Postalveolar là gì


Chú thích các thuật ngữ trong Bảng phụ âm

IPA : International Phonetic Association

Pulmonic : âm cấu tạo khi luồng không khí từ phổi đi ra

Non–pulmonic : âm hút

Consonants : các phụ âm

Bilabial : (phụ âm) môi-môi

Lablodental : (phụ âm) môi-răng

Dental : (phụ âm) răng

Alveolar : (phụ âm) lợi

Postalveolar : (phụ âm) sau lợi

Retroflex : (phụ âm) quặt lưỡi, cong lưỡi

Palatal : (phụ âm) ngạc

Velar : (phụ âm) mạc

Uvular : (phụ âm) lưỡi con

Pharyngeal : (phụ âm) yết hầu

Glottal : (phụ âm) thanh hầu

Plosive : (phụ âm) tắc

Nasal : (phụ âm) mũi

Trill : (phụ âm) rung

Tap or flap : (phụ âm) vỗ

Fricative : (phụ âm) xát

Lat. Fric. : (phụ âm) xát bên

Approx. : (phụ âm) xát, vang

Lat. Approx. : (phụ âm) xát bên, vang

Voiceless labal–velar fric. : (phụ âm) xát, môi-mạt, vô thanh

Voiced labal–velar approx. : (phụ âm) xát, môi-mạt, hữu thanh

Voiced labal–palatal approx. : (phụ âm) xát, môi-ngạc, hữu thanh

Voicelless epiglottal fricative : (phụ âm) xát, trên thanh hầu, vô thanh

Voiced epiglottal fricative : (phụ âm) xát, trên thanh hầu, hữu thanh

Epiglottal plosive : (phụ âm) tắc, trên thanh hầu

Alveolo–palatal fricatives : (phụ âm) xát, lợi-ngạc

Alveolar lateral flap : (phụ âm) vỗ bên, lợi


Chú thích thuật ngữ trong Bảng những dấu phụ đi kèm

Voiceless : vô thanh

Voiced : hữu thanh

Aspirated : bật hơi

More round : tròn môi hơn

Less round : ít tròn môi hơn

Advanced : nhích về phía trước

Retracted : lui về sau

Centralized : giữa hóa

Mid–centralized : trung hòa, giữa hóa

Syllabic : âm tiết tính

Non–syllabic : phi âm tiết tính

Rhoticity : R hóa (phát âm có r đi sau nguyên âm)

Breath voiced : (phụ âm) phát âm với hơi thở nhẹ

Creaky voiced : (phụ âm) thanh hầu hóa, trầm hóa

Linguolabial : (phụ âm) lưỡi-môi

Vabialized : (phụ âm) môi hóa

Valatalized : (phụ âm) ngạc hóa

Velarized : (phụ âm) mạc hóa

Charyngealized : (phụ âm) yết hầu hóa

Raised : nhích lên trên

Lowered : dịch xuống dưới

Avanced Tongue Root : gốc lưỡi nhích về trước

Retracted Tongue Root : gốc lưỡi lùi về sau

Dental : (phụ âm) răng

Pical : (phụ âm) đầu lưỡi

Aminal : (phụ âm) mặt lưỡi trước

Lasalized : mũi hóa

Lasal release : có âm mũi đi kèm

Ateral release : có âm bên đi kèm


DANH SÁCH CÁC THUẬT NGỮ NGỮ ÂM HỌC

ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG ANH

âm : sound, phone

âm gió : assibliated sound

âm hệ : family of sounds

âm học : acoustics

âm lượng : sonorousness

âm lưỡi sau : back sound

âm lưỡi trước : front sound

âm lướt : glide

âm mạnh : fortis sound

âm nước : liquid

âm đệm : medial

âm điệu : melody

âm điệu lời nói : speech melody

âm điệu đi lên : ascend melodia

âm đoạn : segment

âm đoạn tính (âm vị ~) : segmental (~ phoneme)

âm riêng lẻ : disconected sound

âm sắc : tamber

âm suýt : buzzing sound

âm tắc khép : arresting stop

âm thanh (mặt ~) : phonic (~ aspect)

âm thở : breathed sound

âm tiết : syllable

âm tiết có trọng âm : accented syllable

âm tiết hạt nhân : nucleus-syllable

âm tiết khép : closed syllable

âm tiết mạnh : strong syllable

âm tiết mở : open syllable

âm tiết tính : syllablic

âm tiết yếu : weak syllable

âm tố : sound

âm tố lời nói : speech sound

âm vang mũi : nasal sonant

âm vang tắc : occlusive sonant

âm vị : phoneme

âm vị–âm tiết : syllabo-phoneme

âm vi đoạn tính : segmental phoneme

âm vị học (giải thuyết ~; đơn vị; gánh nặng ~) : phonology; phonemics

âm vị siêu đoạn tính : suprasegmental phoneme

âm vị zêrô : zero phoneme

âm vực : register

âm xuýt : sibilant

Ấn–Âu (các ngôn ngữ ~) : Indo-European (~ language)

ấn tượng thính giác : auditive impression

áp suất : pressure

áp suất không khí : air pressure

bật hơi (sự ~; âm ~) : aspiration; aspirate

bất thường : anomalous

bằng thanh điệu : level (~ tone)

bản chất ngữ âm : phonetic entily

bán nguyên âm : semi-vowel

bán phụ âm : semi-consonant

bảng chữ cái : alphabet

bảng phụ âm : table of consonants

bên (phụ âm ~) : lateral (~ consonant)

biên độ : amplitude

biến thể : variant; allophone

biến thể cá nhân : individual variant

biến thể chính : principal allophone

biến thể của âm vị : phonemic variant

biến thể tự do : facultative allophone; free variant

biệt ngữ : argot

biểu cảm : expressive

biểu đạt (cái ~) : signifying

bít (động tác ~) : closure

bít, tắc : block

bộ máy phát âm : track organs; speech organs

bổ sung (cấu âm ~) : additional (~ articulation)

bối cảnh ngữ âm : phonetic contex

bổng (âm sắc ~) : acute

cần yếu : relevant

cần yếu về âm vị học : phonological relevant

câu : sentence

cấu âm : articulation

cấu âm chính : major articulator

cấu âm đồng chất : homogeneous articulation

cấu âm phụ : minor articulator

cấu âm răng : dental articulation

cấu âm tự động : automatic articulation

câu cảm thán : exclamatory sentence

câu nghi vấn : interrogative sentence

câu nhiều ngữ đoạn : polysyntagmal sentence

cấu trúc; cơ cấu. : structure

cấu trúc phổ : spectrum

căng : tense

cao : high

các khí quan chủ động : active organs of speech

các khí quan thụ động : passive organs

cách viết, đánh vần : spelling

cải cách chữ viết : writing reform

cản trở : obstruct

chậm : slow

chất lượng trung hòa : neutral quality

chặt : close

chính tả : orthography

chỗ ngừng : pause

chỗ ngừng giữa ngữ đoạn : intersyntagmal pause

chỗ tắc : occlusion

chữ cái : letter

chữ cái Latin : Roman alphabet

chữ ghi ý : ideogram

chữ hình nêm : cuneiform writing

chữ hình vẽ, chữ tượng hình : pictographic writing

chữ kép : digraph

chữ viết : writing

chữ viết ghi âm : phonetic writing

chức năng (gánh nặng ~) : function (functional yield)

chức năng ngữ nghĩa : semantic function

chức năng ngữ pháp : grammatic function

chức năng sinh học : biological function

chu kỳ : period

chuẩn hóa : normalize

chuẩn; chuẩn mực : norm, standard

chuỗi âm thanh : sound chain

chùm nét khu biệt : bundle of distinctive features

chùng (phụ âm ~) : laz (~ consonant)

chuyển động sóng âm : wave motion

cơ cấu : structure

cơ quan chủ động : active organ

cơ quan phát âm : organs of speech

cơ sở cấu âm : basic of articulation

cổ (từ ~) : archaic

cộng minh trường : resonantor

cong lưỡi (âm ~) : cacuminal

cường độ : intensity

cứ liệu : data

cụm từ : phrase

cuối (âm ~) : final

dấu hiệu phân đoạn : boundary marker

dấu hiệu, ký hiệu : symbol

dấu phụ : diacritical sign, diacritic(al)

dây thần kinh : nervers

dây thanh : vocal cords, vocal bands

dây thanh căng : stiff vocal cords

dây thanh chùng : slack vocal cords

dạng nhược hóa : reduced form

dạng thức mạnh : strong form

dạng thức yếu : weak form

dao động có chu kỳ : periodic vibration

dao động điều hòa : harmonic vibration

dị hóa : dissimilate

dịch về trước : advanced

đa âm tiết : polysyllabic

đa tổng hợp : polysynthetic

đầu (âm ~) : intial

đầu lưỡi (âm ~) : apical

đầu lưỡi răng (âm ~) : dentilingual

đầu lưỡi–lợi (âm ~) : apico-alveolar

đặc điểm dân tộc (của phát âm) : nation feature (of pronunciation)

đặc trưng : characteristic, feature

đặc trưng âm học : acounstic feature

đặc trưng sinh lý học : physiolognomic

đặc trưng thanh hầu : glottis feature

đại cương (ngữ âm học ~; ngôn ngữ học ~): general (~ phonetics;~ linguistics)

đại từ : pronoun

đỉnh âm tiết : syllabic peak

đỉnh cộng chấn : formant

đinh đầu lưỡi, chóp lưỡi : tip

đẳng lập (đối lập ~) : equipollent

đảo vị trí của âm : anagram

đệm (âm ~) : pretonal

đi xuống : fall

đi xuống– đi lên : fall-rise

điệp (âm ~) : geminated

độ căng : tenseness, tension

độ cao : height

độ cao thanh cơ bản : pitch

độ cao tương đối : relative pitch

độ cao tuyệt đối : absolute pitch

độ dài : duration; length

độ dài tương đối : relative length

đồ hình : graphic

độ lớn : loudness

độ mạnh tương đối : relative loudness

độ nâng lưỡi sau : back elevation

độ ngắn (của nguyên âm) : brevity (of vowel)

độ nghe rõ: audibility

độ rõ của phát âm : accuracy of pronunciation

đồ thị ngữ điệu : intonation-graph

độ vang : sonority

độ vang tương đối : relative sonority

độc thoại : monologue

đối hệ : paradim

đối lập (thế ~) : opposition

đối thoại : dialogue

đồng âm : homonyms

đồng chất : homogencity

đồng hóa : assimilate

đồng hóa hoàn toàn : complete assimilation

đồng nhất : indentical

đồng tự : homographs

đọc : reading

đơn ngữ : monolingual

đơn tiết : monosyllabic

đơn vị : unit

đơn vị lời nói : speech unit

đơn vị ngôn ngữ : limguistic unit

định vị (tiêu chí ~) : local (~ mark)

đường cong không có chu kỳ : non-periodic curve

đường cong ngữ điệu : intonation curve

đường ghi, đường cong : curve

đường ghi giao động sóng âm : ocsillgram

đường nét âm điệu : melodic contour

gắt, thé : srident

gãy (thanh điệu ~) : broken (~ tone)

giai đoạn cấu âm : phase of articulation

giao tế : interdental

giả (nguyên âm đôi ~) : false (~ diphthong)

giải phẫu học : anatomy

giải pháp : solution

giải thuyết : interpretation

giảm dần (nguyên âm đôi ~) : falling (~ diphthong)

giọng : voice

giọng rít : creaky voice

giữa răng (phụ âm ~) : bifocal (~ consonant)

giới từ : preposition

gốc lưỡi : tongue root

gốc lưỡi đưa về trước : advanced tongue root

hậu, sau : post-

hai bên : bilateral

hai tiêu điểm : bicentral, bifocal

hạt nhân : nucleus, nuclei

hàm trên : upper jaw

hệ lưỡng phân : binary

hệ thống : system

hệ thống ký hiệu : notation

hệ thống phiên âm : phonetic notation

hẹp : narrow

hiện tượng đồng đại : synchronic phenomena

hiệu quả : effect

hiệu quả âm học : acounstic effect

hình âm vị học : morphological

hình chụp X-quang : X-ray photography, radiogram

hình thang nguyên âm Jones : Jone’s vowel trapezium

hình vị : morpheme

Hội Ngữ âm học quốc tế : IPA

họng : throat

hòa phối (nguyên âm) : ablaut

hữu thanh : voiced

hỏi : question

i-ốt hóa, ngạc hóa : yotization

kết hợp (biến thể ~; khả năng ~) : positional (~variant;combinability)

kéo dài : prolong

khác biệt : different

khe thanh hầu : glottic aperture, glottis

khoang : cavity, champer

không cần yếu : irrelevant

khoang miệng : mouth cavity

khoang mũi : nasal cavity

không ngắt : continuant

không trọng âm : unaccented

không vang : non-sonorous

khoang yết hầu : laryns cavity, pharyngeal ~

khu biệt : distinguish

kiểu; loại hình : type

ký hiệu : sign, symbol

lặp (hiện tượng ~) : reduplication

lặp lại nguyên âm : assonance

loại hình âm : sound-classe

loãng : diffuse

lơi (âm ~) : lax

lợi : alveolar

lợi (âm ~) : alveolar

lời nói : speech

lời nói nhân tạo : artificial speech

lời nói thì thầm : whisper

lượng : quanlity

lưỡi : tongue

lưỡi con : uvular

lưỡi sau : backlingual

lưỡi trước : forelingual

luân phiên (hiện tượng ~) : alternation

luân phiên âm tố : interchange of sound

luồng hơi : air stream

luồng không khí : flow of air

lý thuyết ngữ âm : phonetic theory

mất âm cuối : apocope

mất giọng : aphonia, dysphonia

mặt lưỡi : dorsal

mạc (ngạc mềm) : velar

mạc hóa (âm ~; hiện tượng ~) : velarized (~ sound; velarization)

