoản mạng, lập tức Cái Bang như rắn mất đầu chẳng còn oai phong như khi xưa. Mãi tới khi Hồng Thất Công nắm quyền mới có thể khôi phục phần nào uy danh lừng lẫy của Bang phái năm xưa. Sau Hồng Thất Công là Hoàng Dung, vị Bang chủ nữ đầu tiên của Cái Bang từ khi mở bang (người thứ hai là Sử Hồng Thạch), cũng đã lập nhiều đại công tạo dựng lại thanh thế cho Cái Bang trên giang hồ. Rồi Lỗ Hữu Cước , Gia Luật Tề thay nhau tiếp nhiệm … Qua nhiều năm , Cái Bang càng lúc càng suy vi, cho đến thời của Sử Hoả Long thì Hàng Long Thập Bát Chưởng thất truyền còn Cái Bang chỉ là 1 bang hội hạng 2 trên giang hồ … Qua nhiều năm, cơ chế của Cái Bang có đôi chút thay đổi. Thời Bắc Tống , ngoài Tứ Đại Trưởng Lão Cái Bang còn có 2 vị trưởng lão là Truyền Công , Chấp Pháp , qua thời Nam Tống , các vị trưởng lão lại chia ra 2 phe : Áo Dơ , Áo Sạch và cũng chỉ còn 4 vị, đến thời Nguyên Minh chỉ còn 2 vị lãnh đạo cao nhất là Trưởng Bát Long Đầu và Trưởng Bảng Long Đầu cùng tên Chấp Pháp … – Uông Kiếm Thông : Bang chủ đời thứ 16 – Tiêu Phong : Bang chủ đời thứ 17 – Hồng Thất Công : Bang chủ đời thứ 18 – Hoàng Dung : Bang chủ nữ duy nhất , đời thứ 19 – Lỗ Hữu Cước : Bang chủ đời thứ 20 – Gia Luật Tề : Bang chủ đời thứ 21 Sau đó còn 2 vị là Sử Hoả Long , Giải Phong ( trong Tiếu Ngạo Giang Hồ ) : không rõ đời thứ bao nhiêu … Hệ thống võ công: Ưu điểm của võ công Cái Bang là có tính thực dụng và thực tiễn cao. Không duy trì, giữ gìn lễ nghi và lề thói như những môn phái khác của Bách Đạo. Võ công của Cái Bang chuyên đánh lạc hướng đối phương, nên thoạt nhìn nó có vẻ lén lút hèn hạ. Thế nhưng, ẩn bên trong nó là triết lý của những bậc thầy không màng tới thế sự. Võ công Cái Bang không ảo diệu thâm thúy. Trong các loại võ công, võ công Cái Bang chỉ có mấy ưu điểm được bổ sung là mang tính lịch sử và truyền thống (Đả Cẩu Bổng Pháp hay Giáng Long Thập Bát Chưởng…). Do đó, hầu hết những đệ tử đều bị nguy hiểm vì chạy theo lợi ích lớn mà từ bỏ thân thể mình. 1.Cái Bang Chưởng Pháp : Cao thủ Cái bang càng đánh càng dồi dào sức lực, khi sinh mạnh lâm nguy võ công được phát huy tới mức tột đỉnh.Đệ tử Cái bang thiện chiến giáp lá cà, đồng thời né tránh đòn đánh gần rất lanh lẹ. Những kẻ ra đòn nặng với đệ tử Cái bang đều phải chuốc lấy phần thiệt. Họ càng ra nhiều đòn liên hoàn, công lực càng tăng lên gấp bội và có thể kết liễu kẻ địch từ xa. Đến khi nhận ra ý đồ của họ, kẻ địch tiến thoái lưỡng nan, chạy trốn không được mà chống cự cũng không nổi. Võ công tuyệt học của Cái Bang Chưởng pháp là Hàng Long Thập Bát Chưởng, còn gọi là Giáng Long Thập Bát Chưởng, môn võ công trấn phái của Cái Bang. Giáng Long Thập Bát Chưởng được xem là 1 trong 3 chiêu thức lợi hại nhất võ lâm, cùng sánh ngang với tuyệt kỹ võ học của Thiếu Lâm và Võ Đang. Sau đây là tên 15 chiêu của Giáng Long Thập Bát Chưởng, 3 chiêu cuối của Giáng Long Thập Bát Chưởng tương truyền đã không còn hiện hữu giang hồ sau khi Hồng Thất Công rời Cái Bang mai danh ẩn tích, các bang chủ về sau của Cái Bang không ai có thể luyện được 3 chiêu này : 1 . Kháng Long Hữu Hối 2 . Phi Long Tại Thiên 3 . Quần Long Vô Thủ 4 . Tiềm Long Hốt Dụng 5 . Bàn Long Thực Nhật 6 . Song Long Xuất Hải 7 . Đột Như Kì Lai 8 . Lợi Thiệp Đại Xuyên 9 . Kiến Long Tại Điền 10. Hoặc Dược Tại Uyên 11. Lý Sương Băng Chí 12 . Hồng Tàm Ư Lục 13 . Chấn Kinh Bách Lý 14 . Thần Long Bãi Vĩ 15 . Long Chiến Vũ Dã Bộ chưởng pháp này là võ công chí cương của thiên hạ, bao đời Bang Chủ Cái Bang nhờ nó mà thành danh giang hồ uy lực tuỳ theo người sử dụng. Trích dẫn từ lời tác giả Kim Dung: Những cao thủ về môn chưởng pháp này có thể kể là Tiêu Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh. Tiếc thay, từ sau thời Anh Hùng Xạ Điêu, vật đổi sao dời Hàng Long Chưởng cũng theo đó mà thất truyền cùng với sự suy vi của Cái Bang. Đến thời Gia Luật Tề thì chắc không học nổi toàn bộ, Quách đại hiệp đành phải gửi gắm hi vọng vào hậu thế trong thanh Ỷ Thiên kiếm… Nhớ lại sau này bang chủ Cái Bang Sử Hoả Long chỉ tập thành có 12 chiêu mà tiếc cho Tiêu Phong 1 thân anh hùng lại vùi thây nơi hiểm địa … 2.Cái Bang Bổng Pháp Đả Cẩu Bổng Pháp: Công nhận là tổ sư khai môn lập phái của Cái Bang thật lạ, một mặt sử dụng tên 1 con linh vật, Rồng để đặt tên cho chưởng pháp (Hàng Long thập bát chưởng) mặt khác sử dụng tên một con vật tầm thường, Cẩu để gọi môn Bổng Pháp chí bảo trấn bang… Như ta đã biết, Đả Cẩu Bổng Pháp gắn liền với cây Đả Cẩu Bổng danh lừng thiên hạ. Tương truyền tất cả các Bang Chủ Cái Bang khi tiếp nhiệm trọng trách đều được Bang Chủ tiền nhiệm dạy cho môn võ công thần diệu này. Nhưng có lẽ ít ai biết được hình dáng thực sự của cây Đả cẩu Bổng. Bởi nó dài 3 thước lẻ 7 phân, hình thẳng và làm bằng trúc xanh. Còn Đả Cẩu Bổng của Bang Chủ thì làm bằng Lục ngọ , có màu xanh như trúc vậy. Một cây gậy tầm thường như vậy nhưng lại có quyền lực tối cao, có thể sai khiến hàng vạn vạn Bang Chúng dưới quyền. Tiếp theo là bàn về Đả Cẩu Bổng Pháp, lộ Bổng Pháp này gồm 36 chiêu chia theo 8 chữ khẩu quyết : buộc, đập, trói đâm, khều, dẫn, khoá, xoay. Tuỳ tình hình địch thủ và gia số võ công mà sử dụng 1 trong 8 chữ khẩu quyết này là có thể khắc địch chế thắng. Điểm lợi hại của Bổng Pháp này là người võ công kém hơn khi đụng đối thủ mạnh cũng có thể chiến thắng nổi, chiêu thức Bổng Pháp biến ảo tinh diệu tuyệt kì. Có thể điểm sơ sơ qua vài chiêu: 1. Ngao Khẩu Đoạt Trượng (dùng cướp gậy) 2. Áp Thiên Cẩu Bối (khẩu quyết chữ Khoá) 3. Bổng Đả Song Khuyển (chữ Đập) 4. Bát Thảo Tầm Xà (chữ Đâm) 5. Lục Phản Cẩu Điện (chữ Đâm ) 6. Bát Cẩu Triều Thiên ( chữ Khoá ) Người có thể sử dụng thuần thục Đã Cẩu Bổng Pháp lại là nữ bang chủ duy nhất của Cái Bang, đồng thời cũng là bang chủ đời 19 của Cái Bang : Hoàng Dung. Nói đến Cái Bang là ta nói nghĩ ngay đến “Thiên Hạ Đệ Nhất Bang”, nghĩ đến các nhân vật Hồng Thất Công, Kiều Phong (Tiêu Phong), Quách Tĩnh v.v…. Ngoài danh hiệu “Thiên Hạ Đệ Nhất Bang” ra, ta còn dễ dàng liên tưởng đến Giáng Long Thật Bát Chưởng, Đã cẩu bổng pháp. Đệ tử Cái Bang phân bố khắp nơi, đông tay nam bắc đâu có ăn xin, là nơi đó có phân đà của Cái Bang. Kết cấu bang phái: Bang chủ lấy bốn biển làm nhà, ngao du đây đó, không cố định một nơi. Nguyên nhân 1 phần là do bang phái trải rộng khắp thiên hạ, nên bang chủ không thể ngồi một nơi mà quản lý bang hội, nên phải nay nơi này, mai nơi khác giám sát bang chúng. Tuy nhiên, vào mỗi đầu tháng phải đến Hồ Động Đình để họp cùng gặp các trưởng lão trong bang, xử lý những công việc quan trọng. Bang chủ Cái Bang võ công xuất chúng, lại ngày đây mai đó, nên hành hiệp trượng nghĩa khắp nơi. Rất nhiều người trong chốn giang hồ mang ơn bang chủ Cái Bang, vì thế rất được đồng đạo chốn giang hồ kính trọng. Dưới bang chủ là trưởng Lão. Ví dụ như truyền công trưởng lão (dạy võ công), chấp pháp trưởng lão, chưởng côn trưởng lão v.v…. Nhiệm vụ là giúp đỡ bang chủ xử lý công việc trong bang. Đảm đương chức vụ trưởng lão, phải là đệ tử 