Câu nào đưa ra nhân định đúng nhất về vẻ đẹp của Thúy Vân

Giới thiệu về cuốn sách này


Page 2

Giới thiệu về cuốn sách này

      "Chị em Thúy Kiều" là đoạn trích nằm ở phần mở đầu “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, nhà thơ nhân đạo xuất sắc cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm thành công về giá trị nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật mà đoạn trích này là một ví dụ tiêu biểu.

      Sau khi giới thiệu về gia cảnh của Vương viên ngoại, nhà thơ nói tới vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều:

"Đầu lòng hai ả Tố Nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân

... Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai."

      Bút pháp tả người của Nguyễn Du là bút pháp ước lệ thường thấy trong thơ cổ điển: lấy những nét đẹp trong thiên nhiên để so sánh với vẻ đẹp của con người. Ở các nhà thơ khác, theo cách tả này, chân dung nhân vật thường trở nên chung chung, mờ nhạt; song cái công thức ước lệ ấy vào tay Nguyễn Du lại biến hóa khôn lường và đầy tài hoa sáng tạo, khiến nhân vật của ông rất có hồn.

      Đầu tiên, nhà thơ giới thiệu chung về hai chị em Kiều. Qua cách gọi trang trọng: Tố Nga (người con gái đẹp), cách đánh giá khái quát:

Mai cốt cách tuyết tinh thần

 Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

      Nguyễn Du đã khẳng định hai chị em Kiều đều rất đẹp. Hình dáng thanh tú yểu điệu (mai cốt cách), tâm hồn trong tráng như sương tuyết (tuyết tinh thần). Rõ ràng họ là con nhà nề nếp, được hưởng thụ một nền giáo dục đầy đủ và tốt đẹp.

      Nguyễn Du rất kĩ lưỡng trong việc chọn hình ảnh và từ ngữ để miêu tả. Thúy Vân hiện lên trước mặt người đọc với vẻ đẹp đài các, kiêu sa:

“Vân xem trang trọng khác người,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang."

      Gương mặt nàng đẹp phúc hậu, tươi mát, gợi sự đầy đủ, viên mãn. Nàng cười tươi như hoa nở, tiếng nói trong như ngọc rơi trên mâm vàng. Tóc nàng đen mướt đến mây cũng thua. Da nàng trắng đến tuyết cũng phải nhường. Dường như tạo hóa đã ban cho Vân những đặc ân mà không bị ai ganh ghét, đố kị với nàng, vẻ đẹp căng đầy sức sống của Thúy Vân báo trước đời nàng sau này sẽ yên ổn, vinh hoa, nàng sẽ được hưởng mọi điều sung sướng của một bậc mệnh phụ mà chẳng phải gian lao, vất vả.

      Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Du lại miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân trước, Thúy Kiều sau. Dụng ý của ông là lấy vẻ đẹp của Vân làm nền cho vẻ đẹp của Kiều: Vân đã trang trọng khác vời, đã đạt tới mức cao nhất của vẻ đẹp mà tạo hóa ban cho người phụ nữ nhưng Kiều mới chính là đỉnh cao của sắc đẹp, phá vỡ mọi khuôn khổ thường thấy từ trước tới nay.

      Ngay từ câu đầu giới thiệu về Kiều, Nguyễn Du đã khẳng định:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn."

      Vân đã đẹp thế, Kiều lại đẹp hơn hẳn Vân. Sắc đẹp của nàng là sắc đẹp sắc sảo mặn mà, gây ấn tượng rất mạnh, ai thấy một lần phải nhớ mãi. Tả Kiều, Nguyễn Du không đi vào chi tiết như tả Vân mà nhà thơ đặc tả đôi mắt - cửa sổ của tâm hồn:

“Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh."

