Cần bổ sung những biện pháp kỹ thuật nào nữa

Sâu cuốn lá nhỏ có tên khoa học là Cnaphalocrosis medinalis, thuộc Họ Pyralidae, Bộ Lepidoptera. Sâu cuốn lá nhỏ gây hại trên hầu hết các trà lúa và thường 4-5 năm lại phát sinh thành dịch một lần gây thiệt hại rất lớn cho mùa màng.

Triệu chứng gây hại: Sâu non ăn biểu bì mặt trên và diệp lục của lá dọc theo gân lá tạo thành những vệt trắng dài, các vệt này có thể nối liền với nhau thành từng mảng làm giảm diện tích quang hợp và sau đó cuốn lá lúa lại làm tổ và hóa nhộng trong tổ. Sâu cuốn lá làm hỏng toàn bộ lá Lúa nên cây không sinh trưởng phát triển được và tùy theo mật độ, có thể làm giảm năng suất hoặc mất trắng.

Đặc điểm hình thái:

- Ngài: Mép trước của cánh trước có màu nâu vàng, có hai vệt xiên màu nâu đen từ trên mép cánh xuống 2/3 cánh.

- Trứng: Hình bầu dục có vân mạng lưới rất nhỏ, đẻ từng quả ở mặt trên và mặt dưới lá, trứng mới đẻ có màu hơi đục khi gần nở chuyển màu ngà vàng.

- Sâu non: Sâu non có 5 tuổi, mới mở màu trắng trong, đầu có màu nâu đen, khi lớn cơ thể chuyển màu xanh lá mạ - màu vàng, đầu màu nâu sáng.

- Nhộng có màu vàng - nâu đậm, thường thấy trong lá bị cuốn.

Đặc điểm sinh học, sinh thái và gây hại:

- Vòng đời:

Vòng đời sâu cuốn lá nhỏ từ 28 - 36 ngày tùy theo thời tiết, trong vụ mùa 2023 thời tiết nắng nóng sẽ rút ngắn vòng đời chỉ còn khoảng 28 – 30 ngày, trong đó: Thời gian đẻ trứng: 6 - 7 ngày; Sâu non: 14 - 16 ngày; Nhộng: 6 - 7 ngày; Trưởng thành sống (Bướm, Ngài): 2 - 6 ngày.

Đặc điểm sinh học và gây hại:

Ngài trưởng thành hoạt động đẻ trứng về đêm, ban ngày ẩn nấp, có xu tính mạnh với ánh sáng, con cái mạnh hơn con đực. Ngài thường tìm những ruộng xanh tốt để đẻ trứng, mỗi con cái có thể đẻ trên 100 quả trứng, rải rác trên lá lúa.

Sâu non có 5 tuổi: Tuổi 1 đã rất linh hoạt có thể bò khắp trên lá, chui vào lá nõn, mặt trong bẹ lá hoặc bao lá cũ; tuổi 2, 3 trở đi nhả tơ để khâu 2 mép lá cuốn thành tổ nằm trong đó gây hại. Sâu có khả năng di chuyển ra khỏi bao cũ để phá hại lá mới, mỗi con sâu non có thể phá hại từ 5 - 9 lá, thời gian di chuyển thường vào buổi chiều (từ 6 giờ - 9 giờ tối), ngày trời mưa hoặc râm mát thì có thể di chuyển bất cứ lúc nào trong ngày. Sâu non tuổi 5 đẫy sức chuyển màu vàng hồng chui ra khỏi bao bò xuống gốc lúa, bẹ lá dệt kén mỏng hoá nhộng hoặc hoá nhộng ngay trong bao cũ.

Biện pháp phòng trừ:

- Biện pháp canh tác, kỹ thuật:

+ Vệ sinh đồng ruộng, làm sạch cỏ dại,

+ Điều chỉnh mật độ cấy phù hợp,

+ Bón phân cân đối, hợp lý, đặc biệt bón phân đạm vừa phải.

- Biện pháp sinh học:

Chú ý bảo vệ hoặc bổ sung thiên địch như ong mắt đỏ Trichogramma sp, nấm… Ký sinh thiên địch của sâu cuốn lá nhỏ rất đa dạng từ các loài ong, kiến, nấm, chim sâu, cóc, nhái, các loài ăn thịt…

- Biện pháp hóa học:

Chỉ phun trừ sâu Cuốn lá nhỏ trên những diện tích có mật độ sâu non đến ngưỡng phòng trừ (từ 50 con/m2 trở lên đối với giai đoạn đẻ nhánh, từ 20 con/m2 trở lên đối với giai đoạn làm đòng). Dùng một trong các loại thuốc đặc trị có hiệu quả như Voliam Targo 063SC; Vitako 40WG; Clever 300WG... phun khi sâu còn tuổi 1-2-3 mới có hiệu quả. Khi phun thuốc phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc 4 đúng trong sử dụng thuốc BVTV.

- Thời điểm phun thuốc thích hợp nhất:

+ Sự phát dục của sâu cuốn lá nhỏ phụ thuộc vào sự sinh trưởng, phát triển của từng trà lúa, trên cùng một cánh đồng có nhiều trà lúa cấy ở các thời vụ khác nhau thì trứng sâu cuốn lá nhỏ nở rộ cũng ở các thời điểm khác nhau. Những ruộng lúa cấy trước, nhanh tốt; ruộng lúa thừa đạm, lá xanh đen, những ruộng gần khu dân cư, gần đường quốc lộ, khi trời tối sẽ có nhiều ánh sáng nên mật độ bướm sẽ cao hơn, trứng sâu cũng nở sớm hơn nên phải phun sớm hơn.

+ Phun sau khi bướm tắt 2 - 3 ngày, (thăm đồng 2 ngày/lần, xua ngọn lá lúa kiểm tra thấy mật độ bướm giảm đột ngột so với thời điểm bướm ra rộ).

+ Khi lúa xuôi trái lá già cứng thì sâu cuốn lá nhỏ không phá hại nữa mà di chuyển ra vào tổ ẩn nấp ven bờ cỏ hoặc cây trồng khác./.

Gần như toàn bộ các yếu tố có trong đất đều có mặt trong cây. Kỹ thuật phân tích càng tinh vi thì càng phát hiện thêm nhiều yếu tố. Ban đầu người ta cho rằng có những yếu tố có mặt trong cây có vai trò thiết yếu cho đời sống thực vật của cây và có những yếu tố không có vai trò thiết yếu cho đời sống của cây mà có mặt trong cây chỉ là do sự hút thừa. Các kết quả nghiên cứu phát hiện dần vai trò của nhiều yếu tố mà trước đây không nhận thấy. Sự phân biệt yếu tố thiết yếu và yếu tố không thiết yếu dần dần mất đi hết ý nghĩa.

Các yếu tố trong cây còn được phân biệt thành yếu tố cấu tạo tức là các yếu tố có trong thành phần hợp chất cấu tạo nên tế bào của mô cây, và các yếu tố phi cấu tạo không là thành phần hợp chất tạo nên tế bào của mô cây. Các yếu tố là thành phần cấu tạo của tế bào của mô cây còn được gọi là yếu tố dinh dưỡng, xem như là thức ăn của cây. Một số yếu tố đóng vai trò khác: hoặc tự bản thân nó có ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cây do tác động đến các enzym, các chất điều hoà sinh trưởng hoặc là thành phần cấu tạo nên các enzym, các vitamin, các chất điều hoà sinh trưởng điều khiển các quá trình trao đổi. Để thống nhất trao đổi thông tin, FAO đề nghị quy ước phân nhóm và gọi tên các yếu tố tìm thấy trong cây như sau:

Cần bổ sung những biện pháp kỹ thuật nào nữa

1.1. Phân loại các yếu tố dinh dưỡng

Các yếu tố dinh dưỡng có 16 nguyên tố: C, H, O, N, P, K, Ca, Mg, S, Fe, Zn, Mn, Cu, Bo, Mo, Cl.

Các yếu tố dinh dưỡng chính hay còn gọi là yếu tố phân bón chính. Đó là 3 nguyên tố N, P, K.

Các nguyên tố trung lượng: Ca, Mg, S và gần đây là Si

Các nguyên vi lượng: Fe, Mn, Cu, B, Mo, Co, Ni, Se,...