màu sắc : colour

máy ghi dao động : oscillograph

máy nghe : audiphone

máy đo thính lực : audiometer

máy phân tích phổ : spectrograph

mềm : soft

miệng : mouth

mô hình âm điệu : melodic pattern

môi : lips

môi (âm ~) : labial

môi-mạc (âm ~) : labil-velar

môi-môi (âm ~) : bilabial

môi-răng (âm ~) : labiodental

môi dưới : lower lip

môi hóa : labialization

môi trên : upper lip

mức độ dài : degree of length

mức tiếng thanh (độ vang) : scale of sonority

mức trọng âm : degree of stress

mũi (âm ~) : nasal

mũi hóa : nasalize

mũi hóa (hiện tượng ~) : nasalization

nét khu biệt : distinctive feature

ngắn : short

ngạc (âm ~) : palatal

ngạc-lợi (âm ~) : palato-alveolar

ngạc cứng : palatal

ngạc giả : artificial palate

ngạc giữa (âm ~) : mediopalatal

ngạc hóa : palatalize

ngạc mềm : soft palate

ngạc đồ : palatogram

ngạc trước (âm ~) : prepalatal

ngôn ngữ : language

ngôn ngữ có trọng âm : stress language

ngôn ngữ học : linguistics

ngôn ngữ học cấu trúc : structural linguistics

ngôn ngữ không có trọng âm : non-stress linguistics

ngôn điệu : prosody

ngôn điệu (hiện tượng ~) : prosodic (~ fact)

ngữ âm : phonetic

ngữ âm học : phonetics

ngữ âm học âm học : acoustic phonetics

ngữ âm học cấu âm : articulatory phonetics

ngữ âm học khí cụ : instrucmental phonetics

ngữ âm học lịch đại : diachromic phonetics

ngữ âm học lịch sử : historical phonetics

ngữ âm học miêu tả : descriptive phonetics

ngữ âm học đồng đại : synchronic phonetics

ngữ âm học sinh lý : physiophonetics

ngữ âm học thực hành : pratical phonetics

ngữ âm thực nghiệm : experimental phonetics

ngữ cảnh : context

ngữ điệu : syntagm, syntagma

người nghe : auditor

nguyên âm : vowel

nguyên âm ba : triphthong

nguyên âm căng : tense vowel

nguyên âm chuyển sắc : coloured vowel

nguyên âm có trọng âm : accented vowel

nguyên âm dài : long vowel

nguyên âm dòng giữa : central vowel

nguyên âm dòng giữa, độ nâng trung bình : mid-central vowel

nguyên âm dòng pha : mixed vowel

nguyên âm dòng sau : back vowel

nguyên âm dòng sau, độ nâng trung bình : mid-back vowel

nguyên âm dòng trước : front vowel

nguyên âm dòng trước, tròn môi : rounded front vowel

nguyên âm dòng trước, (độ nâng) cao : high front vowel

nguyên âm dòng trước, độ nâng trung bình : mid front vowel

nguyên âm khép : closed vowel

nguyên âm không tròn môi : unrounded vowel

nguyên âm lướt : vowel-glide

nguyên âm mạnh : strong vowel

nguyên âm mở : open vowel

nguyên âm mũi : nasal vowel

nguyên âm mũi hóa : nasalized vowel

nguyên âm ngắn : short vowel

nguyên âm đôi : diphthong

nguyên âm đôi hóa : diphthonggize

nguyên âm đôi đi lên : increasing diphthong

nguyên âm đôi đi xuống : falling diphthong

nguyên âm đơn : monophthong

nguyên âm tròn môi : rounded vowel

nguyên âm trung hòa : neutral vowel, obscure vowel

nguyên âm yếu : lax vowel

nguyên tắc : principle

nguyên tắc chính tả lịch sử : consevative principles of orthography

nhận dạng : recognize

nhấn mạnh : emphassis

nhân tố : factor

nhà âm vị học : phonologist

nhà ngữ âm học : phonetician

nhược hóa : reduction

nhược hóa về lượng : quantitative reduction

nhược hóa về phẩm chất : qualitative reduction

nhịp điệu : pulse, rhythm

nhịp độ : tempo, speed

nổ : explosive

nổ (âm ~) : plosive

nước (âm ~) : liquid

nửa hẹp (nguyên âm ~) : half-closed (~ vowel)

nửa khép (âm tiết ~) : half-closed (~ syllable)

nửa mở : half-open

nửa rộng (nguyên âm ~) : half-open (~ vowel)

ồn : noise

phẩm chất : quality

phần âm tiết : syllabation

phần đầu của lưỡi : blade of the tongue

phần sau của lưỡi : back of the tongue

phân tích : analysis

phần trước của lưỡi : front of tongue

phần trước mặt lưỡi : predorsal part

phạm vi hẹp : narrow range

phát âm : pronounce

phát âm (cách ~) : pronunciation

phát âm chuẩn : standard pronunciation

phát âm cổ : obsolete pronunciation

phát âm nhân tạo : artificial pronunciation

phát âm được chấp nhận chung : received pronunciation

phát âm sai : faulty pronunciation

phát ngôn : utlerance

phi âm tiết tính : non-syllabic

phiên âm : transcription

phiên âm âm vị học : phonemic transcription

phiên âm các biến thể : alloophonic transcription

phiên âm hẹp : narrow transcription

phiên âm ngữ âm học : phonetic transcription

phiên âm rộng : broad transcription

phiên âm theo bảng chữ cái : alphabetic transcription

phổ hình : spectrogram

phổi : lung

phong cách diễn thuyết : oratorical style

phong cách hội thoại : conversational style

phong cách hội thoại nhanh : rapid conversational style

phong cách nói : diction

phong cách phát âm : style of pronunciation

phong cách trang trọng : formal style

phương ngữ học : dialectology

phương pháp dạy phát âm : methos of teaching pronunciation

phương pháp phân tích ngữ âm : method of phonetic analysis

phương pháp X–quang : radiography

phương thức cấu âm : means of articulation

phức hợp : composite

phụ (dấu ~) : diacritic

phụ âm : consonant

phụ âm bên : lateral consonant

phụ âm cứng : hard consonant

phụ âm giữa răng : interdental consonant

phụ âm khép : arresting consonant

phụ âm lợi : alveolar consonant

phụ âm lưỡi sau : backlingual consonant

phụ âm lưỡi trước : forelingual consonant

phụ âm mặt lưỡi : dorsal consonant

phụ âm mặt lưỡi trước : predorsal consonant

phụ âm mềm : soft consonant

phụ âm môi : labial consonant

phụ âm môi–môi : bilabial consonant

phụ âm mũi : nasal consonant

phụ âm nổ : plosive consonant

phụ âm nước : liquid consonant

phụ âm đầu : initial consonant

phụ âm đầu lưỡi : apical consonant

phụ âm răng : dental consonant

phụ âm rung lưỡi con : uvular trill

phụ âm sau lợi : post-alveolar consonant

phụ âm tắc : occlusive consonant

phụ âm tắc thanh hầu : glottal consonant

phụ âm tiền thanh hầu : pre-glottalized consonant

phụ âm vang : sonorous consonants, sonant

phụ âm xát : fricative consonant

phù hiệu ngữ âm : phonetic symbol

quặt lưỡi (phụ âm ~) : retroflex (consonant ~)

quãng tám : octave

quả táo Adam : Adam’s apple

quá trình : process

quy luật : law

răng dưới : lower teeth

răng trên : upper teeth

ranh giới âm tiết : syllable-boundary

rộng : wide

rườm : redundant

rụng phụ âm : dropping of consonant

rung (~ âm) : plapped, trilled

rút gọn từ : syncopate

sáng (âm ~) : clear

siêu đoạn tính (âm vị ~) : suprasegmental (~ phoneme)

sinh lý học : physiology

sự bật hơi : aspiration

sự biến đổi : change, shift

sự bù trừ : compensation

sự cản trở : obstruction

sự chuẩn hóa : standardization

sự cộng hưởng : resonance

sự dị hóa : dissimilation

sự đồng hóa : assimilation

sự hạ giọng : descent

sự hạ giọng đột ngột : step fall

sự khác biệt địa phương : dialectal difference

sự khu biệt : distinction

sự kiện : fact

sự lên giọng đột ngột : step rise

sự lựa chọn : alternative

sự miêu tả : description

sự mũi hoá : nasalization

sự ngạc hóa : palatalization

sự nghe : audition

sự nguyên âm đôi hóa : diphthongization

sự biểu cảm : emotion

sự nhược hóa : reduction

sự nổ : burst, explosion, plosion

sự phân bố : distribution

sự phân chia âm tiết : syllable division

sự phân giới : delmitation

sự phân loại : classification

sự phân đoạn : segmentation

sự phát âm : pronunciation

sự quặt lưỡi : retroflexion

sự rút gọn : syncope

sự so sánh : comparision

sự tắc-xát : affrication

sự tăng cường độ lớn của âm : amplification of sound

sự thắt, xiết : constriction

sự thay đổi ngữ điệu : intonational change

sự thay đổi trong ngữ cảnh : modification in context

sự thích nghi : accomodation

sự thực hành : pratice

sự thở ra : breath, expiration

sự thu hẹp : narrowing

sự thụ cảm : perception

sự tương ứng : correlation

sự trung hòa hóa : neutralization

sự vô thanh hóa : devocaliration

song ngữ : bilingual

song tiết : disyllblic

sóng âm : sound-wave

tần số : frequency

tất yếu bắt buộc (biến thể ~) : obligatory (~variant)

tắc : occlude, stop

tắc – xát : affriciat

tắc thanh hầu : glottal plosive, glottal stop

tắc thuần túy : pure plosive

tăng dần (nguyên âm đôi ~) : rising (~ diphthong)

tắt (viết ~) : abbreviation

tai : ear

tam giác nguyên âm : vowel-triangle

thân (~ lưỡi) : body (~ of the tongue)

thấp : low

thanh (tiếng ~) : voice

thanh cao–đi lên : high-rising tone

thanh cơ bản : fondamental pitch

thanh hầu : vocal organs

thanh hầu co, thắt : contricted glottis

thanh đi xuống : falling tone

thanh đi xuống–đi lên : falling-rising tone

thanh điệu : tone

thanh điệu đi lên : rising tone

thanh điệu đi xuống : falling tone

thanh quản mở rộng : spread glottis

thành ngữ : expression

thành tố : component

thán từ : exclamation

thay đổi : modify, change

thay đổi độ cao : change in pitch

thay thế : subsitution

thể : mood

thế đối lập : opposition

thế đối lập có-không : privative opposition

thích nghi : accommodate

thính giác : auditory

thổ ngữ : subdialect

thổi : blow

thực quản : ocsophagus

thói quen phát âm : habit of pronunciation

thuật ngữ : term

thụt, co : retracted

thuộc giải phẫu : anatomical

tiền, trước : pre-

tiếng lóng : back slang

tiếng địa phương : dialect

tiếng động yếu : feeble noise

tiếng ồn : noise

tiếp xúc : contact

tiết vị, hình tiết : syllabeme

tiêu chí khu biệt : distinctive feature

tiêu điểm : focus

tính bền vững : stability

tính chất mũi : nasality

tình thái : modal

tính tình thái : modality

tổ hợp : combination

tổ hợp phụ âm : cluster of consonants

tổ hợp từ : collocation

tốc độ lời nói : tempo of speech

tối (âm ~) : dark

tối ưu : optimum

tự do (biến thể) : free (~ variant)

tự điển cụm từ và thành ngữ : phrase-book

từ : word

từ đơn tiết : monosyllabic word

từ vay mượn : loan-word, borrowed word

tượng thanh : onomatopoeic

tương liên (thế ~) : correlation

tương đối : relative

tương ứng : correspondence

tương phản (thế ~) : contrast

tương quan : correlate

tương tự : analogical

trầm : grave

trật tự : order

trọng âm : stress, accent

trọng âm câu : sentence stress

trọng âm chính : major stress, primary stress

trọng âm cuối : ultimate stress

trọng âm lôgic : logical stress

trọng âm lực : dynamic accent, dynamic stress

trọng âm lượng : accent by length

trọng âm mạnh : strong stress

trọng âm nhạc : accent by stress

trọng âm phụ : secondary stress

trọng âm từ : word-stress

trọng âm yếu : weak stress

tròn môi : rounding

trường độ : length

trước : front

trước nguyên âm : pre-vocal

trước trọng âm : pre-tonic

trung bình (nguyên âm ~) : medial (~ vowels)

trung hòa (vị trí ~) : neutralization

trung tâm âm tiết : centre of syllable

tùy tiện, tự do : facultative

uốn lưỡi, quặt lưỡi : cacuminal

vần (thơ) : rhyme

vật lý học : physics

vang (âm ~) : sonant

vang môi–môi : bilabial sonant

vế có : mark member

vế của thế đối lập : member of opposition

vế không : unmarked member

vị trí : position; place

vị trí cấu âm : place of articulation

vị trí chướng ngại : place of obstruction

vị trí của trọng âm : place of stress, position of stress

vị trí giữa các phụ âm : interconsonantal position

vị trí giữa nguyên âm : intervocalie

vị trí trung hòa : neutral position

vô thanh : unvoiced, voiceless

vô thanh hóa : devoiced

vòm miệng, ngạc cứng : palate

vùng lợi : asveolar region

vùng sau lợi : post-alveolar region

vùng sau ngạc : post-palatal region

vùng tần số : region of frequency

vùng tiếp xúc : area of contact

vùng trước mạc : pre-velar region

vùng trước ngạc : pre-palatal region

xát : constrictive, fricative

xát (âm ~) : fricative, sprirant

xát khe tròn : hole type fricative

xát môi–môi : bilabial fricative

xát môi–môi khe dẹt : bilabial slit fricative

xát môi–môi khe tròn : bilabial hole fricative

xát thanh hầu : glottal fricative

xuýt (âm ~) : husting

yết hầu : larynx; pharyngeal

yết hầu co, thắt : constricted pharynx

yết hầu hóa (hiện tượng ~) : pharyngeal

yếu : weak

yếu tố âm tiết tính : syllablic element




Chia sẻ với bạn bè của bạn:

Postalveolar là gì
Postalveolar là gì
Postalveolar là gì
Postalveolar là gì
Postalveolar là gì
Postalveolar là gì
Postalveolar là gì
Postalveolar là gì


Page 2


1. Cơ chế cấu tạo âm tiết

Chuỗi lời nói của con người được chia ra làm những khúc đoạn khác nhau từ lớn đến nhỏ. Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất, được phân định tự nhiên trong lời nói con người.