      Mắt Kiều long lanh như nước mùa thu, dáng lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Ẩn chứa trong đôi mắt ấy là một tâm hồn đa cảm khác thường, vẻ đẹp của nàng nghiêng nước, nghiêng thành, khiến cho hoa phải ghen, liễu phải hờn. Tác giả tả Kiều đẹp tuyệt vời như vậy nhưng trong cách tả ông cũng hé cho ta thấy cái dự cảm bất an trong tương lai của Kiều. Theo thuyết tài mệnh tương hỗ, phàm cái gì tốt đẹp trên đời đều khó giữ được bền lâu. Thúy Kiều đẹp không ai sánh bằng, tất nàng sẽ bị người đời ghen ghét và đày đọa.

         Tả Vân, Nguyễn Du chỉ nói đến sắc, tuyệt nhiên không nhắc đến tài. Còn Thúy Kiều: Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Nàng là người con gái tài sắc vẹn toàn:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương."

      Thúy Kiều quả thật đa tài: thi, họa, ca, ngâm,... ít ai có được cùng một lúc nhiều tài đến như vậy. Nhất là tài chơi đàn đã thành nghề riêng của Kiều, không ai sánh nổi.

      Có sắc, có tài, Kiều lại có thêm một tâm hồn mẫn cảm lạ lùng. Dường như nàng linh cảm được trước số phận bất hạnh của mình nên đã tự sáng tác nên khúc đàn Bạc mệnh mà ai nghe cũng phải não lòng.

      Bốn câu thơ cuối đoạn tả hoàn cảnh sống của chị em Kiều:

"Ềm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai."

      Những chi tiết trên khẳng định thêm phẩm hạnh trong trắng, cao quí của chị em Thúy Kiều.

      Một đoạn trích ngắn chỉ 24 câu thơ nhưng đã cho chúng ta thấy được tài năng nghệ thuật tuyệt vời cuả Nguyễn Du. Ông xứng đáng là một bậc thấy về sử dụng ngôn ngữ để tả chân dung nhân vật. Mỗi nhân vật của ông đều có diện mạo riêng, tính cách riêng rõ nét.

      Tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, tác giả bày tỏ tình thương yêu trân trọng đối với con người, đồng thời ông ngầm khẳng định: Một con người tài sắc vẹn toàn như Kiều rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Cuộc đời nàng bị đọa đầy, bất hạnh thì đó chính là do tội ác của các thế lực đen tối trong xã hội gây ra. Đọc đoạn trích, chúng ta có thiện cảm ngay với hai chị em Kiều và cùng tác giả, chúng ta hãy dõi theo từng bước chân của họ trên đường đời vạn nẻo đầy chông gai, sóng gió.

      Trần Thị Thìn

Loigiaihay.com

Tiếp tục tranh luận về cách hiểu vẻ đẹp của Thúy Vân trong thơ Nguyễn Du được dẫn trong Sách giáo khoa lớp 9, Tòa soạn nhận được bài viết của tác giả Nguyễn Cẩm Xuyên. Ông cũng là nhà giáo, đã nghỉ hưu nhưng rất tâm huyết với nghề và còn có nhiều nghiên cứu về bài giảng, góc tiếp cận rất hữu ích. Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả, cũng như một góc nhìn đối với góp ý của tác giả Huy Thư ở bài viết "Thúy Vân mày rậm hay thân hình nở nang?".

(Trong bài viết, có một số chữ nôm, cho nên chúng tôi buộc phải trình bày dưới dạng ảnh chứ không phải ảnh minh họa. Độc giả lưu ý đọc tiếp bài ở các bức ảnh này).

Mở đầu Truyện Kiều có đoạn tả tài sắc hai thiếu nữ nhà họ Vương, trong đó 4 câu, từ 19 đến 22 là để tả Thuý Vân; riêng câu 20 đã gây nhiều tranh luận: “khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” hay “khuôn lưng đầy đặn nét người nở nang”?

