Hướng dẫn tội gây rối trật tự công cộng Informational, Transactional

(LSVN) - Theo Luật sư, gây rối trật tự công cộng là hành vi vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Người có hành vi gây rối có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị xử lý hình sự về tội "Gây rối trật tự công cộng".

Hướng dẫn tội gây rối trật tự công cộng	Informational, Transactional

Ảnh minh họa.

Thế nào là hành vi gây rối trật tự công cộng, hành vi này sẽ bị xử lý thế nào theo quy định pháp luật hiện nay?

Liên quan đến vấn đề này, Luật sư Nguyễn Đức Hùng, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, hành vi gây rối trật tự công cộng được hiểu là hành vi cố ý làm mất tình trạng ổn định, có tổ chức, có kỷ luật ở nơi công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thậm chí có thể gây ra thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.

Hành vi này diễn ra ở tại nơi công cộng, nơi các hoạt động xã hội được diễn ra thường xuyên và có thể xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, tài sản của con người.

Theo Luật sư, các ví dụ điển hình cho hành vi gây rối trật tự công cộng được biểu hiện cụ thể như: Cử chỉ, lời nói thiếu văn hóa, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của một hoặc nhiều người; Có hành vi phá phách hoặc làm ô uế các công trình, thiết bị ở nơi công cộng; Tụ tập, hò hét, đua xe trái phép; Hành hung người làm nhiệm vụ hoặc người tự nguyện tham gia bảo vệ trật tự nơi công cộng; Tụ tập ẩu đả, đánh nhau ở nơi công cộng…

Theo quy định tại Điều 318, Bộ luật Hình sự 2015, người nào gây rối trật tự công cộng mà gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây rối trật tự công cộng.

Theo đó, người vi phạm sẽ bị phạt tiền từ 05 - 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng - 02 năm.

Phạt tù từ 02 - 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Có tổ chức; Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách; Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng; Xúi giục người khác gây rối; Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng; Tái phạm nguy hiểm.

Hành vi gây rối trật tự công cộng có thể bị coi là tội phạm nếu thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật. Có thể thấy, tội "Gây rối trật tự công cộng" đã được quy định từ rất sớm trong các sắc luật và được quy định thành một tội độc lập trong Bộ luật hình sự năm 1985. Trải qua từng thời kỳ, từng giai đoạn khác nhau các cấu thành tội phạm của tội gây rối trật tự công cộng đã được các nhà làm luật sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm tính kế thừa và phát triển từ Bộ luật hình sự năm 1985 đến Bộ luật hình sự năm 1999 và gần đây là Bộ luật hình sự năm 2015. Cụ thể: Theo khoản 1, Điều 245 của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định: “Người nào gây rối trật tự cộng cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt về hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm“. Khoản 1, Điều 318 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định: “Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm". Như vậy, có thể thấy yêu cầu về hậu quả để cấu thành tội gây rối trật tự công cộng giữa BLHS 1999 và BLHS 2015 đã có sự thay đổi từ "gây hậu quả nghiêm trọng" thành "gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn, xã hội". Điều đó cho thấy, cấu thành cơ bản của tội gây rối trật tự công cộng theo khoản 1 điều 318 BLHS năm 2015 nặng hơn so với khoản 1 điều 245 BLHS năm 1999; có nghĩa là theo BLHS năm 2015 chỉ cần hành vi gây rối trật tự công cộng "gây ảnh hưởng xấu" là đã phạm tội chứ không nhất thiết phải là "gây hậu quả nghiêm trọng" như quy định của BLHS năm 1999. Theo Tiểu mục 5.1 của Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã hướng dẫn cụ thể về "gây hậu quả nghiêm trọng" trong tội gây rối trật tự công cộng như sau: “5.1. Hành vi gây rối trật tự công cộng mà để hậu quả xảy ra thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là "gây hậu quả nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 245 Bộ luật Hình sự:

  1. Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ;
  2. Cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;
  3. Thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên;
  4. Chết người; đ. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
  5. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% trở lên;
  6. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên;
  7. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên. Ngoài các hậu quả xảy ra về tính mạng, sức khoẻ và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, ngoại giao, đến trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra có phải là nghiêm trọng hay không.” Tuy nhiên, hậu quả của việc gây rối trật tự công cộng "gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” theo quy định của BLHS năm 2015 thì hiện nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn hay quy định cụ thể mặc dù BLHS năm 2015 đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Điều này đã gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội gây rối trật tự công cộng. Theo quan điểm cá nhân, trong thời gian chờ văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn nên áp dụng các trường hợp "gây hậy quả nghiêm trọng" theo hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 của Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP để xử lý đối với những hành vi gây rối trật tự công cộng bảo đảm theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội. Tuy nhiên, để bảo đảm tính nghiêm minh, thống nhất của pháp luật, đề nghị các cơ quan Trung ương có thẩm quyền sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về hành vi gây rối trật tự công cộng "gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội" để giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.