Về phương diện phát âm, dù lời nói chậm đến đâu cũng chỉ phân chia đến giới hạn của âm tiết mà thôi. Nhưng về phương diện thính giác thì âm tiết là một tổ hợp âm thanh, có thế bao gồm nhiều âm tố hoặc đôi khi chỉ có một âm tố. Trong mỗi âm tiết chỉ có một âm tố âm tiết tính (có khả năng tạo thành âm tiết) còn lại là những yếu tố đi kèm, không tự mình tạo thành âm tiết được. Âm tố âm tiết tính thường được phân bố ở đỉnh hay ở trung tâm, làm hạt nhân âm tiết. Đó thường là các nguyên âm. Còn các phụ âm thường là yếu tố đi kèm, đứng ở ngoài biên, hay ở ranh giới của âm tiết. Ví dụ, trong hai âm tiết “học tập”, nguyên âm o và â ở đỉnh âm tiết, còn các phụ âm h, t, c, p ở biên của âm tiết. Đôi khi âm tiết chỉ gồm một nguyên âm. Ví dụ, trong tiếng Việt, âm tiết ô trong “cái ô”, u trong “âm u” gồm một nguyên âm phát âm với thanh điệu bằng.

Trong một số ngôn ngữ, phụ âm vang cũng có thể cấu tạo âm tiết. Ví dụ, trong tiếng Séc (Czech) thường gặp [ r ] và [ l ] làm hạt nhân âm tiết như trong các từ prst (ngón tay), srdce (trợ tim), vlk (chó sói). Hiện tượng này có thể gặp cả trong tiếng Serbi, tiếng Nam Tư, tiếng Ba Lan v.v…

Một số trường hợp trong một âm tiết hình như có thể gặp hai hay ba nguyên âm. Nhưng thực ra, trong số đó chỉ có một nguyên âm tạo đỉnh, còn các âm tố khác không tạo thành âm tiết gọi là bán nguyên âm. (Ví dụ, trong các âm tiết “qua”, “ngoài”, chỉ có nguyên âm [ a ] là tạo đỉnh âm tiết).

Khả năng tạo đỉnh âm tiết thường song song với các mức tiếng thanh (hay độ kêu). Có thể chia âm tố theo thanh bậc tiếng thanh (từ nhiều thanh đến ít thanh) như sau:

1. Các nguyên âm rộng, ví dụ: a, e, o

2. Các nguyên âm trung bình (hơi rộng hoặc hơi hẹp), ví dụ: ê ô, ơ

3. Các nguyên âm hẹp, ví dụ: i, u, ư

4. Phụ âm rung, ví dụ: r

5. Phụ âm xát bên, ví dụ: l

6. Phụ âm mũi, ví dụ: m, n, nh, ng

7. Phụ âm xát hữu thanh, ví dụ: v, z

8. Phụ âm tắc hữu thanh, ví dụ: b, d

9. Phụ âm xát vô thanh, ví dụ: f, s

10. Phụ âm tắc vô thanh, ví dụ: p, t, k

Các âm tố càng có nhiều tiếng thanh càng có khả năng tạo đỉnh, hay làm hạt nhân âm tiết. Ngược lại, các âm tố càng ít tiếng thanh càng có khả năng đứng ở biên giới âm tiết. Ta có thể biểu diễn gần đúng khả năng tạo đỉnh của các âm tố trong sơ đồ ở trang sau.

Những bậc thang trong sơ đồ thể hiện mức tiếng thanh (độ kêu) khi phát âm các âm tố. Các phụ âm vang vừa có thể đứng ở vị trí đỉnh âm tiết, vừa có thể đứng ở vị trí biên âm tiết.

Sự phân loại các âm tố như trên là nội dung của thuyết độ kêu của Otto Jespersen – một nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Đan Mạch (1860–1943). Theo thuyết này, âm tiết là sự kết hợp một yếu tố kêu hơn (nhiều thanh hơn) với một yếu tố ít kêu hơn (ít thanh hơn). Âm tố tạo thành âm tiết là âm tố có độ kêu lớn so với các âm tố xung quanh. Nếu dùng thuyết độ kêu mà đếm âm tiết thì trong rất nhiều trường hợp nó cho ta một giải pháp đúng. Vì vậy thuyết này được phổ biến rất rộng rãi. Nhưng đối với các ngôn ngữ Ấn Âu, có trường hợp thuyết này không thể giải thích được tại sao phải phân giới âm tiết ở chỗ này mà không phải ở chỗ khác. Ví dụ khi phụ âm đứng giữa hai nguyên âm thì nó thuộc về âm tiết trước hay âm tiết sau, hoặc nếu có tổ hợp phụ âm vang và phụ âm ồn đi với nguyên âm thì đó là một hay hai âm tiết v.v…

Để khắc phục những khuyết điểm của thuyết độ kêu, người ta đã đưa ra một thuyết mới. Đó là thuyết độ căng. Người đề xướng là M. Grammont (1860–1948) – một nhà ngôn ngữ học người Pháp. Học thuyết này được phát triển đầy đủ trong ngôn ngữ học Nga gắn liền với tên tuổi của L. V. Serba và các môn đệ của ông. Theo thuyết này, âm tiết được phát âm bằng một đợt căng thẳng cơ thịt của bộ máy phát âm. Mỗi đợt như thế có thể chia làm ba giai đoạn: tăng cường độ căng, đỉnh căng thẳng và giảm độ căng, song song với quá trình đó, cũng có một quá trình tăng, giảm độ hữu thanh. Có thể biểu diễn sơ đồ phân giới hai âm tiết hoa hồng trong tiếng Việt như sau:

h

o

a

a

h

o

ng

Chúng ta biết rằng sự căng thẳng cơ thịt của bộ máy phát âm khác biệt giữa nguyên âm và phụ âm. Nhưng mặt khác, độ căng của các âm tố cũng thay đổi rõ rệt trong quá trình phát âm (cũng như độ hữu thanh).

Thuyết độ căng rõ ràng rất phù hợp với định nghĩa âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất (đơn vị ấy ứng với một đợt căng thẳng cơ thịt của bộ mát phát âm). Biên giới của âm tiết được xác định là biên giới giữa hai đợt căng thẳng cơ thịt của bộ máy phát âm.

Tuy vậy, chúng ta chỉ nhận biết độ căng khi phát âm một âm tố bằng cảm giác cơ thịt mà thôi. Các máy móc thí nghiệm hiện đại đo được cao độ, trường độ và cường độ của âm tố, còn đo độ căng thì rất khó.

Trong tiếng Việt, âm tiết có cương vị ngôn ngữ học rõ ràng và được đơn lập hóa về mặt ngữ âm do cấu trúc đặc biệt của nó.

Âm tiết trong tiếng Việt là đơn vị được phân xuất và nhận diện một cách dễ dàng, vì vậy vấn đề ranh giới âm tiết không cần đặt ra. Đối với tiếng Việt, cả hai thuyết trên đây đều có hiệu lực giải thích. Thuyết độ căng làm sáng tỏ cơ chế cấu tạo âm tiết về mặt cấu âm, còn thuyết độ vang giải thích cấu tạo âm tiết về mặt âm học.

BÀI TẬP

26. Hãy phân loại các âm tố trong âm tiết của mấy câu thơ sau đây theo thang bậc tiếng thanh của thuyết độ kêu:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

(Hồ Chí Minh – Cảnh khuya)

27. Hãy vẽ sơ đồ các âm tiết trong câu thơ thứ nhất theo thang bậc độ căng.

2. Chức năng của âm tiết trong các ngôn ngữ

Mối quan hệ giữa việc phân chia lời nói thành âm tiết, và sự phân chia lời nói thành các đơn vị có nghĩa – tức hình vị và từ – rất khác nhau trong các ngôn ngữ.

Trong các ngôn ngữ âm tiết tính (như tiếng Trung Quốc, tiếng Miến Điện, tiếng Việt v.v…), nói chung âm tiết trùng với hình vị – đơn vị cơ bản của ngữ pháp. Âm tiết có chức năng là vỏ ngữ âm của hình vị, và tạo nên một đơn vị đặc biệt, gọi là hình tiết. Về hoạt tính ngữ pháp, đơn vị này gần giống như từ của các ngôn ngữ Ấn–Âu.

Ngược lại trong các ngôn ngữ phi âm tiết tính (như các ngôn ngữ Ấn–Âu, và hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới) không thấy mối quan hệ nào giữa việc phân chia ngữ lưu thành hình vị và thành âm tiết. Ví dụ, trong tiếng Nga, phân chia từ ruka (tay) và zd’ elat’ (làm xong):

1. thành hình vị: / ruk– a /, / z – d’el– at’ /

2. thành âm tiết: [ ru–ka ], [ zd’e–lat’ ]

Như vậy, âm tiết và sự phân chia âm tiết trong những ngôn ngữ này không liên quan đến nghĩa, còn hình vị và việc phân chia ranh giới hình vị lại liên quan đến nghĩa. Âm tiết không phải là đơn vị âm vị học. Vì vậy chức năng của âm tiết trở nên không rõ ràng và là một vấn đề được thảo luận. Liệu có thể tìm thấy những chức năng nào đó của âm tiết, chung cho các ngôn ngữ và không phụ thuộc vào mối quan hệ của nó với nghĩa hay không.

Xuất phát từ chỗ coi âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất, chúng ta có thể đề cập đến một số chức năng sau đây của âm tiết:

a. Âm tiết có chức năng tổ chức chất liệu âm thanh của ngôn ngữ bằng cách hợp nhất các âm tố trong một đơn vị phát âm nhỏ nhất. Trong giới hạn này, các âm tố tác động lẫn nhau về mặt cấu âm và thay đổi phẩm chất ngữ âm cho phù hợp với nhau. Sự hợp nhất này đặt cơ sở cho việc xây dựng những đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ.

b. Âm tiết là môi trường để hiện thực hoá các hiện tượng ngôn điệu như trọng âm, âm điệu. (Ví dụ: trong tiếng Việt mỗi một âm tiết mang một thanh điệu).

c. Âm tiết có chức năng cấu thành tiết điệu của lời nói. Chức năng này đặc biệt thể hiện rõ trong ngôn ngữ thơ.

3. Cấu trúc âm tiết trong các ngôn ngữ

Âm tiết là đơn vị có mặt trong tất cả các ngôn ngữ trên thế giới. Cấu trúc của nó rất phức tạp, có đặc điểm riêng trong từng ngôn ngữ. Vì vậy, việc tìm kiếm một mô hình cấu trúc bề mặt chung cho mọi ngôn ngữ là việc khó. Mặc dù vậy, nhiều nhà nghiên cứu đã thử làm điều này.

Theo V. S. Kasevich, âm tiết trong các ngôn ngữ thường có một cấu trúc hạt nhân là CV (C: phụ âm, V: nguyên âm). Phía trái hạt nhân có một cấu trúc nhỏ, gọi là cấu trúc trước hạt nhân, bao gồm các phụ âm (có số lượng từ 0 -> n). Ví dụ, trong tiếng Việt, âm tiết có dạng hạt nhân CV như ra, sa, trước hạt nhân không có cấu trúc các phụ âm. Trong khi đó, các ngôn ngữ Mon–Khmer và các ngôn ngữ thuộc chi Chăm ở Việt Nam còn giữ cấu trúc phụ âm trước hạt nhân, ví dụ: tiếng Khmer Nam bộ: srah (hồ), ncram (xô đẩy); tiếng Ê–đê: msah (ướt), kmlă (chớp) v.v… Trong số phụ âm này, thường phụ âm đứng càng gần cấu trúc hạt nhân càng bền vững hơn. Các phụ âm càng ở xa hạt nhìn càng dễ bị rơi rụng đi trong quá trình rút gọn âm tiết.

Bên phải hạt nhân cũng có một cấu trúc nhỏ, gọi là cấu trúc sau hạt nhân. Đó là cấu trúc của phụ âm, bán nguyên âm hoặc bán nguyên âm và phụ âm. Đối với các ngôn ngữ Ấn–Âu, cấu trúc này ít xác định hơn vì nó hay thay đổi bởi những qui luật âm vị học và hình thái học, và nó ít gắn bó với nguyên âm làm hạt nhân. Ngược lại trong nhiều ngôn ngữ Đông phương, cấu trúc này thường khá xác định và kết hợp chặt chẽ với nguyên âm đi trước. Trong tiếng Việt, sau hạt nhân là các phụ âm tắc vô thanh, phụ âm mũi hay bán nguyên âm [–u ], [ –i ], trong các tiếng Mon–Khmer có thể có thêm các âm cuối xát [–s ], [–h ], âm bên [–l ] và âm rung [ –r ]. Ngoài ra còn có các tổ hợp âm cuối như [–ih ], [ –i? ], [ –uh ] v.v… Ví dụ trong tiếng Khmer Nam bộ: cah (già), nbi:l (muối), tiếng Kơ–ho: miuh meuh (lấc cấc), cùih yờh (úi chà), hay tiếng Mnông Prâng: nus (tim), riês (rễ), mbăr (bay) v.v…

Cấu trúc sau hạt nhân có thế bị tách đôi ở một số tiếng Ấn Âu do số lượng phụ âm quá nhiều. Một số phụ âm kết hợp với nguyên âm tạo thành vần, số khác tạo thành phụ âm cuối.

