Kinh tế chính trị tầm thường là gì

Cuối thế kỷ XVII, khi quá trình tích luỹ ban đầu của chủ nghĩa tư bản đã kết thúc và thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu, nhiều vấn đề kinh tế của chủ nghĩa tư bản đặt ra vượt quá khả năng giải thích của chủ nghĩa trọng thương, đòi hỏi phải có lý luận mới. Vì vậy, kinh tế chính trị tư sản cổ điển đã ra đời và phát triển mạnh ở Anh và Pháp.

Kinh tế chính trị tư sản cổ điển ở Anh mở đầu từ Uyliam Pétti (1623-1687) đến Ađam Xmít (1723-1790) và kết thúc ở Đavít Ricácđô (1772-1823). U. Pétti được mệnh danh là người sáng lập ra kinh tế chính trị tư sản cổ điển; A. Xmít là nhà kinh tế của thời kỳ công trường thủ công; Đ. Ricácđô là nhà kinh tế của thời kỳ đại công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản, là đỉnh cao lý luận của kinh tế chính trị tư sản cổ điển.

Các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển đã chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, mà trong đó “lao động làm thuê của những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho những người giàu”. Lần đầu tiên các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển đã áp dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học để nghiên cứu các hiện tượng và quá trình kinh tế để vạch ra bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, trường phái này đã nêu được một cách có hệ thống các phạm trù và quy luật kinh tế của xã hội tư bản như: giá trị, giá cả, tiền tệ, tư bản, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tiền lương, tái sản xuất xã hội… Đồng thời họ là những người ủng hộ tự do cạnh tranh theo cơ chế thị trường tự điều chỉnh.

READ:  Tầm chương trích cú là gì?

Tuy nhiên, các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển còn nhiều hạn chế, coi quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản là quy luật tự nhiên, tuyệt đối, vĩnh viễn. Nhận xét chung về kinh tế chính trị tư sản cổ điển, C. Mác viết: “Ricácđô, người đại biểu vĩ đại cuối cùng của nó, rốt cuộc cũng đã lấy một cách có ý thức sự đối lập giữa những lợi ích giai cấp, giữa tiền công và lợi nhuận, giữa lợi nhuận và địa tô, làm khởi điểm cho công trình nghiên cứu của mình và ngây thơ cho rằng sự đối lập đó là một quy luật tự nhiên của đời sống xã hội. Với điều đó, khoa học kinh tế tư sản đã đạt tới cái giới hạn cuối cùng không thể vượt qua được của nó”

Đầu thế kỷ XIX, khi cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành, mâu thuẫn kinh tế và giai cấp của chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ rõ nét: 1825 mở đầu cho các cuộc khủng hoảng kinh tế có chu kỳ, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản ngày càng lớn mạnh đe doạ sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, trường phái kinh tế chính trị tư sản tầm thường đã xuất hiện nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản, biện hộ một cách có ý thức cho chủ nghĩa tư bản. C.Mác đã nhận xét: “Sự nghiên cứu không vụ lợi nhường chỗ cho những cuộc bút chiến của những kẻ viết văn thuê, những sự tìm tòi khoa học vô tư nhường chỗ cho lương tâm độc ác và ý đồ xấu xa của bọn chuyên nghề ca tụng”

Những đại biểu điển hình của kinh tế chính trị tư sản tầm thường là Tômát Rôbớc, Mantút (1766-1834) ở Anh; Giăng Batixtơ Xây (1767-1823) ở Pháp.

a. Các đại biểu của trường phái

- Thomas Robert Malthus (1766 - 1834) - Người Anh

- Jean Baptiste Say (1767 - 1832) - Người Pháp

- Herry Sacler Kerry (1793 - 1879) - Người Pháp

b. Những đặc điểm chủ yếu của kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển:

* Là học thuyết mang tính chất chủ quan:

Mục đích không phải để kế thừa và phát triển những tư tưởng khoa học của nhân loại mà nhằm che đậy các mâu thuẫn và khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, từ đó ca ngợi và bảo vệ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, biện hộ cho chủ nghĩa tư bản bằng mọi giá.

* Trong phương pháp luận:

+ Xa rời phương pháp luận của trường phái cổ điển, không đi sâu vào phân tích bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế, chỉ chú ý xem xét các hiện tượng bên ngoài. Đặc biệt là áp dụng phương pháp tâm lý chủ quan trong phân tích kinh tế, coi kinh tế chính trị là khoa học nghiên cứu về đạo đức xã hội.