Danh sách các nguyên tố vi lượng ngày càng nhiều, các nguyên tố thường được nói đến gần đây như Co, Va, Na, Zn, Al, Pb, và các nguyên tố phóng xạ, các loại đất hiếm. Các chất hàm lượng trong cây không có nhiều, ít đến mức rất khó phát hiện nhưng vẫn có vai trò quan trọng được gọi là siêu vi lượng.

1.2. Cơ sở phân loại các yếu tố dinh dưỡng

Sự sắp xếp thành các nhóm như trên không hoàn toàn dựa trên hàm lượng các yếu tố đó trong cây. Hàm lượng S, Mg trong cây nhiều không kém P nhưng P được xem là các yếu tố dinh dưỡng thứ yếu, còn hàm lượng các yếu tố Na, Cl, Fe trong cây cũng không kém lại được xem là các yếu tố vi lượng. Sự sắp xếp như trên cũng không phải là do tầm quan trọng về sinh lý của các yếu tố. Tất cả các yếu tố dầu có nhiều hoặc có ít, có khi phải dùng các phương pháp định lượng hết sức tinh vi mới phát hiện ra được vẫn có vai trò sinh lý nhất định mà sự thiếu hụt vẫn có thể làm đảo lộn các quá trình trao đổi chất trong cây. Thực chất sự sắp xếp trên là phối hợp của cả hai mặt nhu cầu của cây và khả năng cung cấp của đất, thể hiện ở nhu cầu của cần bổ sung bằng phân bón. Ca, Mg, S là các yếu tố cây rất cần, có hàm lượng trong cây cao, nhưng thường được đất cung cấp với lượng khá, đủ để thoả mãn nhu cầu bình thường của cây, chỉ trong một số trường hợp hoặc loại cây cần nhiều hoặc đất không cung cấp đủ mới cần thiết phải bổ sung, vì vậy được xếp vào nhóm các yếu tố dinh dưỡng thứ yếu. Cũng vậy Na, Cl hiếm khi thấy thiếu nên thường được xếp vào yếu tố vi lượng.

Sự sắp xếp như trên là do xem xét vấn đề dưới góc độ phân bón hơn là góc độ dinh dưỡng của cây trồng. Chúng tôi cho rằng dùng từ yếu tố phân bón thích hợp hơn dùng từ yếu tố dinh dưỡng.

Sự phân biệt yếu tố phân bón chính, yếu tố phân bón thứ yếu và yếu tố phân bón vi lượng cũng có tính chất tương đối. Ở một loại đất này một yếu tố được xem là yếu tố phân bón chính vì đất không cung cấp đủ nhưng ở loại đất khác lại là yếu tố phân bón thứ yếu. Đã phát hiện ra rằng trên các vùng đất phèn, đất đồi chua khi trồng các cây chịu chua, canxi lại quan trọng hơn kali. Khi năng suất cây trồng còn thấp, sự cung cấp tự nhiên về một số yếu tố P, K, Ca, Mg, S đủ cho nhu cầu của cây. Khi sản xuất đi vào thâm canh, năng suất trên đơn vị diện tích tăng lên, số lượng lấy đi trong sản phẩm thu hoạch vượt quá khả năng cung cấp của đất, một số yếu tố phân bón thứ yếu đang dần trở thành yếu tố phân bón chính. Một số nhà nghiên cứu đang đề nghị bổ sung các yếu tố S, Mg, Ca xem như các yếu tố phân bón chính.

2. Phân bón

Từ phân bón được sử dụng để chỉ các chất được bón vào đất để bổ sung cho cây những chất dinh dưỡng mà đất không cung cấp đủ. Loại phân bón được sử dụng đầu tiên là các sản phẩm bài tiết của gia súc và tàn dư thực vật, thân lá cây xanh, rác thải sinh hoạt chế biến thành phân chuồng; phân rác, phân xanh, xương động vật. Sau đó đến thế kỷ 19 mới bắt đầu biết sử dụng các sản phẩm của công nghiệp khai khoáng và công nghiệp hoá học để làm phân. Loại phân sản xuất đầu tiên của công nghiệp hoá học là supe lân (năm 1840, và sản xuất với quy mô công nghiệp vào năm 1942 ở Anh). Phân kali khai thác từ công nghiệp khai khoáng được sử dụng đầu tiên với số lượng lớn từ năm 1861. Mãi đến năm 1905 phân đạm nitrat mới được sản xuất bằng quy trình tổng hợp trong công nghiệp hoá học, còn trước đó chỉ có một số lượng không nhiều lắm natri nitrat và kali nitrat được khai thác từ các mỏ dùng làm thuốc súng nhiều hơn là dùng làm phân bón. Các loại phân được sản xuất từ công nghiệp khai khoáng và công nghiệp hoá học thời bấy giờ đều là chất vô cơ nên hai từ phân vô cơ và phân bón hoá học được sử dụng rộng rãi và xem như đồng nghĩa. Từ khi phân urê là một chất hữu cơ được sản xuất rộng rãi (1945) và sau đó hàng loạt các sản phẩm của công nghệ hoá học là chất hữu cơ được sử dụng là phân bón, danh từ phân hoá học không còn đồng nghĩa với phân vô cơ nữa.