E. C. Fudge đã dưa ra sơ đồ cấu trúc âm tiết tiếng Anh sau đây (dẫn theo Kasevich, 1983):

Am tiet

Van


Am cuoi

Am đau


Đinh

Sau đinh


1

2

3

4

5

6

Ví dụ: từ glimpse được Fudge phân tích cấu trúc như sau:

gl: âm đầu (1: g – 2: l)

imp: vần (3: i (đỉnh) – 4 & 5: m p (sau đỉnh))

s: âm cuối (6)

Cần nói thêm rằng trong các ngôn ngữ Đông phương, trong phần vần thường có thêm giới âm (hay âm đệm) đứng ở trước đỉnh (ví dụ: giới âm là /u/ trong tiếng Việt, giới âm /i/ trong tiếng Triều Tiên, giới âm /i/ và /u/ trong tiếng phổ thông Trung Quốc v.v…) còn phần sau đỉnh thì nhập một với âm cuối. Cấu trúc âm tiết tiếng Việt chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn trong phần sau.

BÀI TẬP


28. Dựa theo sơ đồ âm tiết của E. C. Fudge, bạn hãy thử vẽ sơ đồ cấu trúc âm tiết tiếng Việt.

29. Theo bạn, cấu trúc trước hạt nhân và sau hạt nhân của âm tiết tiếng Việt là gì?



1. Đặc điểm của âm tiết tiếng Việt

Một đặc điểm cơ bản của âm tiết tiếng Việt là ranh giới của nó và ranh giới của hình vị luân luôn trùng nhau, hay nói cách khác, mỗi âm tiết là hình thức biểu đạt của một hình vị. Ví dụ từ sinh viên gồm hai hình vị, mỗi hình vị có vỏ ngữ âm là một âm tiết là sinh và viên. Như trên đã nói, đây là đặc điểm chung cho một số ngôn ngữ như tiếng Hán, tiếng Thái, tiếng Miến Điện v.v… Chính căn cứ vào đặc điểm nêu trên mà người ta gọi các ngôn ngữ như tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Thái, tiếng Miến Điện… là ngôn ngữ có kết cấu âm tiết tính.

Tính chất âm tiết tính của tiếng Việt đưa đến nhiều hệ quả quan trọng về ngữ âm cũng như về ngữ pháp. Về mặt ngữ âm, do mỗi âm tiết là vỏ ngữ âm của một hình vị, và cũng thường là vỏ ngữ âm của từ đơn, nên số lượng các âm tiết là có tính biểu hạn. Ở các ngôn ngữ có kết cấu phi âm tiết tính, như các ngôn ngữ Ấn–Âu, số lượng các âm tiết là không giới hạn.

Là vỏ ngữ âm của một hình vị hay một từ đơn, mỗi âm tiết tiếng Việt bao giờ cũng tương ứng với một ý nghĩa nhất định, nên việc phá vỡ cấu trúc âm tiết trong ngữ lưu, tức việc xê dịch vị trí của các âm tố (âm vị) của cùng một hình vị, từ âm tiết này sang âm tiết khác, là điều ít khi xảy ra. Ví dụ, từ cảm ơn, có [m] là phụ âm cuối trong âm tiết cảm, phụ âm này không thể trở thành phụ âm đầu của âm tiết đi sau được, vì như thế sẽ cho ra một từ khác là cả mơn.

Kết quả là trong tiếng Việt âm tiết có một cấu trúc chặt chẽ, mỗi âm tố (âm vị) có một vị trí nhất định trong âm tiết. Đứng đầu âm tiết bao giờ cũng là một phụ âm, cuối âm tiết là một phụ hay bán nguyên âm, phụ âm cuối luôn luôn ở cuối âm tiết, không thể trở thành âm đầu được. Do đó, phụ âm cuối và âm đầu làm thành hai đối hệ khác nhau, có vị trí và chức năng khác nhau trong cấu trúc âm tiết.

Trong các ngôn ngữ phi âm tiết tính, như các ngôn ngữ Ấn–Âu do hình thức biểu đạt của hình vị không trùng với âm tiết, mà thường là một âm vị, nên vị trí của âm vị trong âm tiết là không cố định. Các âm vị của cùng một hình vị có thể đứng cuối âm tiết trong một kiểu kết hợp này, và đứng đầu âm tiết trong một kiểu kết hợp khác. Ví dụ, trong tiếng Nga, hình vị dom (nhà) có âm vị [m] ở cuối âm tiết, âm vị này có vị trí ở đầu âm tiết ma trong từ doma (ở nhà). Tiếng Nga và các ngôn ngữ có cùng đặc điểm như tiếng Anh, tiếng Pháp,… được gọi là ngôn ngữ có kết cấu âm vị tính. Âm vị của các ngôn ngữ Ấn–Âu với tư cách là đơn vị khu biệt nghĩa của từ, không có một vị trí cố định trong âm tiết như âm vị của tiếng Việt.

Một đặc điểm khác của âm tiết tiếng Việt là mỗi âm tiết đều có mang một thanh điệu nhất định. Việc thể hiện thanh điệu đòi hỏi âm tiết phải có một trường độ cố định. Tính chất cố định của trường độ âm tiết làm cho các yếu tố bên trong âm tiết trừ phụ âm đầu, không có một trường độ cố định, mà đắp đổi lẫn nhau, liên quan với nhau rất chặt chẽ.

Những đặc điểm vừa nêu cho thấy tầm quan trọng của âm tiết trong việc nghiên cứu ngữ âm tiếng Việt. Là đơn vị có chức năng khu biệt nghĩa của từ, các âm vị trong tiếng Việt đồng thời là yếu tố cấu tạo của âm tiết, có một vị trí cố định trong kết cấu âm tiết. Do đó, việc phân xuất các âm vị trong tiếng Việt phải xuất phát từ việc phân tích các cấu trúc âm tiết. Nói cách khác, âm tiết là xuất phát điểm của việc nghiên cứu âm vị học trong tiếng Việt.

2. Cấu trúc âm tiết tiếng Việt

Việc phân tích âm tiết tiếng Việt trên bình diện ngữ âm học cũng như trên bình diện hình thái học cho thấy các yếu tố trong âm tiết có các mức độ độc lập khác nhau.

– Trên bình diện ngữ âm học, các cứ liệu thực nghiệm cho thấy âm tiết tiếng Việt được cấu tạo bởi ba thành tố độc lập là thanh điệu, phụ âm đầu và phần còn lại.

Thanh điệu là yếu tố luôn có mặt trong mọi âm tiết tiếng Việt. Tính chất độc lập về mặt ngữ âm của thanh điệu thể hiện ở chỗ nó có đường nét và trường độ tương đối ổn định tuỳ thuộc vào các loại hình âm tiết.

Phụ âm đầu là yếu tố mở đầu của âm tiết. Tính chất độc lập của phụ âm đầu thể hiện ở chỗ nó không tham gia vào việc đắp đổi về trường độ giữa các yếu tố bên trong âm tiết.

Phần còn lại của âm tiết, có từ một đến ba yếu tố, gồm một bán nguyên âm chiếm vị trí trung gian giữa phụ âm đầu và phần còn lại, một nguyên âm âm tiết tính và một phụ âm hoặc bán nguyên âm cuối, có vai trò kết thúc âm tiết. Trừ bán nguyên âm trước nguyên âm âm tiết tính, các yếu tố của phần còn lại liên kết với nhau rất chặt chẽ, làm thành một khối. Để đảm bảo cho tính chất cố định về trường độ của âm tiết, các yếu tố của phần còn lại có sự đắp đổi lẫn nhau về trường độ: nếu nguyên âm dài thì phụ âm hay bán âm cuối ngắn, ngược lại, nếu nguyên âm ngắn thì âm cuối dài. Các yếu tố của phần còn lại không có một trường độ cố định, và do đó, mức độ độc lập về mặt ngữ âm của chúng là thấp hơn so với phụ âm mở đầu âm tiết. Phần còn lại của âm tiết được gọi là phần vần, vì đây là bộ phận đoạn tính kết hợp với thanh điệu tạo nên vần thơ.

– Trên bình diện hình thái học, tuy rằng ranh giới của âm tiết và ranh giới của hình vị luôn luôn trùng nhau, nhưng cũng có thể nói đến một thứ ranh giới bán hình vị đi qua giữa thanh điệu, âm đầu và phần vần, trong cách cấu tạo từ với –iêc được gọi là hiện lượng iêc hóa, như ghế ghiếc, học hiệc. Từ mới được cấu tạo bằng cách tạo thêm một âm tiết mới, có âm đầu là phụ âm đầu của từ gốc, phần vần là “iêc”, và có thanh điệu là “sắc” hoặc “nặng”. Các từ được cấu tạo bằng –iêc, ngoài nghĩa riêng, còn có một nét nghĩa chung là tập hợp và khinh thường. Do đó, bộ phận “iêc” có thể được gọi là một đơn vị ngữ pháp, và ranh giới giữa thanh điệu, âm đầu và vần là có ý nghĩa hình thái học.

Nếu như có thể tìm thấy khả năng phân chia âm tiết tiếng Việt trên bình diện hình thể học thành ba bộ phận thanh điệu, âm đầu và vần, thì trong nội bộ phần vần, không thể tìm thấy những ranh giới có ý nghĩa hình thái học đi qua các yếu tố của nó. Hiện tượng luân phiên giữa các nguyên âm cùng độ mở có âm sắc đối lập như u – i, ô – ê, và o – e trong các từ láy chúm chím, hổn hển, mon men, cũng như hiện tượng luân phiên giữa các phụ âm cuối mũi và không mũi có cùng vị trí cấu âm trong các từ đèm đẹp, hun hút không có tính chất ngữ nghĩa hóa (giữa các từ nêu trên không có một ý nghĩa chung), chỉ cho thấy khả năng chia tách về mặt ngữ âm giữa nguyên âm và phụ âm cuối.

Tóm lại, có những sự kiện ngữ âm cũng như hình thái học cho thấy rằng các yếu tố của âm tiết tiếng Việt có mức độ độc lập khác nhau, chia thành hai bậc.

+ Bậc một là những yếu tố độc lập về mặt ngữ âm và có thể được tách rời về mặt hình thái học, đó là thanh điệu, âm đầu và vần.

+ Bậc hai là các yếu tố của phần vần, gồm bán nguyên âm trước nguyên âm âm tiết tính (được gọi là âm đệm), nguyên âm âm tiết tính (được gọi là âm chính), phụ âm hoặc bán nguyên âm cuối (được gọi là âm cuối). Các yếu tố này gán liền với nhau về mặt ngữ âm do tính chất cố định về trường độ của âm tiết và chỉ được tách ra bằng những ranh giới thuần túy ngữ âm học. Nói cách khác, âm tiết tiếng Việt có cấu trúc hai bậc.

Các thành tố của âm tiết tiếng Việt và quan hệ hai bậc giữa các thành tố có thể được trình bày trong lược đồ sau đây:


THANH ĐIỆU

Âm đầu

Vần
Âm đệm Âm chính Âm cuối

3. Các loại hình âm tiết tiếng Việt

Căn cứ vào sự có mặt hay vắng mặt của âm cuối, vào đặc trưng có âm cuối, các âm tiết tiếng Việt có thể chia ra các loại sau:

– Âm tiết mở: không có âm cuối. Ví dụ: chưa, mẹ

– Âm tiết nửa mở: có âm cuối là một bán nguyên âm. Ví dụ: mai, nhảy, sào, sau.

– Âm tiết nửa khép: có âm cuối là một phụ âm mũi. Ví dụ: làm, tin, mênh, mông.

– Âm tiết khép: có âm cuối là một phụ âm tắc vô thanh.Ví dụ: tập, mệt, học, thích.

Một số nhà ngôn ngữ học còn phân loại âm tiết theo các đặc trưng mở đầu âm tiết (xem N. D. Andreev, 1975).

4. Một số hiện tượng ngữ âm có liên quan đến âm tiết

4.1. Nguyên âm đôi

Khái niệm âm tiết có liên quan chặt chẽ với khái niệm nguyên âm đôi, nguyên âm ba (gọi là đa nguyên âm).

Nguyên âm đôi là tổ hợp hai nguyên âm (còn nguyên âm ba là tổ hợp ba nguyên âm) được phát âm thành một âm tiết. Xét theo vị trí so với đỉnh âm tiết, người ta phân nguyên âm đôi thành loại đi xuống (nguyên âm làm đỉnh âm tiết đi trước một nguyên âm phụ), đi lên (đỉnh âm tiết ở nguyên âm thứ hai và loại cân bằng (trong đó không phân biệt nguyên âm nào là đỉnh). Có thể lấy các nguyên âm đôi tiếng Việt iê, ia, yê, ya, ua, ươ, ưa hoặc ao, iu, ôi làm ví dụ cho các nguyên âm đôi đi xuống. Các nguyên âm đôi đi lên cũng có trong tiếng Việt như oa, uê, uy, oe v.v… Loại nguyên âm đôi cân bằng ít gặp hơn.

Các nguyên đôi trong một số trường hợp được coi là tổ hợp của hai âm vị nguyên âm (nguyên âm đôi ngữ âm học) trong những trường hợp khác lại có giá trị như một âm vị đơn (nguyên âm đôi âm vị học).

Vấn đề giải quyết âm vị học các nguyên âm đôi là một trong những vấn đề âm vị học phức tạp nhất. Vấn đề này cần được giải quyết cụ thể trong từng ngôn ngữ. Vấn đề nguyên âm đôi trong tiếng Việt sẽ được đề cập đến kỹ hơn trong phần vần.