9 túi. Kế đến, đó là đệ tử 8 túi. Giữ cương vị hộ pháp trong bang. Thường gồm có 5 người, xưng là Ngũ Đại Hộ Pháp, gồm : Đông Đàng Hộ Pháp, Tây Đàng Hộ Pháp, Nam Đàng Hộ Pháp, Bắc Đàng Hộ Pháp, Trung Đàng Hộ Pháp. Nhiệm vụ của họ là phân công quản lý các phân đà ở 5 khu vực khác nhau của Trung Nguyên. Tiếp theo đó là đệ tử 7 túi, thường giữ chức vụ trưởng phân đà ở 1 thành thị nào đó, kế đến là dệ tự sáu túi, năm túi, bốn túi, ba túi, hai túi, một túi, và không có túi nào. Page 2Võ thuật là kỹ thuật hay phương thức dùng sức mạnh (nội lực, ngoại lực) để chiến thắng đối phương. Với tư cách là một nghệ thuật vận động sản sinh ra trong đấu tranh giữa con người với thiên nhiên (các loài thú dữ), con người với kẻ thù bên ngoài (địch thủ), và con người với kẻ thù bên trong chính bản thân anh ta (bệnh tật), võ thuật hướng đến mục tiêu đem lại cho con người sự chiến thắng trong các cuộc chiến, rèn luyện sức khỏe, và phục vụ một số nhu cầu cần thiết tùy thuộc vào từng bộ môn. Trải theo thời gian, võ thuật hiện đại không còn nhấn mạnh vai trò chiến đấu và chiến thắng bằng mọi giá như trước, mà đã chú trọng hơn nhiều đến các mục tiêu khác như để rèn luyện sức khỏe, thực thi quyền tự vệ chính đáng khi hữu dụng. Một số môn phái được đưa ra thi đấu như những môn thể thao biểu diễn hoặc đối kháng với những điều luật khắt khe nghiêm cấm sử dụng các đòn đánh hiểm, độc. §Những khái niệm gần gũi[sửa | sửa mã nguồn]Tuy có thể đồng nhất "Võ" và "Võ thuật", nhưng thực ra hai khái niệm ít nhiều vẫn có ranh giới. "Võ", nói chung, chỉ lối đánh nhau bằng tay không hay binh khí, và đôi khi, nhằm chỉ một bộ môn đối lập với "văn"; còn "võ thuật" lại thiên về nghệ thuật vận động hơn. Theo đó võ thuật đề cao phương pháp, cách thức, sự khéo léo, kỹ thuật, nghĩa là sự phát huy toàn diện sức mạnh của con người để chiến thắng mọi địch thủ mà không chỉ là những đối thủ trực diện trên sàn đấu. Bên cạnh các thuật ngữ trên còn có thuật ngữ "Võ nghệ", vừa có nội hàm rất gần với thuật ngữ võ thuật, vừa mang ý nghĩa nghề nghiệp, khẳng định võ cũng là một nghề trong xã hội, nghề võ. Cũng không thể không nhắc đến một khái niệm thường được các võ đường và các võ sư đề cao, thuật ngữ "Võ đạo", nhấn mạnh tính nhân văn, văn hóa trong võ thuật, khẳng định tột đỉnh của võ là văn, đằng sau võ học là cội nguồn triết học, hạt nhân đạo đức và chiều sâu tôn giáo, đồng thời đưa sự khốc liệt có tính bản chất của võ, một công cụ để tàn sát, xuống hàng thứ yếu. Trong đời sống xã hội còn tồn tại khái niệm võ học, đối lập với khái niệm võ biền. Võ học là khái niệm được dùng rất hạn chế trong đời sống võ thuật tại Việt Nam hiện nay. Võ học chưa được xem là một ngành học chính thống trong ngành giáo dục & đào tạo. Võ học là sự nghiên cứu, phân tích, hệ thống hóa... tất cả mọi mặt của đời sống võ thuật dưới ánh sáng của các chuyên ngành khoa học (tự nhiên & xã hội) khác như vật lý học, giải phẫu học, sinh lý, sinh hóa, sinh cơ, tâm lý học, y học TDTT.... Hầu hết các bài viết hoặc sách, báo về võ thuật hiện nay tại Việt Nam của các võ sư hoặc HLV danh tiếng đều ít khi đề cập đến thành tựu nghiên cứu của lĩnh vực này. Do đó, đời sống võ thuật Việt Nam còn khá xa lạ với các thuật ngữ, khái niệm hoặc công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về võ thuật (có lẽ có nguyên nhân sâu xa từ trình độ nhận thức, lý luận & nguyên cứu của giới võ thuật hiện nay). Những người học võ thuật có suy nghĩ:TỰ VỆ cho bản thân mình, những vị