Công nghệ khai khoáng phát triển và kỹ thuật sử dụng phân bón phát triển các sản phẩm thu được từ kỹ nghệ khai khoáng được sử dụng theo cả hai hướng: chế biến qua công nghệ hoá học và sử dụng trực tiếp làm phân bón như bột phôtphorit, bột apatit, các loại phân kali hàm lượng thấp. Vì vậy các danh từ phân tự nhiên trước đây đồng nghĩa với phân hữu cơ và phân nhân tạo đồng nghĩa với phân khoáng cũng không còn thích dụng nữa. Các loại phân tự nhiên có khả năng hữu cơ và vô cơ (phân lèn, ...) và các loại phân nhân tạo (phân công nghiệp) cũng có cả hai loại phân hữu cơ và vô cơ. Sự phân biệt phân hữu cơ và phân vô cơ trở thành dễ gây ra sự lẫn lộn.

2.1. Các loại phân bón công nghiệp

Là các sản phẩm hữu cơ hay vô cơ, có sinh vật sống hay không có, được sản xuất từ công nghệ khai khoáng, công nghệ hoá học, công nghệ sinh học, được sử dụng để cung cấp các chất dinh dưỡng hoặc làm tốt hơn quá trình cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng.

Phân bón công nghiệp sẽ bao gồm:

- Phân hoá học: bao gồm các sản phẩm của công nghệ khai khoáng và công nghệ hoá học, ở dạng vô cơ hay hữu cơ nhằm cung cấp các yếu tố phân bón chính (N, P, K) và các yếu tố phân bón thứ yếu (Ca, Mg, S) cho cây trồng.

- Phân sinh hoá: bao gồm bao gồm các sản phẩm có chứa các hợp chất hữu cơ hoặc vô cơ mà vai trò chính là tác động vào các quá trình trao đổi chất trong cây làm tăng sự hấp thụ các chất dinh dưỡng và sử dụng các chất dinh dưỡng để hình thành sản phẩm. Loại phân này có hai loại:

+ Phân vi lượng

+ Chất điều hoà sinh trưởng

- Phân vi sinh vật: là các chế phẩm có chứa vi sinh vật sống có ích như vi sinh vật cố định đạm, vi sinh vật phân giải lân, vi sinh vật phân giải kali, các loại vi sinh vật kháng sinh (tiết ra các chất kháng sinh giúp cho cây trồng chống lại các loại vi sinh vật gây bệnh cây).

Các loại chế phẩm không chứa vi sinh vật sống mà chỉ chứa các men, các hợp chất có tác dụng kích thích sinh trưởng cây trồng và kháng sinh nên xếp vào loại phân sinh hoá.

2.2. Các loại phân nông dân tự sản xuất (phân địa phương)

Bao gồm các loại phận hữu cơ và vô cơ thường là phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, phân rác, than bùn) mà chức năng chính là tăng lượng mùn và tác động đến lý, hoá sinh tính của đất ảnh hưởng đến quá trình cung cấp chất dinh dưỡng của đất cho cây hoặc trực tiếp cung cấp một phần chất dinh dưỡng cho cây.

2.3. Chất cải tạo đất

Bao gồm các loại chất để cải tạo độ chua của đất (vôi, thạch cao, ...), chất làm tăng độ xốp của đất - tăng khả năng nhả chậm phân bón (zeolite) và các chất có tác dụng keo kết các hạt đất lại, tạo kết cấu cải thiện lý tính của đất.