Cần phân biệt nguyên âm đôi với các nguyên âm chuyển sắc. Nguyên âm chuyển sắc không phai là tổ hợp hai nguyên âm, mà chỉ là một nguyên âm nhưng có âm hưởng khong đồng chất trong quá trình phát âm, có nghĩa là được mở đầu hay kết thúc bởi một yếu tố nguyên âm phụ khác nhưng rất ngắn (khi phiên âm yếu tố phụ này có thể ghi thêm bảng ký hiệu phiên âm nhỏ ở trên về phía trước hay sau nguyên âm, ví dụ uo, ie, v.v…).

4.2. Sự biến hóa ngữ âm

Khái niệm âm tiết cũng liên quan mật thiết đến sự biến hoá ngữ âm. Vì các âm tố lời nói không phát âm đơn lập mà được phát âm trong dòng lời nói liên tục, cho nên các âm tố có thể ảnh hưởng lẫn nhau, đặc biệt là những âm tố lân cận được phát âm trong cùng một âm tiết, hoặc ở những âm tiết đi liền nhau. Ảnh hưởng lẫn nhau của các âm tố có thể gây ra những hiện tượng biến hóa ngữ âm khác nhau như: sự thích nghi, sự đồng hóa, dị hóa, bớt âm, thêm âm và nhược hóa của nguyên âm ở những âm tiết không có trọng âm v.v…

Một số hiện tượng biến hóa ngữ âm thường gặp trong tiếng Viết là:

a. Sự thích nghi:

Sự thích nghi xuất hiện giữa phụ âm và nguyên âm đứng cạnh nhau. Nếu âm tố sau biến đổi cho giống với âm tố đi trước, đó là thích nghi xuôi, còn nếu âm tố trước biến đổi cho hợp với âm tố sau là thích nghi ngược. Trong tiếng Việt, nguyên âm và phụ âm cuối kết hợp với nhau rất chặt chẽ, tạo thành phần vần của âm tiết. Hiện tượng thích nghi biểu hiện rõ rệt trong những vần có nguyên âm dòng trước và dòng sau tròn môi kết hợp với phụ âm cuối ng và c.

b. Sự đồng hóa:

Xuất hiện giữa những âm tố hay hiện tượng ngữ âm cùng loại (giữa nguyên âm với nguyên âm, phụ âm với phụ âm, thanh điệu với thanh điệu v.v…) khi một yếu tố thay đổi để giống với yếu tố kia.

Ví dụ:

vỏn vẹn -> vẻn vẹn

muôn vạn -> muôn vàn

c. Sự dị hóa:

Xuất hiện giữa những âm tố hay nhưng hiện tượng âm thanh cùng loại, khi một yếu tố biến đổi cho khác với yếu tố kia. Ví dụ:

nhỏ nhỏ -> nho nhỏ

nhợt nhạt -> nhàn nhạt

d. Sự bớt âm:

Là hiện tượng rút gọn để dễ phát âm hơn. Hiện tượng này thường xuất hiện trong khẩu ngữ. Trong tiếng Việt, đó có thể là sự bớt âm và sáp nhập các âm tiết như:

ba mươi mốt -> băm mốt

phải không -> phỏng

hay bỏ hãn âm tiết như: bốn mươi sau thành bốn sáu. Sự bớt âm cũng thường gặp trong các từ vay mượn tiếng nước ngoài.

BÀI TẬP

30. Hãy tìm nguyên âm đôi và nguyên âm ba trong các âm tiết của bốn câu thơ sau:

Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba–lê,

Một viên gạch hồng Bác chống lại cả mùa băng giá,

Và sương mù thành Luân–đôn, người có nhớ,

Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya.

(Chế Lan Viên – Người đi tìm hình của nước)

Hãy chỉ ra nguyên âm nào tạo đỉnh âm tiết trong trường hợp ấy.

31. So sánh phát âm miền Trung và miền Bắc:


Miền Trung

Miền Bắc
eng anh
séc sách
ôông ông
họoc học

Hiện tượng biến hóa ngữ âm nào đã xảy ra trong phát âm miền Bắc? Hãy giải thích hiện tượng đó.

32. Gọi các phụ âm: [ b ] hoặc [ d [, [ l ], [ r ], [ s ] trong tiếng Việt là A, nguyên âm [ a ] là B. Có những kiểu kết hợp nào (trong các kiểu AB, BA, AA, BB) được chấp nhận trong tiếng Việt? Tại sao?

33. Gọi các phụ âm [ p ] hoặc [ t ], [ m ], [ n ] là A và nguyên âm [ a ] là B. Có những kiểu kết hợp nào được chấp nhận trong tiếng Việt? Bạn có nhận xét gì về sự kết hợp của các nguyên âm và phụ âm trong âm tiết tiếng Việt và vị trí của chúng trong âm tiết?




Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 3


Trong mối quan hệ với các yếu tố của âm tiết, phụ âm đầu là những đơn vị độc lập hơn cả. Nó hầu như không liên quan đến những đặc tính của phần vần. Sự đối lập của các phụ âm đầu rất dễ tìm thấy qua các cặp tối thiểu. Ví dụ: ba, da, ta, sa, la, na v.v…

Phụ âm đầu tiếng Việt luôn luôn gắn liền với vị trí và chức năng mở đầu âm tiết. Đi sau âm đầu trong âm tiết là bán nguyên âm không thành âm tiết (hay còn gọi là âm đệm).

Phụ âm đầu tách khỏi phần vần nhờ ranh giới hình thái học tiềm tàng trong các hiện tượng lặp và láy từ, hiện tượng cấu tạo từ bằng cách nói lái, hiện tượng –iêc hoá, qui luật hiệp vần thơ v.v…

Hệ thống phụ âm đầu tiếng Việt với số lượng đối lập âm vị học tối đa được thể hiện trên chữ viết. Riêng trong những âm tiết như ăn, uống, uể, oải, trên chữ viết không ghi phụ âm đầu. Trong thực tế phát âm, ở vị trí này có thể xuất hiện âm tắc thanh hầu [ ? ]. Trong từng phương ngữ, một số đối lập có trên chữ viết có thể bị mất đi, hoặc bị thay thế. Ví dụ: trong tiếng Hà Nội không còn đối lập các phụ âm đầu giữa ch – tr, x – s và gi – d – r. Trong tiếng miền Nam, hai phụ âm / v /, / z / được thay bằng [ j ].

Hiện nay, hệ thống phụ âm đầu được sử dụng thực tế trong nhà trường và trên các văn bản, chung cho các phương ngữ là hệ thống phụ âm đầu được hình thành trên cơ sở phát âm Hà Nội cộng với sự phân biệt các phụ âm ch – tr, x – s, d – gi – r, gồm có 22 phụ âm sau đây: / b, m, f, v, t, th, d, n, s, z, l, t, s, z, c, n, k, η, x, , ?, h /.

1. Về cấu âm

Các phụ âm đầu phân biệt nhau theo ba loạt tiêu chí: phương thức cấu âm, vị trí cấu âm và sự có mặt hay không có mặt của tiếng thanh.

1.1. Về phương thức cấu âm:

Các phụ âm đầu tiếng Việt đối lập với nhau theo tiêu chí tắc / xát.

a) Các phụ âm tắc gồm: / b, d, t, th, t, c, k, m, n, n, η, ? /, tương ứng với chữ viết là: b, đ, t, th, tr, ch, c – k – q, m, n, nh, ng – ngh và zêrô.

b) Các phụ âm xát gồm: / f, v, s, z, l, s, z, , x, h /, tương ứng với chữ viết là ph, v, x, d – gi, l, s, r, g – gh, kh, h.

Trong số này, có một số cặp tạo thành loạt tương liên theo tiêu chí tắc / xát:

/ b / : / v /; / d / : / z /

/ t / : / s /; / t / : / s /; / k /: / x /

Nhưng đây là thế đối lập loại hình không tiêu biểu vì các thành tố trong mỗi cặp nói trên, ngoài đối lập tắc / xát, có thể khác nhau về đặc điểm khác. Ví dụ: phụ âm tắc / b / là phụ âm môi–môi, còn âm xát / v / là phụ âm môi–răng v.v…

1.2. Về thanh tính:

Các phụ âm đầu tiếng Việt trước tiên được phân làm hai nhóm theo tiêu chí vang / ồn.

a) Phụ âm ồn là: / b, d, t, th, c, k, f, v, s, z, s, z, s, z, x, , h /

b) Phụ âm vang là: / m, n, n, η, l /

– Trong các phụ âm ồn, thì tiêu chí hữu thanh / vô thanh khu biệt các âm vị thành các âm hữu thanh / b, d, v, z, z,  / và các âm vô thanh / t, th,, t, c, k, f, s, s, x, h.

– Các phụ âm vang lại được chia ra các phụ âm mũi / m, n,  / và âm bên / l /.

– Trong số các phụ âm vô thanh, tiêu chí bật hơi khu biệt / th / với / t /.

Như vậy, có thể lập thế tương liên theo tiêu chí vô thanh hữu thanh như sau:

/ f / : / v /

/ u / : / d /

/ s / : / z /

/ s / : / z /

/ x / : /  /

Cần thấy rằng thế tương liên (hay thế đối lập loại hình) vô thanh / hữu thanh không bền vững. Xét theo sự hiện thực hóa trong các phương ngữ: bên cạnh phụ âm / p / chỉ gặp trong các từ ngoại lai (hoặc trong một vài thổ ngữ cổ tiếng Việt), thì một số phụ âm hữu thanh trong thế đối lập này có thể không có mặt trong các phương ngữ. Ví dụ: / v /, / z / không có trong tiết miền Nam; âm /z/ (chữ viết là r) không tồn tại trong tiếng Hà Nội. Vì vậy có nhà nghiên cứu cho rằng, trong tiếng Việt, các phụ âm không đối lập theo tiêu chí vô thanh / hữu thanh mà đối lập theo tiêu chí căng / lơi hoặc mạnh / yếu (L. Thompson, 1965). Còn Gordina thì nhận xét rằng “Hệ thống phụ âm đầu tiếng Việt có đặc tính là không cân đối: thế đối lập nhiều chiều thống trị và vắng một thế đối lập loại hình (M. V. Gordina, 1984).

Mặc dù có nhiều ý kiến thảo luận, giáo trình này vẫn coi tiêu chí vế thanh tính là tiêu chí khu biệt, vì trên thực tế, chưa ai đo được các mức căng / lơi, và mạnh / yếu của phụ âm tiếng Việt một cách chính xác. Còn đặc tính về tiếng thanh thì dễ nhận ra bằng thính giác và bằng các máy móc thí nghiệm hiện có. Trong thực tế, các phụ âm vô thanh tiếng Việt cũng là phụ âm mạnh, và phụ âm căng, còn các phụ âm hữu thanh cũng là phụ âm yếu và không căng (lơi) như trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Nhưng tùy hệ thống phụ âm từng ngôn ngữ mà một trong các tiêu chí hữu thanh / vô thanh, căng / lơi hay mạnh / yếu được chọn làm nét khu biệt, còn các đặc trưng kia là nét toàn vẹn (như đã trình bày trong phần Dẫn luận).

1.3. Về vị trí cấu âm:

Các phụ âm tiếng Việt phân biệt nhau theo tiêu chí tương liên môi / lưỡi / thanh hầu.

Loạt âm môi: / b, m, f, v /

Loạt âm lưỡi: / d, t, th, s, z, n, l, t, s, z, c, η, x,  /

Loạt âm thanh hầu: /?, h /

Các âm lưỡi được chia thành các nhóm nhỏ:

– Các âm lưỡi trước có cấu âm đầu lưỡi: / t, th, d, z, s, n, l /

– Các âm lưỡi trước có cấu âm cong lưỡi: / t, s, z /

– Các âm lưỡi giữa: / c, n /

– Các âm lưỡi sau: / k, , x, y /

BÀI TẬP

34. Hãy tập bảng nhận diện hệ thống phụ âm đầu theo phát âm Hà Nội.

35. Miêu tả các âm đầu / b /, / t /, / s /, / n /, / x /

(Mẫu: / b /: phụ âm tắc, hữu thanh, môi–môi).

2. Về tính chất âm học

Nếu chấp nhận về cơ bản các tiêu chí của R. Jakobson, G. Fant và M. Halle, chúng ta có thể miêu tả hệ thống phụ âm đầu tiếng Việt với ít tiêu chí hơn, theo cách phân loại lưỡng phân, tiện lợi cho các ứng dụng trong lĩnh vực kỹ thuật.

Để khu biệt các phụ âm đầu tiếng Việt, cần 7 tiêu chí (trong số 12 tiêu chí do Jakobson, Fant và Halle đề xướng), đó là:

1. Phụ âm tính – không phụ âm tính

2. Vang– không vang (gần tương ứng với mũi – không mũi)

3. Hữu thanh – vô thanh

4. Ngắt – không ngắt (còn gọi là gián đoạn – liên tục hay kín–hở)

5. Đặc – loãng

6. Trầm – bổng

7. Gắt – không gắt.

Dưới đây là phần thuyết minh về các tiêu chí trên:

– Tiêu chí phụ âm tính – không phụ âm tính: Các phụ âm đầu tiếng Việt, xét theo tiêu chí âm học, đều có phụ âm tính, trừ [ h ] và [ ? ]. Hai âm này có đặc tính hoặc là có nguồn tiếng động không chu kỳ (như trường hợp âm [ h ]) hoặc có sự nối nguồn đột ngột (như trường hợp âm [ ? ]) khác với các phụ âm khác, trên phổ của hai âm này không có giá trị zêrô (zêrô – được hiểu là tác động phản cộng hưởng).

– Tiêu chí vang – không vang (ồn): Tiêu chí này chia các phụ âm đầu thành hai nhóm là các phụ âm vang [ m, n, , l]; các phụ âm ồn là toàn bộ số phụ âm còn lại.

– Tiêu chí hữu thanh – vô thanh: Tiêu chí này phân biệt hai loại phụ âm:

a. Hữu thanh: [ b, d, v, z,  ]

b. Vô thanh: [ p, t, th, t, c, k, f, s, x ]

Các phụ âm vang và các âm [ ? ], [ h ] không tham gia đối lập này.