“Khuôn lưng” hay “khuôn trăng”/ “nét ngài” hay “nét người”? Câu hỏi làm tốn nhiều giấy mực. Hàng mấy chục năm qua, người đọc thơ nêu nhiều thắc mắc xoay quanh những lí giải khác nhau giữa các công trình biên soạn của các học giả đã chú thích, hiệu đính Truyện Kiều bằng quốc ngữ. Bên cạnh những biên soạn của  những người danh tiếng như Trương Vĩnh Ký, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Tài Cẩn… lại xuất hiện một số bài viết với các luận đoán sai vì chủ quan, vì chỉ biết Truyện Kiều qua chữ quốc ngữ, không hiểu được cái phức tạp trong cấu trúc chữ nôm.

Điểm mấu chốt: Việc phiên âm các bản kiều nôm.

Câu nào đưa ra nhân định đúng nhất về vẻ đẹp của Thúy Vân
Thúy Vân "mày rậm" hay thân hình nở nang?

(GDVN) - Một câu thơ 6 chữ của đại thi hào Nguyễn Du, tưởng chừng đơn giản, nhưng thời gian qua, cả trên sách giáo khoa, dường như mọi người đã hiểu chưa chuẩn về nó.

Truyện Kiều bao thế kỉ qua được mọi tầng lớp từ trí thức đến bình dân ưa chuộng nên được khắc ván in nhiều lần bằng chữ nôm. Số lượng bản Kiều nôm hiện sưu tầm được tương đối nhiều hơn so với các tác phẩm chữ nôm khác. Ngoài các bản lưu trữ ở thư viện trong và ngoài nước, hiện nay tại kho sách của ông Nguyễn Khắc Bảo, một thầy thuốc đông y ở Bắc Ninh có đến 52 bản Kiều nôm cổ, trong đó có một bản chép tay được cho là cuốn đã được dùng làm mẫu để khắc in bản Kiều nôm Liễu Văn Đường 1866. Tại đây cũng có một bản được sưu tầm từ hậu duệ gia đình anh trai thi hào Nguyễn Du là ông Nguyễn Trừ.

Nhiều bản Kiều nôm khác cũng đang được các học giả lưu giữ ở thư viện riêng. Đây là những căn cứ giúp ta có thể phân biệt được đúng sai.

Để xác định được “khuôn lưng” hay “khuôn trăng”; “nét ngài” hay “nét người” thì cần xem các bản Kiều nôm cổ.

"Khuôn lưng" hay "Khuôn trăng"?        

Trong chữ Hán, chữ nguyệt 月 và chữ nhục 肉 khác nhau - nhưng khi biến thành bộ(1), lại giống nhau, cùng viết là 月(2).

Ví dụ :

-    Chữ lãng 朗 gồm bộ nguyệt 月 bên phải và chữ lương 良 bên trái.

-    Chữ hồ 胡  gồm bộ nhục 月bên phải và chữ cổ 古 bên trái.

Tuy lãng và hồ có phần bên phải nhìn chẳng có gì khác nhau cả nhưng phần giống nhau này lại là 2 bộ khác nhau. Trong chữ lãng  là bộ nguyệt – còn trong chữ hồ là bộ nhục. Chính vì vậy, có nhiều người nhầm. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương hay chữ thế nhưng cũng nhầm! Cứ nghĩ họ hồ của mình được kết bởi 2 chữ cổ và nguyệt (胡 = 古+月), Hồ Xuân Hương đặt tên ngôi nhà ngâm vịnh thơ bên hồ Tây là Cổ Nguyệt đường. Thật ra chữ hồ kết thành bởi 2 chữ : cổ và nhục cho nên ngôi nhà này phải là Cổ Nhục đường mới đúng.

Khi tạo hình chữ nôm, các nhà Nho nước ta cũng rơi vào tình cảnh như vậy đối với 2 chữ:

Câu nào đưa ra nhân định đúng nhất về vẻ đẹp của Thúy Vân

Nhìn hai chữ thì tưởng hoàn toàn giống nhau đấy nhưng người đọc văn nôm phải biết phân biệt theo ngữ cảnh, khi nào thì đọc là “lưng”, khi nào lại đọc là “trăng”.

Nếu đọc là “lưng”  thì phải biết bộ 月nằm phía trái là bộ nhục (bởi lưng thuộc thân thể, tất phải có thịt [nhục] trong đó).