võ sư nổi tiếng cũng có thể sử dụng môn võ mà mình được học vào lãnh vực kinh doanh: Điện ảnh, dạy học §Các môn công phu[sửa | sửa mã nguồn]Hệ thống công phu võ thuật hợp thành "tứ đại công phu", gồm Nội công, Ngoại công, Nhuyễn công và Ngạnh công, trong đó Nhuyễn Ngạnh công phu tuy có khi được xếp vào hệ thống Ngoại công, nhưng vẫn thường thấy sự khu biệt của nó do những điểm đặc thù: §Nội công[sửa | sửa mã nguồn]Là những phương thức luyện tập bằng cách sự tập trung tối đa tâm ý khí lực theo những phương thức đặc biệt nhằm phát huy các năng lực bí ẩn của con người, khi luyện thành thì có thể dùng tĩnh chế động. Nội công bao gồm các phương thức luyện tập:
§Ngoại công[sửa | sửa mã nguồn]Là các công phu luyện ngoại lực, có thể bao gồm trong nó cả Nhuyễn công và Ngạnh công, với các phương thức luyện tập các chiêu thức tấn công linh hoạt, mạnh mẽ và từng phần cơ thể để phòng thủ hữu hiệu. Khi luyện đại thành thì sức lực di hành khắp chân thân không bị ngăn trở, do đó muốn vận dụng đến sức thì sức có ngay, thân thể cương cường, da thịt gân xương đều cứng chắc, đến đao kiếm cũng khó bề gây thương tích. Ngoại công bao gồm các phương thức tu luyện: §Nhuyễn công[sửa | sửa mã nguồn]Là các công phu chuyên luyện lực âm, nhu lực, âm công, khi luyện đại thành thì bề ngoài cơ thể không có biểu hiện gì của người biết võ (như tay chân không sần sùi, cơ thể không cường tráng), nhưng lực đánh ra rất nguy hiểm (nên nhiều khi được gọi là độc thủ). Tương truyền, một số công phu như Nhất chỉ thiền công (luyện phóng một ngón tay), Quan âm chưởng (luyện cạnh tay), Tỉnh quyền công (luyện quyền bằng cách đấm tay xuống giếng) có thể đả thương người từ xa, Nhu cốt công luyện khớp xương toàn thân mềm dẻo v..v..v Tương truyền ở Nhật Bản từ xa xưa lưu truyền một môn võ thuật có tên là Bí thuật Nhu công. Người luyện tập nhìn bề ngoài có vẻ rất yếu đuối nhưng khi ra tay thì vô cùng tàn độc, nhất là những đòn đánh Cầm nã thủ lấy mạng người dễ dàng vô cùng. Các chiêu thức tung ra gần như chỉ để có một mục đích là lấy mạng đối phương mà thôi. Vào đệ nhị thế chiến, môn võ thuật này nghe nói được phổ biến cho các chiến sĩ trong những lực lượng cảm tử và sát thủ, nhưng sau này bị cấm và mất đi tông tích bởi vì quá độc ác mà cho tới nay chưa ai rõ lý do thất truyền, chỉ biết rằng một kẻ luyện tập môn võ này dù có thân thể bệnh hoạn yếu ớt, một khi đã dốc lòng luyện tập đều có thể trở thành cỗ máy giết người. §Ngạnh công[sửa | sửa mã nguồn]Là các công phu chuyên luyện sức mạnh dương cương, dương lực, dương công, như Thiết sa chưởng (chưởng tay sắt), Thiết tảo trửu (chân quét), Thiết tất cái (đầu gối).Trong đó phải kể tới các môn công phu của Thiếu Lâm rất đặc sắc như: Thập tam thái bảo (thân thể cứng),Thiết bố sam (thân cứng như sắt),Đồng tử công (cũng luyện thân thể)... Khi luyện đại thành thì tay chân người tập chai sần, cứng như sắt, cơ thể tráng kiện, cơ bắp cuồn cuộn. Sức mạnh đòn đánh có được khi đòn tiếp xúc với cơ thể đối phương với uy lực khủng khiếp. §Đỉnh cao võ thuật[sửa | sửa mã nguồn]Suy cho cùng, cách chia các môn công phu của Võ thuật ra làm nhiều dạng (nội công và ngoại công), với nhiều môn (long, báo, xà, hạc, hổ, hầu, quy, ưng,...), hoặc phân chia ra các trường phái (Thiếu lâm, Võ đang, Côn Luân,...) cũng chỉ là đứng trên cái nhìn khác nhau. Có người chia võ thuật ra làm Võ lâm chánh tông, và Bàng môn tà đạo. Sự khác nhau, âu cũng chỉ là ở hành vi của người dụng võ. Vì mục đích cao cả, võ thuật