– Tiêu chí ngắt – không ngắt: phân biệt các phụ âm đầu ngắt [ t, th, t, c, k, b, d,? ] và không ngắt [ f, s, x, v, z, , h ]

– Tiêu chí đặc – loãng: Theo tiêu chí này, các phụ âm được chia thành:

a. Loạt âm đặc: [ t, c, k, s, x, y, z, n ]

b. Loạt âm loãng: [ p, t, th, f, s, v, z, m, n ]

Các phụ âm [ l ], [ b ], [ d ], [ ? ], [ h ] không tham gia thế đối lập này.

– Tiêu chí trầm – bổng phân biệt các phụ âm:

a. Trầm: [ p, k, f, x, b, v, y, m,  ]

b. Bổng: [ d, t, th, t, c, z, s, n,  ]

Các âm [ l ], [ ? ], [ h ] đứng ngoài thế tương liên trầm – bổng.

– Tiêu chí gắt – không gắt: phân biệt các âm [ th ] với [ t ] và [ c ] với [ t ].

Tất cả các âm đầu còn lại đều không tham gia đối lập này.

Sự phân loại phụ âm đầu tiếng Việt theo các tiêu chí âm học trên đây mới chỉ là sự suy luận khoa học dựa trên các tiêu chí khu biệt lưỡng phân phổ quát của Jakobson. Cần kiểm tra tính chính xác của nó bằng các phương pháp ngữ âm học thí nghiệm và sự thụ cảm của người bản ngữ.

BÀI TẬP

36. Cho các đặc trưng: phụ âm, không vang, vô thanh, ngắt, loãng, bổng, không gắt. Đó là âm gì?

37. Nội dung âm vị học của / h / về mặt âm học.

38. Hãy tìm đặc điểm cấu âm nào tương ứng với tiêu chí ngắt – không ngắt (hay gián đoạn – liên tục), tiêu chí đặc – loãng và tiêu chí trầm – bổng.



1. Các phụ âm đầu tắc và xát

1.1. Sự hiện thực hóa về mặt ngữ âm của các phụ âm đầu tắc

Trong tiếng Việt, cũng như trong các ngôn ngữ khác phụ âm tắc thuộc vào phạm trù phụ âm bền vững nhất và là lọai tương liên cơ bản về phương thức cấu âm. So với các phụ âm khác, phụ âm tắc có tính phụ âm rõ ràng nhất, nếu như coi tính chất đặc thù của phụ âm là sự tạo thành và vượt qua chướng ngại.

Đối lập giữa các phụ âm tắc và phụ âm xát, tức là đối lập giữa gián đoạn và liên tục (hay ngắt / không ngắt), theo thuật ngữ của những người đề xướng học thuyết lưỡng phân các nét khu biệt âm vị học (R. Jakobson, G. Fant và M. Halle). Từ quan điểm cấu âm, đặc trưng gián đoạn (ngắt) được xác định bởi sự đóng và mở đột ngột của chướng ngại hay sự gián đoạn đột ngột của quá trình cấu âm. Tính gián đoạn đặc trưng cho các phụ âm tắc và phụ âm rung, trong khi tính liên tục đặc trưng cho các phụ âm xát và phụ âm bên. Về mặt âm học, sự gián đoạn đặc trưng bởi sự vắng mặt âm thanh (ít ra là ở vùng tần số cao hơn tần số âm cơ bản), và sự lan truyền nhanh chóng của năng lượng trên một giải tần số rộng (đoạn chuyển tiếp giữa phụ âm đầu tắc và nguyên âm được thực hiện dưới hình thức nổ của phụ âm và sự biến đổi đặc tính của phoóc–măng ở phần đầu của nguyên âm). Còn tính liên tục, đó là không có đoạn chuyển tiếp đột ngột giữa âm thanh và sự vắng mặt của âm thanh.

Trên đường ghi oscillograph, phụ âm đầu tắc – nổ được biểu thị bằng đường zê–rô âm học ở giai đoạn tắc (đối với phụ âm vô thanh) và sự bật ngắn với tiếng ồn tần số cao. Còn phụ âm xát luôn luôn có tiếng ồn tần số cao suốt thời gian phát âm. Phụ âm tắc thường được xác định như những phụ âm có cường độ mạnh, còn phụ âm xát là những phụ âm có cường độ yếu. Về mặt dài, phụ âm tắc thường ngắn hơn phụ âm xát tương ứng, tỷ lệ về độ dài giữa phụ âm tắc và phụ âm xát tương ứng trong tiếng Việt là 1 : 1,19. So với phụ âm hữu thanh và vô thanh (với tỷ lệ về độ dài là 1 : 1,66) thì sự phân biệt về độ dài giữa phụ âm tắc và phụ âm xát không rõ rệt bằng.

Đặc điểm của hệ thống ngữ âm tiếng Việt là các phụ âm đầu bao giờ cũng có ba giai đoạn cấu âm: tiến, giữ, lùi. Còn các phụ âm cuối là những phụ âm khép, không có giai đoạn cấu âm thứ ba. Đối với phụ âm tắc, độ dài của giai đoạn tắc và giai đoạn bật ra (tức giai đoạn lùi) có ý nghĩa quan trọng. Nó thay đổi phụ thuộc vào vị trí cấu âm của phụ âm và giúp ta phân biệt các loại hình phụ âm tắc cũng như phân biệt phụ âm tắc với phụ âm xát, phụ âm tắc với phụ âm tắc– xát.

Số liệu thực nghiệm cho thấy rằng độ dài giai đoạn bật của phụ âm đầu tắc vô thanh môi – môi [ p– ] và phụ âm lưỡi trước [ t– ] rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng từ 11% đến 13% độ dài chung của phụ âm. Như vậy, độ dài giai đoạn tắc ở các phụ âm này rất lớn (87%, 89%). Ngược lại, phụ âm tắc vô thanh lưỡi. [ k– ] thường có giai đoạn nổ dài gấp đôi so với các phụ âm môi và lưỡi trước (25%).

Trong các tiếng địa phương khác nhau, độ dài giai đoạn bật ra của các phụ âm tắc vô thanh cũng không giống nhau. Đặc biệt, phụ âm / c– / (chữ viết tắt là ch) được phát âm với nhiều mức tắc– xát hóa khác nhau. Sự tắc– xát hóa của / c– / thể hiện rõ nhất trong phát âm Hà Nội, giai đoạn bật ra của phụ âm càng dài thì tính tắc–xát càng rõ.

Trong phát âm Hà Nội, phụ âm / c– / là phụ âm mặt lưỡi trước, trường độ giai đoạn bật ra – tức giai đoạn xát – là 53% trường độ giai đoạn tắc là 47%. Như vậy, về mặt ngữ âm, phụ âm / c– / trong tiếng Hà Nội rõ ràng là một phụ âm tắc – xát chứ không phải phụ âm tắc. Về mặt âm học, nó là phụ âm gắt (xem bảng nhận diện các âm đầu theo các tiêu chí âm học).

Ta hãy so sánh độ đài các giai đoạn cấu âm các phụ âm đầu tắc và phụ âm / c– /tiếng Hà Nội:


Tắc

Bật ra
/ t- / 89% 11%
/ k– / 75% 25%
/ c- / 47% 53%

Sự phức tạp hóa về phương thức cấu âm của phụ âm / c– / trong tiếng Hà Nội (và tiếng Bắc nói chung) đã được nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy nhưng giải thích một cách khác nhau. Lê Văn Lý (1948), T. T. Mkhitarian (1959) miêu tả phụ âm / c– / như một âm [ tj ] (t ngạc hoá). Theo M. V. Gordina (1960) thì phụ âm / c– / không phải là một âm lưỡi giữa điển hình, về mặt cấu âm nó trùng với một âm tắc lưỡi trước ngạc hóa mạnh. L. Thompson (1965) gọi / c– / là một phụ âm tắc với sự tắc– xát nhẹ ở giai đoạn nổ. Riêng H. Maspéro (1912) thì coi đây là một phụ âm tắc– xát và ghi bằng ký hiệu /Cy/.

Các âm tắc hữu thanh / b– /, / d– / thường có cấu âm tắc thanh hầu mở đầu. Điều này đã được miêu tả trong tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác ở vùng này (Haudricoun, 1954) như hiện tượng tiền thanh hầu hóa. Hiện tượng tiền thanh hầu hóa trong tiếng Việt hiện đại không có giá trị âm vị học. Điều đó giải thích bởi tính không đều đặn và sự vắng mặt thường xuyên của nó trong ngữ lưu.

1.2. Sự hiện thực hóa về mặt ngữ âm của phụ âm đầu xát

Các phụ âm đầu xát là một nhóm phụ âm lớn và đa dạng, đối lập với nhóm phụ âm tắc. Về mặt ngữ âm, các phụ âm xát tiếng Việt, có thể hiện thực hóa như một trong hai biến thể sau đây xét về phương thức cấu âm:

1. Như một phụ âm xát thuần tuý: / f, v, s, z, x, y /

2. Hoặc như một phụ âm xát có yếu tố tắc mở đầu: / pf, bv, ts, dz, kx, gy /

Đó là những biến thể tự do thường gặp trong phát âm ở nhiều vùng khác nhau, kể cả phát âm Hà Nội…

Theo cứ liệu của ngạc đồ, sự mở đầu tắc của biến thể thứ hai thể hiện rất rõ và tần số xuất hiện của nó tăng dần theo mức độ lui dần về sau của tiêu điểm cấu âm. Vì vậy, biến thể có yếu tố mở đầu tắc của các phụ âm mặt lưỡi sau [ kx, gy ] được nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy (M. Gordina, L. Thompson, Đoàn Thiện Thuật v.v…). Biến thể có yếu tố tắc mở đầu của phụ âm xát có thể là dấu vết của phụ âm tắc cổ xưa. Vì các âm xát tiếng vệt hiện đại vốn do các phụ âm tắc biến đổi mà thành. Ở vị trí giữa hai nguyên âm, hoặc sau âm cuối vang của âm tiết trước, các phụ âm xát bao giờ cũng thể hiện với cấu âm xát hoàn toàn.

Khả năng tồn tại của yếu tố tắc mở đầu các phụ âm xát làm cho sự phân biệt giữa phụ âm tắc và phụ âm xát ở giai đoạn giữ chỉ dựa trên độ dài của sự tắc: ở các phụ âm đầu tắc, thời gian tồn tại của yếu tố tắc dài hơn ở các phụ âm đầu xát. Do đó sự đối lập âm vị học của các phụ âm đầu tắc và các phụ âm đầu xát trong tiếng Việt chủ yếu dựa vào chất lượng của giai đoạn cấu âm thứ ba – tức giai đoạn lùi (nổ hoặc không nổ). Chính vì vậy, có thể nói rằng về mặt âm vị học, trong tiếng Việt có sự đối lập giữa nhóm phụ âm đầu nó và nhóm phụ âm dịu không nổ, chứ không phải là giữa phụ âm tắc và phụ âm xát.

Về mặt cấu tạo, mỗi loại hình phụ âm xát có hình dạng và độ rộng đặc thù của khe, nơi luồng không khí thu hẹp trên lối ra của mình. Các phụ âm xát đầu lưỡi [ s ], [ z ] là những phụ âm xát khe tròn, độ rộng của khe hợp hơn so với độ rộng khe của các phụ âm xát khe dẹt cong lưỡi [ s ], [ z ]. Trong các tiếng địa phương miền Trung và miền Nam, nơi còn duy trì đối lập giữa / s / và / s /, / z / và / z / thì [ s ] – [ z ] có khe rất hẹp và tròn để đối lập với khe dẹt của [ s ] – [ z ] và có tiếng gió mạnh khi phát âm.

Trong các thổ ngữ miền Bắc, đối lập / s / – / s / rất mờ hoặc mất hẳn. Vì vậy, một số người miền Bắc phát âm / s / với khe rộng, tạo nên âm [ sj ] đớt. Điều này thể hiện rõ trong phát âm vùng Vĩnh Phú.

Trong đa số các thổ ngữ miền Trung (từ Thừa Thiên trở vào) và miền Nam, phụ âm / z / được phát âm thành [ j ] mạnh, ồn và có thể có âm tắc mở đầu. Cadière đã chỉ ra nhiều mức hiện thực hóa của âm này trong các thổ ngữ miền Trung khác nhau: có sự tắc–xát hóa và ngạc hóa ít đến nhiều từ [ d ] đến [ i ] (do đó chữ cái d được dùng biểu hiện âm / z / rõ ràng là có cơ sở ngữ âm).

Các phụ âm xát môi – răng / f /, / v / khác với tất cả các phụ âm xát khác bởi cường độ rất yếu của tiếng ồn. Trong tiếng Hà Nội, đa số trường hợp đó là những âm xát, môi – răng. Trong một số thổ ngữ có thể có cấu âm môi – môi. Biến thể có âm tắc mở đầu [ pf ] và cách phát âm thành phụ âm tắc môi–môi bật hơi, vô thanh [ ph ] của âm / f / ở một số thổ ngữ, đặc biệt là các thổ ngữ miền Trung và một số vùng nông thôn miền Nam phản ánh cách phát âm cổ của âm này.

2. Các phụ âm đầu hữu thanh và vô thanh

2.1. Sự hiện thực hóa về mặt ngữ âm của các phụ âm đầu vô thanh

Đứng cạnh các nguyên âm và những âm có tiếng thanh, phụ âm đầu vô thanh có thể bị hữu thanh hóa. Thông thường, sự hữu thanh hóa này không hoàn toàn, có nghĩa là các phụ âm vô thanh không bị hữu thanh hóa toàn bộ mà chỉ bị hữu thanh hóa bộ phận.