+ Sử dụng nhiều tài liệu, số liệu thiếu khoa học, phi lịch sử để nghiên cứu.

* Về nội dung

+ Xuất phát từ mục tiêu bảo vệ giai cấp tư sản, biện hộ cho chủ nghĩa tư bản một cách có ý thức nên họ không thể tìm kiếm và xây dựng những phạm trù, khái niệm và quy luật khoa học. Họ quan tâm xem xét phạm trù quy luật có lợi hay không có lợi cho giai cấp tư sản. Đúng như C.Mác đã nhận xét: "Sự nghiên cứu vô tư đã nhường chỗ cho những trận chiến đấu của bọ viết văn thuê, những sự tìm tòi khoa học vô tư đã được thay thế bằng sự ca tụng có tính chất thiên kiến và đê hèn".

+ Học thuyết kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển không những không phát triển được lý luận của học thuyết kinh tế tư sản cổ điển mà dần dần xa rời, sau đó đoạn tuyệt với những nội dung khoa học của nó, đặc biệt lý luận giá trị - lao động. Họ chỉ quan tâm tới việc tìm tòi những yếu điểm, những tư tưởng tầm thường trong học thuyết kinh tế tư sản cổ điển để xây dựng thành hệ thống những quan điểm cho rằng: các phạm trù kinh tế là quy luật tự nhiên, phi lịch sử, hay chủ nghĩa tư bản là tồn tại vĩnh viễn vv¼ Do vậy sự xuất hiện của kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển là sự báo hiệu sự khủng hoảng về tư tưởng, lý luận của giai cấp tư sản sau học thuyết kinh tế tư sản cổ điển.

+ Học thuyết kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển là học thuyết mang tính chất phản động, trái với đạo lý của con người.

* Quá trình phát triển:

+ Thời kỳ đầu: mục tiêu của kinh tế tư sản hậu cổ điển là phê phán những người xã hội chủ nghĩa không tưởng và tách những yếu tố tầm thường của kinh tế chính trị tư sản cổ điển để xây dựng thành hệ thống lý luận của mình.

+ Tiếp theo: kinh tế tư sản hậu cổ điển công khai tách khỏi kinh tế chính trị tư sản cổ điển, phủ nhận và phê phán các học thuyết của kinh tế tư sản cổ điển, đặc biệt là học thuyết giá trị - lao động.

+ Thời kỳ cuối thế kỷ thứ XIX, khi học thuyết kinh tế Mác ra đời , các nhà kinh tế tư sản hậu cổ điển tập trung chống lại học thuyết kinh tế Mác.

Kinh tế chính trị là một môn khoa học xã hội nghiên cứu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa đặt trong mối quan hệ với chính trị dưới nhãn quan của chính trị gia. Thuật ngữ "kinh tế chính trị" được dùng lần đầu tiên năm 1615 bởi trong tác phẩm Traité d'économie politique. Thuật ngữ "kinh tế chính trị" xuất hiện do kết hợp các từ có nguồn gốc Hy Lạp với nghĩa là "thiết chế chính trị"[1]. Kinh tế chính trị học cung cấp các khái niệm và hệ thống kiến thức cơ bản nhất cho khoa kinh tế hiện đại như cung cầu, lợi nhuận, tự do thương mại... Nhiều quan điểm của các trường phái kinh tế chính trị đã trở thành các tín điều mang tính ý thức hệ của các nhà kinh tế học và các chính trị gia.

"Kinh tế chính trị" chỉ nghệ thuật quản lý kinh tế của một quốc gia để phân biệt với "kinh tế" là việc quản lý gia đình (từ tiếng Anh "political" có nguồn gốc từ politike trong tiếng Hy Lạp nghĩa là lo việc nước; còn "economy" có nguồn gốc từ chữ oikonomia trong tiếng Hy Lạp nghĩa là quản lý gia đình; political economy được dịch ra tiếng Việt là "kinh tế chính trị"). Có thể nói, kinh tế chính trị là kinh tế học dưới con mắt của chính khách. Học thuyết kinh tế chính trị có tính hệ thống đầu tiên là học thuyết của Adam Smith trong thế kỷ 18. Trong tác phẩm nổi tiếng An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations (Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia, 1776, thường được gọi tắt là Của cải của các quốc gia hay Quốc phú luận), Adam Smith chỉ rõ:

"Political economy considered as a branch of the science of a statesman or legislator proposes two distinct objects, first, to supply a plentiful revenue or subsistence for the people, or more properly to enable them to provide such a revenue or subsistence for themselves; and secondly, to supply the state or commonwealth with a revenue sufficient for the public service. It proposes to enrich both the people and the sovereign."