được sử dụng thì đó là võ công chánh tông. Ngược lại, vì mục đích cá nhân, tư lợi, hành vi bỉ ôi, mà võ thuật được sử dụng thì đó là bàng môn tà đạo. Ranh giới thật là mong manh. Nhiều người suốt đời nghiên cứu võ thuật, những mong tìm được bí kíp võ thuật, những công phu đã thất truyền (kể cả những cách luyện kỳ lạ, dị thường) để đạt đến cái gọi là đỉnh cao võ thuật. Vậy đỉnh cao của võ thuật là ở đâu? Bất kỳ một môn công phu võ học nào, miễn sao có thể sử dụng để chiến thắng địch thủ thì có thể sử dụng. Nhưng đó chỉ là chiến thắng về mặt hình thức mà thôi. Chiến thắng thật sự sẽ nằm trên 2 phương diện: hình thức bên ngoài, và nhân tâm bên trong. Đó là đỉnh cao của giới võ thuật vậy §Võ thuật và các bộ môn hỗ trợ[sửa | sửa mã nguồn]§Hô hấp[sửa | sửa mã nguồn]Trong võ thuật, hô hấp được chia làm hai loại chính là Nội hô hấp và ngoại hô hấp. Các phương pháp hô hấp này có trong võ thuật là do Bồ Đề Đạt Ma và các môn đồ Thiếu Lâm, các môn đồ các phái võ Trung Hoa hấp thu từ các phương pháp luyện thở của Yoga và Phép đạo dẫn (luyện thở, luyện hô hấp) của các trường phái Đạo gia để vận dụng chúng huy động nguồn sức mạnh của thân xác và tâm trí đạt hiệu quả cao khi luyện võ công. Nội hô hấpĐây là hoạt động của chân khí, là sự tiếp thu dưỡng khí, các chất bổ đưa đến từng tế bào và biến chuyển các dạng năng lượng. Hoạt động này bắt đầu từ lúc cơ thể con người chỉ là thai nhi. Nội hô hấp theo thời gian sẽ dần thoái hóa nhường chỗ cho ngoại hô hấp tiến triển. Ngoại hô hấpThể hiện cho hoạt động hô hấp bằng mũi, bắt đầu xuất hiện khi chúng ta ra khỏi bụng mẹ. Ngoại hô hấp dần dần phát triển mạnh mẽ để nuôi dưỡng và cung cấp dưỡng khí cho cơ thể. §Khí[sửa | sửa mã nguồn]Khí động học
Con người sống trong vũ trụ sinh hoạt và chuyển động đều có tương quan đến vũ trụ, nếu thuận theo vũ trụ và khí từ vũ trụ thì sẽ lớn mạnh, còn ngược lại sẽ bị hủy hoại. Võ thuật lợi dụng đặc tính này để tạo ra các hình thức luyện tập nhằm nâng cao thể trạng như nội công, khí công, hấp pháp v.v. §Triết học phương Đông với võ thuật[sửa | sửa mã nguồn]Võ thuật là một bộ môn văn hóa đặc trưng gắn liền với triết học. Các võ sư đã đúc kết bằng câu nói nổi tiếng: "đằng sau võ học là triết học". Các bộ môn võ học phương Đông đều dựa trên nền tảng các nguyên lý triết học: Âm dươngÂm dương là hai mặt quan hệ đối lập nhưng hỗ trợ nhau, võ thuật lấy bản thân người tấn công và người phòng thủ làm hai mặt này. Để đạt đến mục đích công phá cao nhất thì phải đẩy một mặt đặc tính lên cao nhằm lấn át mặt còn lại. Ngũ hànhNgũ hành là quy luật hậu thiên tương ứng với bản chất con người, để nâng cao hiệu quả phải biết nâng cao mặt yếu và trấn áp sự thái quá. Dựa trên ngũ hành các quy luật võ thuật tạo ra sự bổ khuyết cho nhau cũng như sự quấy rối bản chất nhau. Bát quáiBát quái như một sự phát triển cao hơn của âm dương, nó thể hiện chu kỳ hoàn chỉnh xoay vần của tạo hóa. Tuân theo bát quái để chuyển động cũng là tạo ra một chu trình sinh hóa của tự nhiên, lúc đó mọi vấn đề còn lại sẽ phụ thuộc vào kẻ điều khiển chứ không bị ảnh hưởng nhiều bởi xung quanh. Cửu cungLà một biến thiên của bát quái khi thêm trung cung, tạo ra chỉnh thể tương ứng với quy luật vận hành của con người. Đây là một kiến tạo nhằm đáp ứng cho nhu cầu vận động của một số lượng người nhiều, hầu như ngày nay không còn được ứng dụng mấy (ví dụ như biểu diễn tập thể hàng ngàn người) §Đông y với võ thuật[sửa | sửa mã nguồn]Luyện tập sơ khai võ thuật thì không cần chú trọng đến bản chất, các phương pháp chữa trị khi biến chứng xảy ra hoặc phản ứng của cơ thể với quá trình luyện tập. Khi luyện tập những thứ dễ bị lệch lạc hay khó thì các phương pháp thăm dò, theo dõi biến chuyển là một trong những trọng tâm của quá trình luyện tập. Kinh, mạch, lạc
