Chim nào có hại cho nông nghiệp ví dụ

Các loài động vật xâm lấn mặc dù gây nguy hại cho môi trường, nhưng cũng đã từng giúp một số loài vật khác thoát khỏi nguy cơ tuyệt chủng.

Các nhà thám hiểm và người di cư Tây Ban Nha đã đưa lợn vào Mỹ như một nguồn thực phẩm vào đầu thế kỷ 16. Hiện chúng có mặt ở ít nhất 35 bang, và theo một nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Mỹ, lợn rừng gây thiệt hại 1,5 tỷ USD cho mùa màng, cây rừng, đê điều và sân gôn mỗi năm.

Nhưng những con lợn rừng dường như đã giúp báo Florida - một loài động vật cực kỳ nguy cấp thoát khỏi nguy cơ tuyệt chủng. Theo ước tính, chỉ có khoảng 150 con trưởng thành và con non đang sinh tồn trong tự nhiên.

Các nghiên cứu về chế độ ăn của loài này phát hiện ra rằng lợn rừng là con mồi chính của báo. Mark Lotz, một nhà sinh vật học về báo của Ủy ban Bảo tồn Động vật Hoang dã và Cá Florida cho biết: "Lợn rừng có thể đã cứu báo Florida khỏi nguy cơ tuyệt chủng. Những con báo trước đây thích ăn thịt hươu đuôi trắng, nhưng hươu đã bị tiêu hủy vào những năm 1930 để kiểm soát bọ ve gây bệnh cho gia súc. Với sự suy giảm của hươu, nơi duy nhất còn lại để báo săn mồi là miền nam Florida, nơi có số lượng lợn khá lớn".

Các loài chim trên khắp thế giới cũng hưởng lợi không ít từ sự phát triển của các loài xâm lấn. Ở Florida, phía bắc hồ Okeechobee, sự lan rộng của loài ốc táo (một loài ốc sên lớn hay được nuôi làm cảnh) - thoát ra môi trường tự nhiên do hoạt động buôn bán cá cảnh - đã dẫn đến một sự thay đổi đáng chú ý không chỉ trong chế độ ăn mà còn tới cả cơ thể của loài diều ăn sên đang có nguy cơ tuyệt chủng.

"Nhiều người nói rằng diều ăn sên sẽ không thể ăn ốc vì ốc táo quá to. Nhưng hóa ra loài chim này phát triển mỏ to hơn, và sự tiến hóa phát triển ngay trước mắt của chúng ta. Ốc táo xâm lấn xuất hiện khắp mọi nơi, và diều ăn sên cũng vậy," Tiến sĩ Mazzotti nói.

Phát triển song hành

Các nghiên cứu sau đó đã xác nhận những phát hiện về kích thước mỏ và phát hiện ra rằng những con diều ăn sên ở vùng đầm lầy sống nhờ ốc táo xâm lấn có sức khỏe tốt hơn và có tỷ lệ sống cao hơn trong khoảng giai đoạn 10 năm.

Robert J. Fletcher Jr., một chuyên gia về diều ăn sên từ Đại học Florida cho biết: “Chúng tôi cũng phát hiện ra rằng diều ăn sên cái thích sinh sản với những con đực có mỏ lớn hơn. Bất chấp sự thích nghi như vậy và sự thay đổi chế độ ăn giữa các loài săn mồi đứng đầu chuỗi thức ăn, các loài xâm lấn vẫn đang thắng thế.

Ví dụ, hồi năm 2015, Australia đã mất 29 loài động vật có vú và những kẻ săn mồi hoang dã có liên quan đến 28 trong số những vụ tuyệt chủng này".

Florida phải đối mặt với các vấn đề xâm lấn tương tự vì nó có những yếu tố lí tưởng: khí hậu cận nhiệt đới, hoạt động buôn bán vật nuôi phát triển mạnh và nhiều cảng nhập cảnh. Theo Ian Bartoszek, một nhà sinh vật học động vật hoang dã thuộc Tổ chức Bảo tồn Tây Nam Florida, hậu quả là bang Florida có "nhiều loài động vật không bản địa hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới." Hoặc, như Tiến sĩ Mazzotti nói về Everglades: "Tôi sẵn sàng gọi nó là Vườn quốc gia bò sát xâm lấn Everglades."

Everglades đang đón nhiều tin tốt. Theo ông Bartoszek, khi trăn Miến Điện ăn các loài động vật có vú cỡ trung bình - vốn có khả năng ăn trứng của các loài bò sát - thì những con rùa biển và cá sấu Mỹ cũng có thể được hưởng lợi.

Cho đến nay, đây là những thắng lợi tương đối nhỏ trong nỗ lực lớn hơn để chống lại các loài xâm lấn. Theo ông Bartoszek, 47 loài chim, 24 loài động vật có vú và hai loài bò sát đã được tìm thấy trong bụng của trăn.

Và ở Mỹ, giống như ở Australia, sẽ cần nhiều giải pháp hơn cá sấu để hạn chế những loài xâm lấn gây hại. Những loài săn mồi ăn các loài xâm lấn ở đâu, vẫn còn nhiều điều chưa chắc chắn. Tiến sĩ Mazzotti nói: "Có những ví dụ rõ ràng nào về việc một loài có thể và đã được hưởng lợi từ một loài xâm lấn không? Những hậu quả khác là gì? Chúng tôi không chắc chắn nhiều về điều đó".

