Chữ nôm chính thức xuất hiện vào thời kỳ nào

Tiếng n�i của người Việt trước khoảng thế kỷ thứ 18 (năm 1700-1800) ch�nh l� tiếng N�m. N�m n�i trại từ NAM. Tiếng N�m l� tiếng của người nước Nam. Tiếng N�m c� ph�t �m gần giống nhưng kh�ng giống y như tiếng Việt ng�y nay. Tiếng N�m c� chữ viết gọi chữ N�m.

Chữ N�m v� ph�t �m tiếng N�m ch�nh n� cũng biến chuyển qua nhiều thế kỷ. Cũng biến chuyển như tiếng H�n, hay bất cứ ng�n ngữ n�o tr�n thế giới. Hiện nay c�c học giả Việt vẫn chưa x�c nhận được chữ N�m xuất hiện v�o thời kỳ n�o. Người ta chỉ biết chắc v�i ba điểm quan trọng như sau:

  • Chữ N�m xuất hiện sau khi nước Nam Việt bị nh� H�n x�m chiếm v� đ� hộ. C� lẽ xuất hiện trong khoảng từ thế kỷ thứ 3 đến thứ 8. Giả thuyết chữ N�m ra đời ở thế kỷ thứ 3 cho rằng chữ N�m do th�i th� Sĩ Nhiếp s�ng chế ra khi được nh� H�n bổ nhiệm sang cai trị nước Nam (187-226). Giả thuyết chữ N�m xuất hiện ở thế kỷ thứ 8 nối liền chữ N�m với danh xưng Bố C�i Đại Vương d�nh cho Ph�ng Hưng (năm 791).
  • Trước khi chữ N�m xuất hiện, d�n nước Nam c� lối chữ viết thường gọi �chữ n�ng nọc� � bao gồm những n�t nguấy nguấy giống h�nh con n�ng nọc. Loại chữ n�y y như chữ người Mường c�n giữ lại cho đến v�i thế kỷ gần đ�y. V� c� lẽ c�ng gốc g�c với thứ chữ viết của người Th�i Lan. Trong c�c nh�m ng�n ngữ từ thời cổ đại của tất cả c�c khối d�n tộc cư ngụ ở nước An Nam, nh�m ng�n ngữ Việt Mường l� nh�m lớn nhất.
  • Trong khi tiếng N�m l� tiếng n�i của người nước Nam, số người biết đọc v� biết viết chữ N�m qua nhiều thế kỷ kh�ng bao giờ hơn qu� 10 phần trăm của tổng d�n số. Trong chốn quan trường, h�nh ch�nh v� khoa bảng, chữ H�n qua c�ch ph�t �m gọi n�m na l� tiếng H�n Việt, mới l� ng�n ngữ ch�nh thức của cả nước Nam. Chữ N�m qua nhiều thời đại l�c n�o cũng mang địa vị của một ph� thường d�n. Kh�ng được điển ch�. Kh�ng chiếm được vị tr� của một cơ viện. N�n chữ N�m bị thả lỏng, một từ mang nhiều c�ch viết. Ai muốn viết kiểu n�o th� viết.

Chữ N�m c� ba đặc t�nh cơ bản.

  1. Thứ nhất bởi ở vị tr� ph� thường d�n, N�m thường bị c�c nh� Nho, nh� quan khinh thị. N�m na l� cha m�ch que l� c�u n�i ti�u biểu cho việc hạ cấp chữ N�m đ�. Cũng ở l� do n�y, rất nhiều nh� Nho s�ng t�c những bản thi văn chữ N�m rất hay nhưng thường lại th�ch ẩn danh kh�ng để lộ t�n thật. Chinh Phụ Ng�m kh�ng biết do Đo�n Thị Điểm hay Phan Huy �ch phi�n dịch từ chữ H�n sang N�m, l� một trường hợp điển h�nh. Hoặc c� giả thuyết cho rằng Hồ Xu�n Hương c� thể chỉ một b�t danh do nhiều nh� Nho ph�i Nam th�ch s�ng t�c thơ tả ch�n nhưng kh�ng d�m lộ diện bởi n� vừa n�m na vừa tục n�n g�n cho một nữ sĩ mang t�n Hồ Xu�n Hương.
  2. Thứ hai, chữ N�m c� rất nhiều từ mang t�nh đồng �m dị nghĩa. Th� dụ: ng�i c�ng một ph�t �m, nhưng mang rất nhiều nghĩa: nghĩa con tằm, nghĩa ng�i để xưng h� người c� chức phận. Đ�ng mang nghĩa hướng, v�ng (đ�ng Trong đ�ng Ngo�i), mang nghĩa đường (l�n đ�ng, l�n đường). Đ� c� nghĩa đ� bằng ch�n v� cũng mang nghĩa h�n đ�. Loi thoi l� từ rất cổ mang nghĩa lẻ loi, rất dễ nhầm với l�i th�i lếch thếch. V�i, ph�t �m cổ của vời (tuyệt vời) tr�ng �m với một v�i b�ng hoa.
  3. Thứ ba, bởi kh�ng được triều đ�nh nh�n nhận v� hệ thống ho�, chữ N�m mang đặc t�nh tai hại mạnh ai nấy viết. Một từ th�ng thường c� �t lắm 3, 4 c�ch viết kh�c nhau v� c� thể biến đổi theo thời đại, nhất l� sau khi chữ quốc ngữ bắt đầu được thịnh h�nh v� thay thế dần dần chữ N�m.

Bởi mang nhiều yếu điểm, v� mu�n phần phức tạp, chỉ trong v�ng tr�n dưới 200 năm (từ khoảng 1651 đến 1850) chữ N�m bị chữ Quốc ngữ ho�n to�n thay thế. Điểm cần nhấn mạnh, trong qu� tr�nh chữ N�m thay thế bằng Quốc ngữ c� rất nhiều từ phải biến đổi c�ch đọc. C� lẽ để giải quyết cảnh đồng �m dị nghĩa đầy dẫy trong tiếng N�m. V� cũng trong qu� tr�nh thay thế đ�, theo thiển �, c� rất nhiều điểm biến chuyển, ng�nh ng�n ngữ học Việt Nam hiện vẫn chưa giải đ�p thoả đ�ng. Sẽ trở lại vấn đề n�y ở ph�a dưới.

Một điểm kh�c cũng đ�ng để �. Việc học hỏi chữ N�m trong thế kỷ 20 vừa qua vẫn c�n mang nặng tập tục l�o sư với đồ đệ như xưa. Thầy dạy sao học tr� học y như vậy. Việc truyền tụng chữ N�m trong khung cảnh ri�ng tư đ�, thường thiếu thốn kiểm chứng, v� l� luận theo tinh thần khoa học T�y Phương. Nhiều sai nhầm được truyền tụng từ đời n�y sang đời kia, v� những sai nhầm đ� vẫn được tưởng rằng chứa đầy t�nh x�c thực. Th� dụ, vũ mang nghĩa l�ng chim phải được k� �m yũ mới đ�ng với c�ch viết, c�ch ph�t �m chữ N�m, chữ T�u. Việt trong Việt Nam chắc chắn đ� được tiền nh�n đọc Yiệt - mới ph� hợp với c�ch ph�t �m người Mường, người Quảng Đ�ng, Bắc Kinh, Nhật Bản, v� c�ch viết của chữ N�m.

Chữ N�m th�ng thường được viết bằng c�ch vay mượn một từ thẳng từ chữ H�n hoặc phối hợp hai hoặc ba từ chữ H�n viết ch�m với nhau. Th� dụ: