Đánh giá sử ký tư mã thiên phạm hồng năm 2024

"Sử ký" là tác phẩm sử học lớn nhất của Trung Hoa và là một trong những bộ sử kinh điển nhất của thế giới. Đặc biệt, thú vị hơn nữa, do tính chất “văn sử bất phân” của bộ sách, "Sử ký" từ lâu còn được coi là một trong những tác phẩm văn học lớn của nhân loại. Bộ sử vĩ đại này được Tư Mã Thiên viết từ năm 109 TCN đến năm 91 TCN, miêu tả tổng quát về lịch sử Trung Quốc bao trùm 2000 năm từ Hoàng Đế thần thoại cho đến thời ông sống - đời Hán Vũ Đế. Công trình này là nền tảng cho các phát triển sau này trong sử học và văn chương Trung Hoa.

"Sử ký" là một tác phẩm đồ sộ với 52 vạn chữ, 130 thiên, chia làm nhiều phần gồm: Bản kỉ, Biểu, Thư, Thế gia, Liệt truyện, trong đó phần Bản kỉ có 12 thiên, phần Biểu có 10 thiên, phần Thư có 8 thiên, phần Thế gia có 30 thiên, phần liệt truyện có 70 thiên, tất cả hợp thành một thế giới bao la rợn ngợp.

Ở Việt Nam, tuy trước nay có một số bản dịch Sử ký đã được xuất bản, như bản dịch của Nhượng Tống do Tân Việt xuất bản năm 1944, bản dịch của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê do Nxb Sài Gòn xuất bản năm 1970, bản dịch của Nhữ Thành (tức Phan Ngọc) do Nxb Văn học xuất bản năm 1963… song tất cả đều hoặc là bản dịch mang tính nhập môn giới thiệu sơ lược, hoặc là bản trích dịch, lược dịch, không đầy đủ.

Nhà nghiên cứu, dịch giả Trần Quang Đức chia sẻ, thường người Việt Nam đọc sử Trung Quốc không phải đọc qua sách mà là “đọc” qua phim, mà phim so với chính sử thì khoảng cách quá xa. Tại buổi ra mắt, nói về quá trình dịch tác phẩm kinh điển này, Trần Quang Đức cho biết, đọc hiểu "Sử ký" đã khó nhưng phiên dịch nó còn khó hơn nhiều bởi "Sử ký" được viết bằng thứ Hán văn cổ đã quá xa với tư duy ngôn ngữ hiện đại (ngay ở Trung Quốc hay Đài Loan hiện tại cũng cần có nhiều bản dịch ra tiếng Trung hiện đại để độc giả có thể tiếp cận). Cái khó nữa của việc dịch "Sử ký" là, bản thân tiếng Hán tương đồng với tiếng Việt ở chỗ là thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, cho nên dịch tiếng Hán không thể dịch ý như dịch ngôn ngữ Ấn - Âu. Hiện nay ở Trung Quốc có khá nhiều bản in "Sử ký" khác nhau, Trần Quang Đức chủ yếu sử dụng bản được coi là tốt nhất hiện nay: bản “Tam gia chú” (Ba nhà chú thích).

Báo chí giới thiệu

Nhà nghiên cứu 8X dịch trọn bộ 'Sử ký' của Tư Mã Thiên

Trần Quang Đức là nhà nghiên cứu Hán - Nôm, sinh năm 1985. Anh vừa cho ra mắt "Bản Kỷ" - phần đầu cũng là phần quan trọng nhất của bộ Sử ký nổi tiếng.

Sử Ký là tác phẩm Sử học lớn nhất của Trung Hoa. Bộ sách vĩ đại này miêu tả tổng quát về lịch sử Trung Quốc bao trùm 2.000 năm, từ Hoàng Đế đến đời Hán Vũ Đế. Việt Nam trước đây có một số bản dịch Sử Ký của Tư Mã Thiên được xuất bản, như bản dịch của Nhượng Tống (1944), hay bản dịch của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (1970), bản của Nhữ Thành (1963). Nhưng tất cả các bản dịch hoặc có tính nhập môn giới thiệu sơ lược, hoặc là bản dịch tuyển chọn lại, không đầy đủ.

Trần Quang Đức (tác giả cuốn cuốn Ngàn năm áo mũ) từ lâu muốn dịch bộ Sử Ký cho trọn vẹn, nhưng rồi công việc nghiên cứu cuốn anh đi. Cho tới khi công ty sách Nhã Nam tìm người chuyển ngữ bộ sách sử giá trị này, Trần Quang Đức mới có được cú hích để bắt tay vào việc. Sau hai năm miệt mài, Bản Kỷ - phần đầu tiên và cũng là phần quan trọng nhất của Sử Ký - đã được Trần Quang Đức cho ra mắt độc giả Việt Nam hôm 28/9.