Nếu đọc là trăng thì bộ 月nằm phía trái lại là bộ nguyệt (trăng).

Điều oái oăm này đã xảy ra ở câu 20 của Truyện Kiều. Xin chứng minh trong khuôn khổ 5 bản Kiều nôm:

Câu nào đưa ra nhân định đúng nhất về vẻ đẹp của Thúy Vân

4 chữ này được hầu hết các nhà nghiên cứu đọc là “khuôn trăng đầy đặn”, chỉ có Trương Vĩnh Ký đã đọc là “khuôn lưng đầy đặn”. Gần đây học giả Nguyễn Quảng Tuân cũng đã phiên âm 4 chữ này của bản Kinh 1870 là “khuôn lưng đầy đặn”.

Câu nào đưa ra nhân định đúng nhất về vẻ đẹp của Thúy Vân
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                  

Một trang của bản Kiều nôm năm 1870 do học giả Nguyễn Quảng Tuân trong chuyến đi Mỹ năm 2000 được GS. Đàm Quang Hưng tặng. Đây là bản viết tay của Tiểu Tô Lâm – Noạ Phu chép tại kinh đô Huế năm 1870 khi đang làm quan ở bộ Công dưới triều Tự Đức. (6)

(Trang chữ bắt đầu từ câu 15. Đọc theo hàng dọc, từ phải sang.

Mỗi hàng dọc gồm 2 câu thơ.)

15. Đầu lòng hai ả tố nga.

16. Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.

17. Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
18. Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.

19. Vân xem trang trọng khác vời,
20. Khuôn lưng đầy đặn, nét người nở nang. 21. Hoa cười ngọc nói đoan trang,

22. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

23. Kiều càng sắc sảo mặn mà,
24. So bề tài sắc lại là phần hơn.

25. Nền thu thuỷ, thấp xuân sơn, 26. Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. 27. Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

28. Sắc đành có một, tài đành hoạ hai.

* Câu 18 và câu 20 có 2 chữ “người” được vòng mực đỏ.

Vấn đề đặt ra ở đây là: Vậy hiện nay, viết bằng quốc ngữ, ta nên chép câu này là “Khuôn trăng đầy đặn” hay “khuôn lưng đầy đặn”?

Câu nào đưa ra nhân định đúng nhất về vẻ đẹp của Thúy Vân
Nói nghe cũng kì nhưng quả thật chữ này đọc là trăng cũng được mà đọc là lưng cũng được. Nếu đọc là trăng thì đây là câu thơ tả người thiếu nữ có khuôn mặt đầy đặn, còn đọc là lưng thì lại hiểu ra là một nàng Thuý Vân mập mạp. Tuy vậy nên đọc là “khuôn trăng” thì hơn.

Để giải thích lí do, xin trích sau đây lời kể của GS. Nguyễn Huệ Chi:

Câu nào đưa ra nhân định đúng nhất về vẻ đẹp của Thúy Vân

lẫn chứ không tách bạch rạch ròi mà nghĩa vẫn thông với nhau - tôi hứng thú với cách phiên âm thứ hai và giơ tay tỏ ý biểu đồng tình, nhất là khi nghe chính một nhà bác học như Trương Vĩnh Ký từ lâu cũng đã từng phiên Khuôn lưng đầy đặn nét người nở nang (1875). Giữa lúc các soạn giả đang trầm ngâm cân nhắc ý kiến của tôi thì một nhà nghiên cứu có mặt trong cuộc họp, ông Lại Ngọc Cang, nay đã quá cố, bằng những lời sắc sảo, nêu câu hỏi chất vấn ngay. Theo ông, trong việc lựa chọn dị bản của Truyện Kiều, bên cạnh các tiêu chí như tự dạng chữ Nôm và ngữ âm học còn có tiêu chí cần hết sức chú trọng là quan niệm thẩm mỹ của tác giả. Ca dao chúng ta thường nói đến “Những cô thắt đáy lưng ong” để hình dung vẻ đẹp của phụ nữ. Thử tưởng tượng một Thúy Vân “khuôn lưng đầy đặn nét người nở nang” nghĩa là từ trên xuống dưới thẳng đuột, không còn chỗ nào gọi là “eo” nữa thì trong mắt Nguyễn Du có còn là “ả tố nga” (người đẹp) nữa hay không? Tất cả phòng họp chợt tỉnh ra và cười ồ lên…”

