Khấu trừ giá do hàng hóa không đúng thỏa thuận năm 2024

Khấu trừ giá do hàng hóa không đúng thỏa thuận năm 2024
Hỏi:

Kính gửi Bộ Tài Chính Tôi có câu hỏi muốn nhờ được giải đáp như sau: Theo Điều 10, Thông tư 151/2014/TT-BTC ngày 10/10/2014, sửa đổi, bổ sung điểm c Khoản 3 Điều 15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC; Theo điểm c khoản 10 Điều 1 Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/2/2015 của Bộ Tài chính quy định về việc thanh toán hàng hóa trả chậm; Năm 2020, 2021 Công ty chúng tôi có các hoá đơn quá hạn thanh toán trên hợp đồng, qua năm 2022 chúng tôi đã thanh toán hết những hoá đơn đó bằng chứng từ thanh toán qua ngân hàng, Công ty chúng tôi có phải làm Phụ lục gia hạn thời gian thanh toán trên hợp đồng đến năm 2022 mới được tính thuế GTGT khấu trừ hay chỉ cần thoả thuận qua điện thoại với đối tác. Kính mong Bộ Tài Chính hướng dẫn cho Công ty chúng tôi để làm đúng theo các Thông tư đã ban hành. Xin chân thành cảm ơn!

14/12/2022

- Căn cứ khoản 10, Điều 1, Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/02/2015 của Bộ Tài chính (đã được sửa đổi, bổ sung tại Điều 1 Thông tư số 173/2016/TT-BTC ngày 28/10/2016) sửa đổi, bổ sung Điều 15, Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính quy định điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào như sau:

“1. Có hóa đơn giá trị gia tăng hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối với các tổ chức nước ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.

2. Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào (bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu) từ hai mươi triệu đồng trở lên, trừ các trường hợp giá trị hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng, hàng hóa, dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn dưới hai mươi triệu đồng theo giá đã có thuế GTGT và trường hợp cơ sở kinh doanh nhập khẩu hàng hóa là quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài.

Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt gồm chứng từ thanh toán qua ngân hàng và chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt khác hướng dẫn tại khoản 3 và khoản 4 Điều này.

3. Chứng từ thanh toán qua ngân hàng được hiểu là có chứng từ chứng minh việc chuyển tiền từ tài khoản của bên mua sang tài khoản của bên bán mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo các hình thức thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành như séc, ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi, ủy nhiệm thu, nhờ thu, thẻ ngân hàng, thẻ tín dụng, sim điện thoại (ví điện tử) và các hình thức thanh toán khác theo quy định (bao gồm cả trường hợp bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua sang tài khoản bên bán mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân sang tài khoản bên bán).

...

  1. Đối với hàng hoá, dịch vụ mua trả chậm, trả góp có giá trị hàng hoá, dịch vụ mua từ hai mươi triệu đồng trở lên, cơ sở kinh doanh căn cứ vào hợp đồng mua hàng hoá, dịch vụ bằng văn bản, hoá đơn giá trị gia tăng và chứng từ thanh toán qua ngân hàng của hàng hoá, dịch vụ mua trả chậm, trả góp để kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng thì cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.

Trường hợp khi thanh toán, cơ sở kinh doanh không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì cơ sở kinh doanh phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã được khấu trừ đối với phần giá trị hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng vào kỳ tính thuế phát sinh việc thanh toán bằng tiền mặt (kể cả trong trường hợp cơ quan thuế và các cơ quan chức năng đã có quyết định thanh tra, kiểm tra kỳ tính thuế có phát sinh thuế GTGT đã kê khai, khấu trừ). ...”.

Căn cứ vào các quy định nêu trên, Cục Thuế tỉnh Bình Dương trả lời theo nguyên tắc như sau:

Trường hợp Công ty mua hàng hóa để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh theo hình thức trả chậm được quy định trong hợp đồng mua bán ký với khách hàng có giá trị trên hai mươi triệu đồng, nếu Công ty chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng thì Công ty vẫn được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa nêu trên.

Đến thời hạn thanh toán ghi trong hợp đồng Công ty vẫn chưa thanh toán cho khách hàng nên chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì Công ty chưa phải điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã kê khai khấu trừ. Khi thanh toán thực tế, nếu Công ty không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng (thanh toán bằng tiền mặt) thì hóa đơn mua vào đã kê khai không đủ điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Công ty phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã được khấu trừ tương ứng với phần giá trị hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng vào kỳ tính thuế phát sinh việc thanh toán thực tế.

Việc lựa chọn hình thức gia hạn thời gian trả chậm theo hợp đồng mua bán đã ký giữa hai bên không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan thuế. Đề nghị độc giả căn cứ hướng dẫn nêu trên, đối chiếu với tình hình sản suất kinh doanh thực tế tại đơn vị để thực hiện theo đúng quy định.