Đánh giá sử ký tư mã thiên phạm hồng năm 2024

Dịch giả Trần Quang Đức (phải) và nhà nghiên cứu Hán - Nôm Trần Trọng Dương.

Phần Bản Kỷ chia làm 12 thiên, ghi lại tiểu sử của những vị vua nổi tiếng từ thời vị Hoàng Đế thần thoại cho tới Tần Thủy Hoàng và các vị vua nhà Hạ, Thương, Chu. Tiểu sử của bốn vị hoàng đế và một hoàng hậu nhiếp chính (Cao Tổ, Lữ Hậu, Hiếu Văn, Hiếu Cảnh, Hiếu Vũ) nhà Tây Hán trước thời Tư Mã Thiên cũng được cho vào phần này. Bởi thế, Bản Kỷ là cuốn quan trọng nhất trong toàn bộ Sử Ký.

Trần Quang Đức cho biết khó khăn lớn nhất khi dịch là cuốn sách được viết từ quá lâu, ngôn ngữ Hán cổ so với tiếng Hán hiện đại khác nhau rất nhiều. “Sử Ký được viết cách nay 2.000 năm. Nhưng vào thời điểm Tư Mã Thiên viết, ông cũng sử dụng những tư liệu, ngôn ngữ viết bằng tiếng Hán của 3.000 năm trước đó. Có nghĩa là tôi phải đọc, hiểu chữ Hán của 3.000, 4.000 năm về trước”, anh nói. Mặt khác, ngôn ngữ trong Sử Ký cực kỳ súc tích, mức độ co về ngôn ngữ lớn. Có những câu Tư Mã Thiên dùng chỉ vài từ, mà khi dịch, Quang Đức phải diễn giải cả đoạn. Đó là một trong những điểm làm khó cho dịch giả.

Để có thể hiểu thấu đáo Sử Ký, Trần Quang Đức đã phải dựa vào nhiều bản chú giải. Anh cho biết, ở Trung Quốc hiện có khoảng 40 bản Sử Ký Bạch thoại khác nhau. Anh đã tham khảo Sử Ký Tam gia chú (gồm ba bản Sử Ký tập giải của Bùi Nhân đời Lưu Tống, bản Sử Ký sách ẩn của Tư Mã Trinh đời Đường và Sử Ký chính nghĩa của Trương Thủ Tiết đời Đường). Anh cũng tham khảo bản dịch hiện đại có tên Nhị Thập Tứ Sử toàn dịch.

Nếu như trong một số cuốn sách Sử được dịch ngày nay thường đôi chỗ xuất hiện dấu ba chấm (…), là những đoạn người dịch chưa tường tận, thì Bản Kỷ của Trần Quang Đức không có một khoảng mờ nào như vậy. Tác giả tự tin đã làm sáng nghĩa những chỗ khó hiểu của bản gốc khi dịch. “Nếu như có đoạn khó, không chắc chắn, tôi sẽ chú vào đó những giai thoại, những thuyết khác cùng nói về một sự kiện. Ví dụ, sự kiện này là A, nhưng tôi sẽ chú thêm rằng, cũng có thuyết cho nó là B, là C. Tuy nhiên, những đoạn như vậy trong bản dịch của tôi không nhiều” – Trần Quang Đức nói.

Nói về độ chính xác của các sự kiện ghi trong cuốn Sử Ký, Trần Quang Đức đưa ra quan điểm: “Chúng ta không thể nói được những gì ghi trong sách Sử là chân sự thật, mà chỉ có thể tiệm cận hơn với sự thật mà thôi”. Tuy nhiên, anh cũng cho rằng những gì Tư Mã Thiên viết trong cuốn Sử Ký có độ tin cậy cao, bởi cách làm cẩn thận, khách quan của vị quan Thái Sử. Tư Mã Thiên cũng được thừa hưởng những tư liệu sử sách của cha (vốn là một vị quan chép sử) để lại. Ông cũng phải đi nhiều vùng, để nghe, tìm hiểu, đối chiếu với sử liệu. Như vậy, cách làm của Tư Mã Thiên là kết hợp những Sử liệu thành văn với điều tra điền dã.

Trần Quang Đức đang dịch những phần tiếp theo của Sử Ký, gồm: Biểu (10 thiên), Thư (8 thiên), Thế gia (30 thiên), Liệt truyện (70 thiên). Anh cho biết, trong phần Liệt truyện có những đoạn nhắc tới Việt Nam.