Căn cứ vào mặt chữ không được, ta đành phải nhờ vào suy luận dựa trên thực tế đời thường. Trước vấn đề này, An Chi cũng viết: “… Mới ở câu thứ 17, Nguyễn Du còn tả hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân là "mai cốt cách, (tuyết tinh thần)" thì có lẽ nào đến câu 20 ông lại "phản phé" mà ''thổi'' Thúy Vân lên thành một người đẹp có thân hình nở nang? Tiểu thuyết gia hạng xoàng còn chưa làm được như thế, huống hồ Nguyễn Du!...” (7)

Vậy có lẽ không nên theo cách phiên âm của cụ Trương Vĩnh Ký “khuôn lưng đầy đặn” được. Câu 20 nên đọc là “ khuôn trăng đầy đặn…”

B-  “NÉT NGƯỜI” HAY “NÉT NGÀI” ?

Cái khó trong khi viết và đọc chữ nôm là thế. Đến “nét ngài”- “nét người” cũng phức tạp không kém.

Cũng xem 5 câu nôm trích ở trên ta thấy:

Câu nào đưa ra nhân định đúng nhất về vẻ đẹp của Thúy Vân

Vậy nếu dùng bản Kinh đời Tự Đức 1870 chẳng hạn để phiên âm thì câu 20 là “Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang”; còn nếu dùng một số các bản Kiều nôm khác thì sẽ là “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”.

Hiện nay chưa ai biết được nguyên bản đầu tiên lúc cụ Nguyễn Du viết ra sao. Bây giờ chỉ có những bản chép lại của người đời sau thì phải tuân theo nguyên tắc là phiên âm trung thành với bản nôm có được. 2 bản nôm khác nhau sẽ cho 2 bản quốc ngữ khác nhau.

-    Đọc câu “Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang” ta hình dung được một Thuý Vân có khuôn mặt  đầy đặn với vẻ người tròn trịa, khác với Thuý Kiều. Cách tả này có vẻ toàn diện hơn và ăn khớp hơn với câu thơ trước đó : “Một người một vẻ mười phân vẹn mười”.

-    Nếu là “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” thì câu thơ chỉ tả được mặt của Thuý Vân: giữa khuôn mặt đầy đặn là nét mày ngài thanh tú đẹp đẽ(8). Cách tả này chỉ tập trung ở khuôn mặt, không hay bằng cách tả trên. Vậy nhưng nghĩa cả hai câu đều có thể chấp nhận được.

Đến đây ta khẳng định một điều ở câu 20: Tuỳ theo bản Kiều nôm dùng để phiên âm mà bản quốc ngữ sẽ có chữ “ngài” hay “người”. Không thể nào lí giải là vì thổ âm vùng Nghệ Tĩnh mà phát sinh ra bản Kiều viết “người” thành “ngài” được bởi vì Nguyễn Du viết Kiều là viết bằng chữ nôm chứ!

Câu nào đưa ra nhân định đúng nhất về vẻ đẹp của Thúy Vân

Ai lí giải là ở câu 20, Nguyễn Du viết chữ “người” nhưng do thổ âm Nghệ Tĩnh mà viết lệch thành “ngài” là chứng tỏ không biết gì về chữ nôm hoặc mơ hồ mà tưởng rằng thời Nguyễn Du đã dùng chữ quốc ngữ (!).

Chú thích:

Câu nào đưa ra nhân định đúng nhất về vẻ đẹp của Thúy Vân

Vậy nét ngài nở nang nên hiểu là nét mày đẹp chứ không nên hiểu là nét mày to, rậm.

NGUYỄN CẨM XUYÊN