Huyệt đạo là những điểm có khí tụ lại lớn, thường là những điểm giao nhau của nhiều đường kinh mạch. Huyệt đạo là những điểm nhạy cảm trên thân thể, theo đó người dụng võ có thể tấn công vào các huyệt đạo để gia tăng tính sát thương của đòn thế. Khi bị tấn công vào huyệt đạo, người chịu đòn có thể có những phản ứng rất đặc biệt: đau đớn dữ dội, chấn thương nặng, bất tỉnh,chết. Huyệt đạo trong võ thuật cũng gắn trực tiếp với các phương pháp cứu chữa người bị chấn thương, bệnh tật. Theo các võ sư, cơ thể có 108 huyệt đánh và 108 huyệt chữa trị, lại có 12 huyệt có thể đánh hẹn giờ chết. Các võ sư thường truyền dạy không chỉ phương thức tấn công huyệt đạo mà cả các phương pháp chữa trị bằng huyệt đạo như bấm huyệt, xoa bóp, châm cứu. Tuy nhiên, biết được vị trí huyệt đạo đã khó, biết được cần tác động bằng phương thức nào và độ sâu của đòn đánh đến đâu để đạt được hiệu quả tính cao nhất còn khó hơn. Bởi vậy, điểm huyệt và giải huyệt chưa bao giờ được truyền dạy một cách phổ thông, quảng bá cho tất cả các môn đồ của võ phái, do đó theo thời gian những tinh hoa này không tránh khỏi mai một và thất truyền. §Võ thuật và các bộ môn nghệ thuật[sửa | sửa mã nguồn]§Điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]Võ thuật và các bộ môn nghệ thuật sân khấu, điện ảnh gắn bó với nhau từ rất lâu, nhưng hầu như chỉ bắt đầu phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của Lý Tiểu Long trong loạt phimquyền cước do anh thủ vai diễn viên chính như Thanh Phong Hiệp, Đường Sơn Đại Huynh, Tinh Võ Môn, Long Tranh Hổ Đấu, Mãnh Long Quá Giang, Tử Vong Du Hí. Sau anh, rất nhiều diễn viên, võ sĩ đã tham gia diễn xuất như Khương Đại Vệ, Địch Long, La Liệt, Vương Vũ, Trần Tinh, Trần Quang Thái, Phó Thanh,... là những diễn viên nổi tiếng của Hồng Kông vào những năm đầu thập kỷ 1970, sau này còn có thêm Thành Long (Jackie Chan), Hồng Kim Bảo, Quan Chi Lâm, Hà Gia Kính, Lý Liên Kiệt (Jet Li), Triệu Văn Trác, Chân Tử Đan (còn gọi là Chung Tử Đơn), Phàn Thiếu Hoàng, Ngô Kinh, Chu Nhuận Phát, với loạt phim về Hồng Hi Quan và Phương Thế Ngọc, Nam Thiếu Lâm, Hoàng Phi Hồng, Hoắc Nguyên Giáp, Nghiêm Vịnh Xuân và Vịnh Xuân Quyền, Hồng Gia Quyền, v.v. Dòng "phim chưởng" nhiều tập một thời phát triển mạnh mẽ từ những năm cuối của thập kỷ 1960 ở Hồng Kông và các nước trong khu vực Đông Nam Á hiện đã dần nhường chỗ cho sự xuất hiện của những phim một tập được phương Tây đánh giá cao như phim Anh hùng, Ngọa Hổ Tàng Long, Thập diện mai phục, Kungfu, v.v. Và gần đây nhất là Tony Jaa, một chiến binh Muay Thái xuất sắc, anh đã cho ra series phim OngBak (Truy tìm tượng Phật) và Tom Yung Goong (The Protector), những pha hành động của anh làm bao nhiêu người phải thán phục, nhào lộn và trình diễn võ thuật. Có thể nói anh là lớp trẻ sau này nối tiếp Lý Tiểu Long, Thành Long và Lý Liên Kiệt. §Vũ đạo (Trung Quốc)[sửa | sửa mã nguồn]Bài chi tiết: Vũ đạo (Trung Quốc) Vũ đạo là một loại hình nghệ thuật múa cổ truyền của Trung Hoa, loại hình nghệ thuật này phổ biến mạnh từ các bộ tộc người Hán ở phương bắc Trung Quốc từ khu vực nội Môngcho đến các vùng Hoa Bắc, Sơn Đông và Hà Bắc (Trung Quốc). Vũ đạo có một vai trò ảnh hưởng