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đấu tranh sinh học là việc sử dụng các thiên địch (sinh vật tiêu diệt sinh vật có hại), gây bệnh truyền nhiễm và gây vô sinh ở động vật gây hại nhằm hạn chế tác động gây hại của sinh vật gây hại.

Các biện pháp đấu tranh sinh học[sửa | sửa mã nguồn]

Sử dụng thiên địch tiêu diệt sinh vật gây hại[sửa | sửa mã nguồn]

Ở từng địa phương đều có những thiên địch gần gũi với con người như: mèo diệt chuột, gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng) để tiêu diệt các loài sâu bọ, cua, ốc mang vật chủ trung gian. Chẳng hạn như: cá đuôi cờ, thằn lằn, cóc, sáo, cú ăn bọ gậy và ăn ấu trùng sâu bọ hoặc rắn sọc dưa, cắt, mèo rừng ăn chuột gây hại cho lúa. Ngoài ra, còn có các thiên địch đẻ trứng ký sinh vào sinh vật gây hại hay trứng của sâu hại, sử dụng vi khuẩn gây bệnh truyền nhiễm và gây vô sinh động vật gây hại.

Sử dụng thiên địch đẻ trứng ký sinh vào sinh vật gây hại hoặc trứng của sâu hại[sửa | sửa mã nguồn]

Cây xương rồng được nhập vào nhiều nước để làm bờ rào và thuốc nhuộm. Khi cây xương rồng phát triển quá mạnh, người ta đã sử dụng một loài bướm đêm từ Argentina. Bướm đêm đẻ trứng lên cây xương rồng, ấu trùng nở ra, ăn cây xương rồng.

Mặt khác, ong mắt đỏ đẻ trứng lên trứng sâu xám (trứng sâu hại ngô). Ấu trùng nở ra, đục và ăn trứng sâu xám.

Sử dụng vi khuẩn gây hại truyền cho sinh vật gây hại[sửa | sửa mã nguồn]

Vào 1859, người ta nhập 12 đôi thỏ vào Úc. Đến 1900, số thỏ này lên đến vài trăm triệu con và trở thành động vật có hại. Người ta đã dùng vi khuẩn Myoma gây bệnh cho thỏ. Sau 10 năm chỉ với 1% số thỏ sống sót được miễn dịch, đã phát triển mạnh. Khi đó người ta đã phải dùng vi khuẩn Calixi thì thảm họa về thỏ mới cơ bản được giải quyết.

Gây vô sinh diệt động vật gây hại[sửa | sửa mã nguồn]

Ở miền Nam nước Mỹ, để diệt loài ruồi gây viêm loét ở da ở bò, người ta đã làm tuyệt sản ruồi đực. Ruồi cái không sinh đẻ được.

Ưu điểm và hạn chế.[sửa | sửa mã nguồn]

Ưu điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Sử dụng đấu tranh sinh học đã mang lại những hiệu quả cao, tiêu diệt những loài sinh vật có hại, thể hiện nhiều ưu điểm so với thuốc trừ sâu, diệt chuột. Những loại thuốc này gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm rau, quả, ảnh hưởng xấu tới sinh vật có ích và sức khỏe con người, gây hiện tượng quen thuốc, giá thành còn cao.

Hạn chế[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều loài thiên địch được di nhập, vì không quen với khí hậu địa phương nên phát triển kém.

Ví dụ: kiến vống được sử dụng để diệt sâu hại lá cam, sẽ không sống được ở những địa phương có mùa đông quá lạnh. Thiên địch không diệt hết được sinh vật gây hại mà chỉ kìm hãm sự phát triển của chúng. Vì thiên địch thường có số lượng ít và sức sinh sản thấp, chỉ bắt được những con mồi yếu hoặc bị bệnh. Khi thiên địch kém phát triển hoặc bị tiêu diệt, sinh vật gây hại được miễn dịch, thì sinh vật gây hại lại tiếp tục phát triển.

Sự tiêu diệt loài sinh vật có hại này lại tạo điều kiện cho loài sinh vật khác phát triển.

Ví dụ: Để diệt loài cây cảnh Lantana có hại ở quần đảo Hawaii, người ta đã nhập 8 loài sâu bọ là thiên địch của loài cây cảnh này. Khi cây cảnh bị tiêu diệt, đã làm giảm số lượng chim sáo chuyên ăn cây cảnh, nên làm tăng số lượng sâu hại ruộng mía vốn là mồi của chim sáo. Kết quả là diệt được một loài cây cảnh có hại song sản lượng mía đã bị giảm sút nghiêm trọng.

Đối với nông nghiệp, chim sẻ vào đầu xuân, thu và đông, ăn lúa, thậm chí ở nhiều vùng còn ăn cả mạ mới gieo. Vậy chim sẻ là chim có hại. Về mùa sinh sản, cuối xuân đầu hè, chim sẻ ăn nhiều sâu bọ có hại cho nông nghiêp. Vậy là chim sẻ có ích..

Qua thực tế, có một giai đoạn Trung Quốc tiêu diệt chim sẻ (vì cho rằng chim sẻ có hại), nên đã bị mất mùa liên tiếp trong một số năm. Thực tế đó đã chứng minh chim sẻ là chim có ích cho nông nghiệp.