Kinh tế chính trị chịu ảnh hưởng của triết học chính trị. Các trường phái kinh tế chính trị được phát triển dựa trên quan điểm của các trường phái triết học chính trị. Chủ nghĩa tự do cho rằng nhà nước nên hạn chế can thiệp vào đời sống xã hội. Khi áp dụng quan điểm này vào kinh tế học tạo ra kinh tế chính trị học cổ điển. Chủ nghĩa bảo thủ bảo vệ thị trường và quan niệm giá trị tư bản thặng dư thuộc về cá nhân nên những nhà kinh tế chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa bảo thủ thường phản đối phân phối lại thu nhập, ủng hộ tự do kinh doanh. Chủ nghĩa xã hội tin rằng mỗi cá thể tạo ra giá trị thặng dư đều là thành viên của xã hội nên giá trị thặng dư đó mang tính chất xã hội do đó cần được xã hội điều tiết. Điều này được phản ánh trong kinh tế chính trị học Marxist. Chủ nghĩa cộng sản cho rằng tăng trưởng kinh tế-xã hội do giá trị thặng dư xã hội sinh ra do đó nó phải thuộc về toàn thể xã hội. Đại diện của chủ nghĩa cộng sản là Karl Marx, Friedrich Engels, Lenin và Lev Davidovich Trotsky.

 

Jean-Jacques Rousseau, Discours sur l'oeconomie politique, 1758

  • Phương pháp lấy quyền lực làm trung tâm. Đây là phương pháp tiếp cận của kinh tế chính trị cổ điển. Do coi quyền lực là vấn đề trung tâm của chính trị, nên họ cho rằng kinh tế chính trị nghiên cứu cách thức đạt được quyền lực trong nền kinh tế.
  • Phương pháp lấy xã hội làm trung tâm. Đây là cách tiếp cận của kinh tế chính trị Marx-Lenin và của chủ nghĩa công lợi. Các trường phái này xuất phát từ lợi ích xã hội để nghĩ về nhà nước.
  • Phương pháp lấy nhà nước làm trung tâm. Trường phái kinh tế chính trị tân cổ điển và kinh tế chính trị Keynes xuất phát từ cách xác định chính trị là khoa học về nhà nước, còn kinh tế hàm ý thị trường. Vì thế, họ cho rằng kinh tế chính trị nghiên cứu cân bằng quyền lực giữa thị trường và nhà nước. Nhà nước tìm cách kiểm soát nền kinh tế để đạt được những mục đích của mình.
  • Phương pháp lấy "chính nghĩa" làm trung tâm. Đây là cách tiếp cận của kinh tế chính trị hiện đại. Kinh tế chính trị hiện đại xuất phát từ quan điểm rằng có một hệ thống "quyền" gắn liền với thị trường, mà quan trọng nhất là quyền sở hữu. Chính trị có thể xác định và tác động tới các quyền đó. Vì thế, nhiệm vụ của kinh tế chính trị là nghiên cứu cách thức chính trị tác động tới các hệ thống quyền lợi đó. Kinh tế chính trị hiện đại có thể phân thành ba trường phái nhỏ hơn, đó là chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa khế ước hiện đại, và chủ nghĩa Hegel.