nhất định đến các bộ môn võ thuật thuộc miền Bắc Trung Hoa làm cho văn hóa nghệ thuật của đất nước này trở nên đa sắc thái và giàu tính nhân văn. §Kinh Kịch[sửa | sửa mã nguồn]Bài chi tiết: Kinh kịch Kinh kịch là một loại hình nghệ thuật biểu diễn sân khấu cổ truyền của Trung Hoa thường có các màn biểu diễn võ thuật cổ truyền Trung Hoa. Các thể loại phim quyền cước còn được gọi là phim Kungfu của Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan không phải là loại phim hành động của Mỹ mà thật ra có nguồn gốc từ Kinh kịch do các diễn viên và đạo diễn sân khấu chuyển sang. §Tuồng, Chèo[sửa | sửa mã nguồn]§Một số nền võ học trên thế giới[sửa | sửa mã nguồn]Mỗi một dân tộc trên thế giới đều gắn liền quá trình tồn tại, phát triển của mình với các truyền thống quý báu, trong đó có tinh thần thượng võ và những kỹ thuật phòng vệ. Đó là bản lề cho sự phát triển của các nền võ học trên thế giới. §Anh[sửa | sửa mã nguồn]§Ấn Độ[sửa | sửa mã nguồn]Trong khi các võ phái tại các nước châu Á khác (Nhật Bản, Việt Nam v.v.) thường thừa nhận ảnh hưởng từ võ thuật Trung Hoa, thì giới võ lâm Trung Hoa lại thừa nhận võ thuật của mình nguyên khởi từ Ấn Độ §Brasil[sửa | sửa mã nguồn]
§Campuchia[sửa | sửa mã nguồn]§Đức[sửa | sửa mã nguồn]§Indonesia[sửa | sửa mã nguồn]
§Israel[sửa | sửa mã nguồn]§Gruzia[sửa | sửa mã nguồn]§Hoa Kỳ[sửa | sửa mã nguồn]§Lào[sửa | sửa mã nguồn]§Malaysia[sửa | sửa mã nguồn]§Mông Cổ[sửa | sửa mã nguồn]§Myanma[sửa | sửa mã nguồn]Bài chi tiết: Võ thuật Myanma Võ của Myanma thường được gọi chung là Thaing (bao gồm cả võ tay không và binh khí), cũng được gọi là Bando (tuy nhiên Bando lại còn có tên là một bộ môn riêng trong nền võ Myanma: môn nhu quyền), cho nên Thaing là tên gọi võ thuật bao quát và chuẩn xác nhất đối với đất nước này.
§Nga[sửa | sửa mã nguồn]§Nhật Bản[sửa | sửa mã nguồn]Một đòn đánh trong môn Aikido của Nhật Bản. Nhật Bản có truyền thống thượng võ lâu đời do những cuộc nội chiến liên miên, mặc dù quốc gia này trong suốt trường kỳ lịch sử chưa hề bị xâm lược và đô hộ bởi ngoại bang ngoại trừ giai đoạn ngắn ngủi các samurai phải đương đầu với đội thủy binh hùng mạnh của Mông Cổ. Nhiều hệ phái võ thuật Nhật Bản đã lừng danh thế giới như:
§Pháp[sửa | sửa mã nguồn]
§Philippines[sửa | sửa mã nguồn]§Thái Lan[sửa | sửa mã nguồn]Thái Lan nằm trên bán đảo Đông Dương, chịu ảnh hưởng của Phật giáo và nền văn hóa Ấn độ, phong kiến Trung quốc. Nền võ thuật nước này chịu ảnh hưởng nhiều của võ thuật Trung Quốc và Ấn độ, tuy nhiên khi người phương Tây đến đây, dấu ấn lớn nhất để lại là môn Muay Thái, nó hơi giống như Kick box của người phương tây nhưng lại có nét đánh phù hợp của người phương đông. Hiểm với những đòn đánh cùi chỏ và đầu gối
§Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]Xem chi tiết Các Dòng Quyền Thuật Nam Bắc Trung Hoa tại Võ Thiếu LâmTrước kia trong đồng đạo võ lâm thường tôn vinh "bát đại môn phái" (Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Côn Luân, Không Động, Thanh Thành,Hoa Sơn, Toàn Chân) hoặc "thất đại môn phái" (Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Côn Luân, Không Động, Thanh Thành, Hoa Sơn) võ thuật Trung Hoa, trong đó Võ Thiếu Lâm được đề cao là ngôi sao Bắc đẩu. Gần đây nhất, trong cuốn Võ thuật thần kỳ của Trịnh Cần và Điền Vân Thanh, Trung Quốc, bản dịch được Nhà xuất bản Hà Nội, H. 1996 xuất bản, các tác giả khẳng định Trung Hoa bao gồm không dưới 500 võ phái khác nhau, trong đó nổi tiếng nhất là những phái chính:
... ... ... ... Các bộ môn quyền thuật trên trong khoảng 500 võ phái của khắp miền Nam Bắc Trung Hoa chính là xuất phát từ trong dân gian sau này được các môn đồ của Thiếu Lâm tích hợp vào hệ thống Thiếu Lâm Quyền và biến nó thành những hệ phái Bắc Thiếu Lâm và Nam Thiếu Lâm. Do vậy nói Bồ Đề Đạt Ma là sáng tổ ra võ Thiếu Lâm và võ thuật Trung Hoa như nhiều võ sư xác tín liệu có chính xác và công bằng không trong khi võ Thiếu Lâm là một sự pha trộn và tích hợp giữa các bộ môn quyền thuật dân gian ở Trung Hoa và Ấn Độ. Chùa Thiếu Lâm và võ Thiếu Lâm thật ra chỉ có công tích hợp và hệ thống lại bởi các môn đồ xuất sắc của Thiếu Lâm Tự. Các bộ môn quyền thuật của miền bắc Trung Hoa như Hình Ý Quyền, Bát Cực Quyền, Thông Bối Quyền, Mê Tung Quyền, Phách Quải Quyền,... đều có một tên chung là Trường Quyền. Các bộ môn quyền thuật của Nam Thiếu Lâm như Ngũ Đại Danh Gia Quyền Thuật Nam Thiếu Lâm: Hồng gia (Hung gar), Lưu gia (Liu Gar), Lý Gia (Li Gar), Mạc Gia (Mo Gar) và Thái Gia (Choy Gar), Bạch Mi Quyền (còn gọi là Thiếu Lâm Bạch Mi), Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền gọi tắt là Vịnh Xuân Quyền... được gọi tất cả bằng một tên chung là Nam Quyền. Do vậy cũng nên lưu ý rằng danh từ Trường Quyền không phải là một môn phái mà là khái niệm chỉ tất cả các bộ môn quyền thuật miền bắc Trung Hoa (sau này gọi là Bắc Thiếu Lâm), cũng như danh từ Nam Quyền không phải là một môn phái mà là khái niệm chỉ tất cả các bộ môn quyền thuật miền nam Trung Hoa (là Nam Thiếu Lâm). Sau này người Trung Hoa thường có câu Thiên Hạ Công Phu Xuất Thiếu Lâm (tất cả các phái võ và các bộ môn quyền thuật nam bắc Trung Hoa đều có nguồn gốc từ Thiếu Lâm). Câu nói này chỉ đúng một nửa và cũng cho thấy rằng võ Thiếu Lâm không phải là cái nôi xuất xứ tất cả các phái võ khác mà phải nói ngược lại rằng nó (võ Thiếu Lâm) đã tích hợp các dòng võ khác và làm cho chính nó trở nên phong phú hơn và đa phong cách thể hiện. Võ Thiếu Lâm và võ thuật Trung Hoa nói chung là một công trình sáng tác của các thế hệ võ thuật ở Trung Hoa, trong đó có các môn đồ của chùa Thiếu Lâm. Bằng không câu nói trên sẽ dẫn đến vô số điều ngộ nhận hơn nữa về sau. §Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]Hai võ sĩ Taekwondo đang thi đấu.
§Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]Một kỹ thuật đá trong môn võ Tân Khánh Bà Trà. Bài chi tiết: Võ thuật Việt Nam Một đòn đánh trong môn Việt Võ Đạo. Bên cạnh những nét tương đồng với nền võ thuật rộng lớn của Trung Hoa do ảnh hưởng từ giao lưu văn hóa, các phái võ Việt Nam, hay còn được gọi với tên "Võ Thuật Cổ Truyền" vẫn thể hiện những đặc điểm khác biệt rõ rệt với các nền võ học khác trên thế giới nói chung và Trung Hoa nói riêng: thứ nhất, sự xuất hiện của lời thiệu bằng thơ, phú; thứ hai: bộ pháp vận hành theo đồ hình bát quái (lưỡng túc bát quái vi căn), khi đứng thì vững như đá tảng, khi di chuyển thì nhẹ nhàng linh hoạt như lá bay; thứ ba, bộ tay áp dụng theo ngũ hành pháp (song thủ ngũ hành vi bản); thứ tư, kỹ thuật đòn thế được chọn lọc, phân thế riêng phù hợp với cách đánh của từng dạng đối tượng, địa hình, nhất là lối đánh cận chiến một người chống lại nhiều người; thứ năm, tận dụng triệt để lối đánh "cộng lực" - dựa vào sức lực đối phương để triệt hạ đối phương v.v. Danh sách chưa đầy đủ các phái võ Việt Nam (ở trong và ở ngoài nước Việt Nam) bao gồm: §Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]Page 3
Page 4
Page 5
|