Kinh tế chính trị liên quan đến nhiều ngành khoa học xã hội khác. Các nhà nghiên cứu kinh tế chính trị thường sử dụng tri thức của các ngành khoa học xã hội khác để giải thích các hiện tượng, các hành vi kinh tế. Một số ngành khoa học xã hội có liên quan mật thiết đến kinh tế chính trị học như xã hội học, nhân loại học, sử học, luật học... Xã hội học nghiên cứu các quan hệ xã hội. Nhiều nhà xã hội học nghiên cứu các quan hệ xã hội hình thành dựa trên quan hệ sản xuất cũng như sự ảnh hưởng của quan hệ sản xuất lên hoạt động xã hội loài người. Nhân loại học áp dụng kinh tế chính trị để nghiên cứu mối quan hệ giữa hệ thống tư bản toàn cầu và các nền văn minh địa phương. Lịch sử luôn thay đổi, phương pháp lịch sử được môn kinh tế chính trị áp dụng để nghiên cứu các quy luật chung của hoạt động kinh tế-xã hội. Luật học, luật pháp được chính quyền áp dụng để quản lý xã hội. Trong kinh tế chính trị, luật cùng với các tư tưởng xã hội và quan điểm chính trị tạo nên kiến trúc thượng tầng. Sinh thái học có quan hệ với kinh tế chính trị bởi vì hoạt động kinh tế-xã hội loài người ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái. Những thay đổi về mặt sinh thái tác động trở lại đến con người, nhiều khi tiêu cực.

Trường phái này bắt đầu từ tác phẩm Của cải của các quốc gia của Adam Smith (1776) đến Các nguyên lý kinh tế chính trị của John Stuart Mill (1848). Các đại biểu của trường phái này bao gồm Smith, David Ricardo, Thomas Malthus và Mill. Cái tên "Kinh tế chính trị cổ điển" là do Marx đặt ra.[2] Những đóng góp lớn của trường phái này bao gồm lý luận về sự tự điều chỉnh của thị trường và lý luận về giá trị, về phân phối. Smith là người đầu tiên thảo luận về lý luận giá trị lao động và Ricardo phát triển lý luận này.

Kinh tế chính trị Marxist

Đây là trường phái kinh tế chính trị mà Karl Marx là người sáng lập và Friedrich Engels là một đại biểu khác. Trường phái này đã phát triển đáng kể những lý luận về phân công lao động và lý luận giá trị lao động của kinh tế chính trị tân cổ điển, từ đó giới thiệu lý luận về lao động thặng dư, giá trị thặng dư, quy luật giá trị và thay đổi hình thái giá trị. Marx đã phê phán lý luận về dư thừa dân số của Malthus và giới thiệu khái niệm về đội quân lao động dự bị. Marx đã tiếp thu và phát triển những lý luận của Ricardo về phân phối. Những đóng góp quan trọng khác của trường phái này là các lý luận về phương tiện sản xuất, phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất...

Kinh tế chính trị tân cổ điển

Kinh tế chính trị tân cổ điển có các đại biểu là William Stanley Jevons, Carl Menger, Léon Walras, Philip Henry Wicksteed, William Smart, Alfred Marshall, Eugen von Böhm-Bawerk, Friedrich von Wieser, Vilfredo Pareto. Trường phái này phê phán quan niệm của kinh tế chính trị cổ điển về thỏa dụng, cũng như phê phán quan niệm của kinh tế chính trị Mác-xít về giá trị sử dụng. Từ đó, họ giới thiệu khái niệm về thỏa dụng biên. Chính vì thế, trường phái này còn được gọi là chủ nghĩa cận biên. Đóng góp quan trọng khác của trường phái này bao gồm lý luận về sự lựa chọn trong ràng buộc, quyền sở hữu, hàng hóa công cộng, độc quyền, ảnh hưởng ngoại lai...

Kinh tế chính trị Keynes

Kinh tế chính trị Keynes phê phán lý luận về sự tự điều chỉnh của thị trường của trường phái cổ điển. John Maynard Keynes phát triển lý luận về tính bất ổn định của tái sản xuất và tăng trưởng của kinh tế tư bản chủ nghĩa.

  1. ^ Xem bài Political Economy trong Catholoc Encyclopedia
  2. ^ Dasgupta A. K. (1985), Epochs of Economic Theory, Basil Blackwell Publisher, New York.

  • Political Economy
  • Caporaso, James A. and Levine, David P. (1992), Theories of Political Economy, Cambridge University Press.
  • John Neville Keynes (1999), The Scope and Method of Political Economy, Batoche Books
  • The Political Economy of British Columbia's Rainforests Lưu trữ 2006-06-14 tại Wayback Machine của Elmer G. Wiens
  • An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations của Adam Smith
  • On the Principles of Political Economy của David Ricardo
  • Capital: A Critique of Political Economy của Karl Marx

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kinh_tế_chính_trị&oldid=68733019”