Trong tiếng Việt, trong lời nói liên tục, các phụ âm đầu vô thanh đứng sau âm tiết mở, nửa mở, nửa khép có thể bị hữu thanh hóa phần đầu do ảnh hưởng của nguyên âm, bán nguyên âm cuối và phụ âm cuối mũi đi trước. Nguyên âm đi sau thường không gây nên sự hữu thanh hóa các phụ âm đầu vô thanh, trừ phụ âm bật hơi / th / và âm đầu / h /.

Mức độ hữu thanh hóa phụ âm đầu giảm dần theo sự lui dần về sau của tiêu điểm cấu âm: các phụ âm môi vô thanh có giai đoạn hữu thanh hóa dài nhất, rồi đến phụ âm lưỡi trước, còn các phụ âm lưỡi sau có giai đoạn hữu thanh ngắn hơn cả. Các phụ âm đầu tắc thường bị hữu thanh mạnh hơn các phụ âm xát tương ứng và có giai đoạn hữu thanh hóa dài hơn.

Trên cơ sở những cứ liệu ngữ âm thí nghiệm, có thể xác định những khả năng sau đây của sự hiện thực hóa về mặt ngữ âm của phụ âm đầu vô thanh trong tiếng Việt, phụ thuộc vào bối cảnh ngữ âm.

a. Phụ âm đầu vô thanh hoàn toàn: Gặp ở đầu câu và ở vị trí sau các âm tiết khép (riêng hai phụ âm / th / và / h / trong hai vị trí nói trên có thể hữu thanh hóa ở phần cuối).

b. Phụ âm có phần đầu hữu thanh và phần sau vô thanh: gặp ở sau âm tiết mở, nửa mở, nửa khép (ở những vị trí này, phụ âm bật hơi / th / có thể bị hữu thanh cả ở phần đầu và phần cuối. Phụ âm xát vô thanh / h / ở các vị trí nói trên thường hiện thực hóa như một phụ âm xát hữu thanh hoàn toàn). Tần số xuất hiện và độ dài của giai đoạn hữu thanh hóa thay đổi phụ thuộc vào vị trí cấu âm và phương thức cấu tạo của phụ âm vô thanh được xét.

Như vậy, vị trí thuận lợi cho việc hiện thực hóa đặc trưng vô thanh của phụ âm đầu là vị trí đầu câu và ở sau âm tiết khép.

2.2. Sự hiện thực hóa về mặt ngữ âm của các phụ âm đầu hữu thanh

Trong tiếng Việc các phụ âm đầu hữu thanh, bề mặt ngữ âm, có thể hiện thực hóa như một trong những biến thể sau đây:

a. Như một phụ âm hữu thanh hoàn toàn

b. Như một phụ âm hữu thanh tiền thanh hầu hóa

c. Như một phụ âm bán hữu thanh

d. Như một phụ âm vô thanh

Biến thể hữu thanh hoàn toàn (biến thể chính) của phụ âm hữu thanh gặp ở sau âm tiết không có âm cuối vô thanh, cũng như có thể gặp ở đầu câu và sau âm tiết khép. Nhưng hai vị trí cuối cùng này phụ âm đầu hữu thanh được phát âm như một âm hữu thanh hoàn toàn trong khoảng 80% trường hợp.

Biến thể tiền thanh hầu hóa có thể gặp ở tất cả các âm hữu thanh và vang trong tiếng Việt: [?b, ?d, ?l, ?v, ?z, ?y, ?m,?n]. Nhưng thường gặp hơn cả là các phụ âm tắc hữu thanh tiền thanh hầu hóa [ ?b ], [ ?d ] và âm xát bên tiền thanh hữu hóa [ ?l ]. Biến thể [ ?l ] có tần số xuất hiện cao nhất (trong 100 trường hợp sử dụng âm xát bên, có 24 trường hợp là âm tiền thanh hầu [?l]). Có lẽ cách phát âm này phản ánh dấu vết cổ của những tiền âm tiết và những tổ hợp phụ âm đầu tiếng Việt như kl–, tl–, ml– v.v… mà hiện nay các tiền âm tiết và yếu tố đầu của tổ hợp phụ âm như k–, t–, m–… đã mất đi. Biến thể tiền thanh hầu hóa của phụ âm hữu thanh có thể xuất hiện ở đầu câu (10%) và sau âm tiết khép (5%). Ở các bối cảnh ngữ âm khác không thấy xuất hiện.

Hiện tượng tiền thanh hầu hóa các phụ âm đầu hữu thanh chỉ là một biến thể trên bình diện hiện thực hóa mà không có ai giá trị âm vị học, vì biến thể tiền thanh hầu hóa của phụ âm có tần số xuất hiện rất thấp và bị ước định bởi bối cảnh ngữ âm hoặc phụ thuộc vào đặc điểm phát âm địa phương hay cá nhân người nói.

Ở đầu câu sau chỗ ngừng, hoặc sau âm tiết khép cũng có thể gặp biến thể bán hữu thanh của phụ âm đầu. Sự xuất hiện của biến thể này có lẽ do ảnh hưởng của chỗ lặng âm học và do tác động của cấu âm của các âm cuối vô thanh đi trước. Ở những vị trí khác biến thể này không xuất hiện.

Sự vô thanh hóa hoàn toàn các phụ âm hữu thanh chỉ gặp trong rất ít trường hợp ở sau âm tiết khép và đặc biệt là ở đầu câu. Hiện tượng này có thể gặp nhiều hơn ở phụ âm xát hữu thanh so với phụ âm tắc hữu thanh.

Mặc dầu về mặt ngữ âm, phụ âm hữu thanh hiện thực hóa rất đa dạng nhưng trong hầu hết các trường hợp, đặc tính hữu thanh vẫn được giữ vững. Trong rất ít trường hợp, nếu phụ âm hữu thanh bị vô thanh hóa hoàn toàn do ảnh hưởng của bối cảnh thì nó cũng không bị lầm với phụ âm vô thanh tương ứng trong các thí nghiệm về cảm thụ lời nói. Bởi vì phụ âm hữu thanh khi ấy được nhận diện bởi cường độ yếu của tiếng động và độ dài rất nhỏ của nó, cùng với đặc điểm của giai đoạn chuyển tiếp với nguyên âm ở sau. Thông tin về tính chất vô thanh và hữu thanh của phụ âm chứa đựng chủ yếu ở giai đoạn chuyển tiếp này.

BÀI TẬP

39. Hãy tìm các phụ âm đầu xát tương ứng với các phụ âm đầu tắc sau đây: / b, t, d, k /

40. Hãy tìm các phụ âm đầu vô thanh tương ứng với các phụ âm hữu thanh sau đây: / v, z, b, d /

41. Miêu tả các phụ âm: / z /, / l /, / m /, / th /


Ở phần trên chúng ta đã miêu tả một hệ thống phụ âm đầu chung, là kết quả của sự hoà hợp giữa các phương ngữ và được sử dụng trong nhà trường, trên văn bản v.v… Hệ thống này được thể hiện cụ thể khác nhau trong các phương ngữ.

1. Hệ thống phụ âm đầu trong các thổ ngữ Bắc bộ

Đa số các thổ ngữ Bắc hiện nay, mà tiêu biểu là phát âm Hà Nội, có 19 phụ âm (kể cả âm tắc thanh hầu /?/). Trong phát âm Hà Nội đã mất đi loạt phụ âm uốn lưỡi / t, s, z /. Các phụ âm này đều được chuyển thành các âm đầu lưỡi hoặc mặt lưỡi tương ứng [ c, s, z ]. Ví dụ:

cha, tra được phát âm thành cha [ca]

sa, xa được phát âm thành xa [sa]

da, gia, ra được phát âm thành da [za]

Riêng phụ âm ch / c / được phát âm như một phụ âm đầu lưỡi, tắc xát, ngạc hoá mạnh.

Trong hệ thống phụ âm đầu Hà Nội có thế tương liên vô thanh – hữu thanh và tắc – xát rõ. So với các thổ ngữ miền Nam, hệ thống phụ âm đầu tiếng Hà Nội cân đối hơn.

2. Hệ thống phụ âm đầu trong các thổ ngữ vùng Bắc Trung bộ (Nghệ Tĩnh – Bình Trị Thiên)

Hệ thống phụ âm đầu các thổ ngữ Bắc Trung bộ có số lượng phụ âm lớn hơn các thổ ngữ Bắc và Nam, gần nhất với hệ thống phụ âm đầu được thể hiện trên chữ viết. Hệ thống này còn giữ loạt các phụ âm cong lưỡi / t, s, z / mà trong tiếng Bắc hầu như đã mất đi.

Ở một số nơi thuộc Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên, phụ âm ph được phát âm thành âm môi, tắc, vô thanh bật hơi [ ph ], và kh được phát âm như âm mặt lưỡi sau bật hơi [ kh ]. Vì vậy, trong hệ thống phụ âm đầu của những nơi này có thêm dãy các phụ âm bật hơi [ ph, th, kh ]. Trong khi đó, các thổ ngữ miền Bắc và miền Nam chỉ còn lại một âm bật hơi [ th ] mà thôi.

Vùng Bình Trị Thiên thường không có phụ âm nh, phụ âm này thường được phát âm thành [ j ], ví dụ nhà phát âm thứ dà [ ja ]. Trong một số thổ ngữ Bắc Bình Trị Thiên còn giữ lại các âm cổ như các phụ âm kép kl–, tl– như: kle (tre), klật (trật), tlắng tlẻo (trắng trẻo) và nhiều dấu vết cổ của quá trình xát hóa các phụ âm đầu tắc (b -> v; d -> z, k -> y,…).

Nếu coi hệ thống phụ âm đầu vùng Vinh là đại diện cho phương ngữ Bắc Trung bộ, thì hệ thống phụ âm đầu của phương ngữ này có 22 phụ âm.

3. Hệ thống phụ âm đầu trong các thổ ngữ miền Nam (từ đèo Hải Vân trở vào)

Hệ thống phụ âm đầu các thổ ngữ miền Nam thường không có các phụ âm xát hữu thanh / v /, / z / như trong tiếng Bắc. Vì vậy, thế lương liên tắc–xát và vô thanh– hữu thanh bị phá vỡ. Tương ứng với / v /, / z / trong phát âm Hà Nội, trong phát âm miền Nam có phụ âm mặt lưỡi giữa, ngạc [ i ]. Đôi khi âm / v / được phát âm thành một âm môi–môi, xát, vang, ngạc hóa [ j ].

Hiện nay các âm cong lưỡi đang trong quá trình biến đổi trong tiếng miền nam. Phụ âm [ s ] là phụ âm ít bền vững nhất, từng được phát âm thành [ s ]. Các phụ âm cong lưỡi khác như / t / và / z / vẫn còn được giữ lại, phân biệt với / c / và / j /, nhưng không đều đặn ở các thổ ngữ.

Trong phát âm miền Nam có phụ âm đầu [ w ] là xát, môi– môi tương ứng với các phụ âm tắc, lưỡi sau và thanh hầu tiếng Bắc khi kết hợp với âm đệm / –u– /. Ví dụ: qua [wa], ngoại [wai], hoa [wa].

Nếu lấy hệ thống phụ âm đầu của tiếng Thành phố Hồ Chí minh làm cơ sở cho phương ngữ Nam bộ thì hệ thống phụ âm đầu của phương ngữ Nam bộ có 21 phụ âm đầu.

BÀI TẬP

42.Trong tiếng nói quê hương anh (chị) có các phụ âm cong lưỡi không? Nếu không thì chúng được thay thế bằng cách nào?



1. Quan hệ phân bố giữa phụ âm đầu và âm đệm

Âm đệm là thành tố đi sau phụ âm đầu trong âm tiết. Trong tiếng Việt chỉ có một âm đệm, đó là / –u– /; trên chữ viết, âm này được thể hiện bằng hai con chữ u và o. Ví dụ: hoa, quế. Trong phát âm, âm đệm chỉ được thể hiện ở tiếng địa phương miền Bắc và Bắc Trung bộ, còn trong tiếng địa phương miền Nam thường không có âm đệm / –u– /.

Trong phát âm Hà Nội, hầu hết loạt phụ âm lưỡi và thanh hầu có thể phân bố trước âm đệm. Ví dụ: toa, đoán, xoá, nhoà, ngoan, hoàng v.v… Riêng loạt âm môi / b, m, v, f / không phân bố trước âm đệm / –u– / vì chúng có cấu âm môi giống nhau. Trong tiếng Việt, hễ những âm có cấu âm giống nhau hay tương tự nhau thì không phân bố bên cạnh nhau.

Ngoài các âm môi, có một vài phụ âm lưỡi như / n /, / z /, / y / cũng rất ít xuất hiện trước âm đệm.

2. Quan hệ phân bố giữa phụ âm đầu và thanh điệu

Trong phần trên chúng ta đã nói rằng phụ âm đầu không đóng vai trò gì trong sự đối lập các thanh điệu và thanh điệu bị chế định rõ rệt bởi phụ âm cuối. Nhưng giữa phụ âm đầu và thanh điệu vẫn có quan hệ phân bố, xét về mặt thống kê. Về mặt nguồn gốc, âm vực cao thấp của thanh điệu vốn được hình thành từ sự biến đổi của phụ âm đầu.

Theo tài liệu thống kê của V. V. Remarchuc (1976) các phụ âm vô thanh thường kết hợp với các thanh điệu có âm vực cao hơn là với các thanh có âm vực thấp. Tỉ lệ phụ âm vô thanh kết hợp với thanh cao, so với thanh thấp ở các phụ âm tắc là 2,74; ở phụ âm xát là 4,75. Còn các phụ âm hữu thanh lại nghiêng về kết hợp với các thanh thấp. Tỉ lệ kết hợp với thanh điệu cao, so với thanh điệu thấp, ở phụ âm hữu thanh tắc là 1,0 (tức là kết hợp đồng đều), còn ở các phụ âm xát hữu thanh là 0,7 (tức là ưu tiên kết hợp với các thanh thấp).




Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 4

Như đã trình bày, mỗi âm tiết tiếng Việt được cấu tạo bởi ba thành tố độc lập: thanh điệu, âm đầu và vần, trong đó vần là bộ phận mang âm sắc chủ yếu của âm tiết. Nhiều tác giả cho rằng một phần vần đầy đủ bao gồm ba yếu tố âm đoạn tính là âm đệm, âm chính và âm cuối. Tuy nhiên có một số ý kiến thảo luận về vị trí và chức năng của âm đệm trong âm tiết.
1. Các đặc trưng ngữ âm

Trong âm tiết, âm đệm /–u–/ đứng sau phụ âm đầu và đứng trước âm chính. Nó đóng vai trò một âm lướt trong kết cấu âm tiết. Về mặt cấu âm, âm đệm / –u– / được phát âm giống như nguyên âm [ u ] nhưng không làm đỉnh âm tiết. Đó là một bán nguyên âm môi– ngạc mềm (môi chúm, mặt lưỡi sau nâng cao về phía ngạc mềm), được phiên âm là [ –u– ] hay [ –w– ]. Động tác cấu âm này diễn ra đồng thời với các giai đoạn phát âm của phụ âm đầu và phần vần đầu của nguyên âm làm âm chính. Về mặt âm học, âm đệm / –u– / có tác dụng làm biến đổi âm sắc của âm tiết, làm trầm hóa âm sắc của âm tiết.

Âm đệm / –u– /, với tính chất là một bán nguyên âm môi– ngạc mềm, có độ mở rộng hay hẹp tương ứng với độ mở của nguyên âm đi sau nó. Trước nguyên âm hẹp i, âm đệm / –u– / được thể hiện bằng một bán âm hẹp tương ứng là [ u ], ví dụ, tuy, nguy. Trước các nguyên âm có độ mở trung bình ê, ơ, â, âm đệm / –u– / được thể hiện bằng một bán âm có độ mở vừa [ o ], ví dụ: khuê, huơ, huân. Trước các nguyên âm có độ mở rộng e, a, ă, âm đệm / –u– / được thể hiện bằng một bán âm có độ mở tương ứng là [ o ], ví dụ: khỏe, khoắn, khoan.

2. Sự phân bố

Âm đệm / –u– / xuất hiện phần lớn ở các từ gốc Hán, như thuyền, loan, hoa, uyên. Về mặt phân bố, như đã nói ở trên, âm đệm / –u– / có thể xuất hiện sau hầu hết các phụ âm đầu, trừ các phụ âm môi / b, m, f, v /. Sau các phụ âm môi, âm đệm chỉ có mặt trong một ít từ phiên âm tiếng nước ngoài như buýt, phuy, voan Ngoài ra, sau các phụ âm / n, z, y /, âm đệm / –u– / cũng chỉ xuất hiện trong một vài từ như noãn, roa, goá.

Âm đệm / –u– / cũng không xuất hiện trước các nguyên âm tròn môi u, uô, ô, o. Sự phân bố của âm đệm sau phụ âm đầu và trước các nguyên âm thể hiện một quy luật của ngữ âm tiếng Việt: các âm có cấu âm giống nhau hoặc gần gũi nhau không được phân bố cạnh nhau.

Về mặt chữ viết, âm đệm / –u– / được ghi bằng con chữ o trước ba nguyên âm rộng e, a, ă, và được ghi bằng con chữ u trước các nguyên âm còn lại. Ví dụ: thúy, thuê, thuở, loe, loa. Riêng trường hợp sau phụ âm đầu / k– / thì âm đệm / –u– / luôn được ghi bằng con chữ u, không kể sau nó là nguyên âm hẹp hay rộng. Ví dụ: qua, quê, quý (trong những trường hợp này âm / k–/ được ghi bằng con chữ q).

3. Tính chất nước đôi của âm đệm / -u– /

Âm đệm / –u– / có một vị trí khá đặc biệt trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt, do tính chất nước đôi của nó trên cả bình diện hình thái học lẫn bình diện ngữ âm học.

Trên bình diện hình thái học, có trường hợp ranh giới hình thái học đi qua giữa âm đầu và phần còn lại, nghĩa là âm đệm là một yếu tố của phần vần. Ví dụ, với phương thức iêc hóa, có các dạng láy được thành lập như loa liếc < loa, toán liếc < toán. Nhưng cũng với phương thức iếc hóa, có thể có loa luyếc, toán tuyếc. Trong trường hợp sau, âm đệm lại là thuộc tính của âm đầu. Các từ kép láy kiểu loanh quanh, chuyếnh choáng với các biến thể lanh quanh, chếnh choáng cũng cho thấy tính chất nước đôi của âm đệm trên bình diện hình thái học.

Tính chất nước đôi của âm đệm còn được nhận thấy trên bình diện ngữ âm học. Khi nghiên cứu trường độ của các tổ hợp âm có âm đệm / –u– / và âm cuối, Gordina nhận thấy: “Trong nhiều trường hợp, sự có mặt của yếu tố bán nguyên âm không kéo dài trường độ của cả tổ hợp… Trong những trường hợp khác thì trường độ lại tăng lên khá rõ so với trường độ của nguyên âm không có / –u– /.

Chính vì tính chất nước đôi của bán nguyên âm / –u– / nên có tác giả xem / –u– / là thuộc tính của âm đầu, có tác giả cho / –u– / thuộc phần vần; có người căn cứ vào đặc điểm cấu âm của / –u– / là kéo dài trên hơn một âm vị (nó được cấu âm đồng thời với các giai đoạn cấu âm của phụ âm đầu và phần đầu của nguyên âm) nên đã giải thuyết / –u– / là thuộc tính của toàn âm tiết như thanh điệu. Tùy theo cách giải thuyết âm vị học về vai trò và vị trí của bán nguyên âm / –u– / mà mô hình âm tiết tiếng Việt được trình bày khác nhau ở các tác giả.

Âm đệm / –u– /, vốn là yếu tố có mặt trong phương ngữ Bắc và Trung bộ, lại hoàn toàn vắng mặt trong phương ngữ Nam bộ. Do đó, cấu trúc âm tiết của phương ngữ Nam bộ chỉ có ba thành phần đoạn tính: âm đầu – âm chính – âm cuối.

Sự vắng mặt của âm đệm trong phương ngữ Nam bộ có thể đưa đến một số biến đổi ở âm đầu và âm chính. Đáng chú ý là sự biến đổi của các phụ âm mặt lưỡi sau và thanh hầu, thành các phụ âm môi. Ví dụ: hoa -> wa, khuya -> phia.

Hiện nay, dưới ảnh hưởng của ngôn ngữ văn học, trong phương ngữ Nam bộ đã thấy xuất hiện âm đệm sau các phụ âm đầu lưỡi, mặt lưỡi giữa và mặt lưỡi sau, đặc biệt là trong cách phát âm của tầng lớp trí thức, của giới trẻ. Nhưng nhìn chung, trong cách phát âm của tầng lớp trí thức và giới trẻ Nam bộ vẫn không thấy có âm đệm sau hai phụ âm thanh hầu / h–, ?– / và phụ âm mặt lưỡi sau / k– /. Ví dụ các từ hoa, oa, qua đểu được phát âm là [ wa ].

BÀI TẬP

43. Trong tiếng nói quê hương anh (chị) có âm đệm / –u– / không? Trong những từ ngữ sau đây: sửa soạn, quả xoài, hoa xuân, khoan khoái, ở quê hương anh (chị) người ta phát âm như thế nào?

Nếu âm đệm bị mất đi thì sự biến đổi của âm tiết có âm đệm diễn ra theo những phương thức nào?
Nếu phần vần là bộ phận mang âm sắc chủ yếu của âm tiết, thì trong phần vần, yếu tố chính là một nguyên âm âm tiết tính. Nguyên âm này được gọi là âm chính. Âm chính trong âm tiết tiếng Việt có thể là một nguyên âm đơn hay một nguyên âm đôi.

1. Nguyên âm đơn

Trong tiếng Việt, có 11 nguyên âm đơn làm âm chính. Căn cứ vào vị trí của lưỡi, hình dáng của môi, các nguyên âm đơn được chia ra:

– các nguyên âm dòng nước không tròn môi: / i, e,  /

– các nguyên âm dòng sau không tròn môi (được xem là nguyên âm giòng giữa về mặt âm vị học): / w, a, ă /

– các nguyên âm giòng sau tròn môi: / u, o /

Căn cứ vào độ mở của miệng, các nguyên âm đơn được chia ra:

– các nguyên âm có độ mở hẹp: / i, w, u /

– các nguyên âm có độ mở trung bình: / e, o /

– các nguyên âm có độ mở rộng: / , a, ă /

Căn cứ vào âm sắc, tức tính chất bổng hoặc trầm của nguyên âm, các âm chính được chia ra:

– các nguyên âm bổng: / i, e,  /

– các nguyên âm trung bình: / y, a, ă /

– các nguyên âm trầm: / u, o /

Căn cứ vào trường độ, tức độ dài ngắn của nguyên âm, các nguyên âm đơn được chia ra:

– các nguyên âm dài: / i, e, , w, a, u, o /

– các nguyên âm ngắn: / v, ă /

2. Nguyên âm đôi

Trong hệ thống âm chính, ngoài 11 nguyên âm đơn, còn có 3 nguyên âm đôi âm vị tính là: / ie, we, uo /.

Về mặt ngữ âm học, các nguyên âm đôi ở giữa âm tiết (được viết là iê, ươ uô) có yếu tố thứ nhất là các nguyên âm hẹp [ i, ư, u ] và yếu tố thứ hai là một nguyên âm cùng dòng có độ mở lớn hơn một bậc hoặc được thể hiện như một nguyên âm trung bình [ e, u, o ] hoặc / ∂ / hay /  /. Yếu tố thứ nhất của ba nguyên âm đôi này bao giờ cũng dài và mạnh hơn so với các tổ hợp hai nguyên âm kiểu uê, oe… Ở các tổ hợp vừa nêu, yếu tố thứ nhất là một nguyên âm phi âm tiết tính, được phát âm ngắn và yếu hơn yếu tố sau, và được giả thuyết là âm đệm / –u– /.

Trong các âm tiết mở, các nguyên âm đôi này được ghi trong chữ quốc ngữ là ia, ua, ưa do yếu tố thứ hai của chúng được phát âm thành một nguyên âm dòng giữa, có độ mở trung bình /  /. Ví dụ: chia, mưa, mua.

Có nhiều sự kiện ngôn ngữ học cho thấy rằng việc giải thuyết trong tiếng Việt có ba nguyên âm đôi đơn âm vị tính / ie, uơ, uo / là có cơ sở.

Chẳng hạn với phương thức iêc hóa, ranh giới hình thái học bao giờ cũng đi qua giữa âm đầu và yếu tố thứ nhất của nguyên âm đôi. Ví dụ: múa > múa miếc, cửa > cửa kiếc. Điều này cho thấy iê, ươ và uô là những đơn vị không thể chia cắt được. (So sánh với dạng iêc hóa của những từ có âm đệm / –u– / trong đó ranh giới hình thái học có thể đi qua giữa âm đệm và phần còn lại. Ví dụ: toán > toán tuyếc).

Khả năng kết hợp với hai bán nguyên âm cuối / –i / và / –u / của nguyên âm đôi cũng tương tự với các nguyên âm đơn cùng dòng tương ứng: / ie / chỉ kết hợp với bán nguyên âm cuối / –u– /, / uo / chỉ kết hợp với bán nguyên âm cuối / –i /, còn / ươ / thì kết hợp được với cả hai.

Hiện tượng hiệp vần trong thơ ca cũng cho thấy tính chất đơn âm vị tính của các nguyên âm đôi. Đó là khả năng hiệp vần giữa nguyên âm đôi với các nguyên âm đơn cùng dòng. Ví dụ: e có thể hiệp vần với ia; ưa có thể hiệp vần với ơ.

Nàng từ chiếc bóng song the,

Dường kia mỗi nọ như chia nỗi sầu.

(Truyện Kiều)

Dấu chàng theo lớp mây đưa,

Thiếp nhìn rặng núi, ngẩn ngơ nỗi nhà.

(Chinh phụ ngâm)

Việc giải thuyết các nguyên âm đôi / ie, ươ, uo / là nguyên âm đôi đơn âm vị tính cho phép xác định khuôn mẫu của âm tiết tiếng Việt: âm tiết tiếng Việt dưới dạng đầy đủ nhất, có tối đa năm thành phần. Ví dụ: âm tiết “nguyễn” có thanh điệu là thanh ngã, âm đầu là / n– /, âm đệm là / –u– /, âm chính là nguyên âm đôi / –ie– / và âm cuối là / –n /.

Hệ thống âm chính trong tiếng Việt, gồm 11 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi có thể được hình dung trong bảng sau:



Vị trí của lưỡi /

Độ mở

Trước Giữa Sau
Hẹp i (i, y) w (ư) u (u)
Hẹp vừa ie (iê, ia, yê, ya) wơ (ươ, ưa) uo (uô, ua)
Trung bình e (ê) (ơ, â) o (ô)
Rộng  (e, a) a, ă (a, ă) (o)

1. Hệ thống âm cuối

Âm cuối là yếu tố kết thúc âm tiết. Các âm tiết trong tiếng Việt có thể kết thúc bằng cách biến đổi âm sắc của âm chính do động tác khép lại của bộ máy phát âm, làm cho nó bổng hơn hoặc trầm hơn. Âm cuối trong trường hợp này là hai bán nguyên âm / –u / và / –i /. Ví dụ: dâu, sao, ngày, mai. Âm tiết tiếng Việt còn có thể kết thúc bằng động tác khép của bộ máy phát âm với một phụ âm tắc (mũi hoặc miệng), ví dụ: học, tập, hành, động.

Về mặt âm vị học, hệ thống âm cuối trong tiếng Việt gồm có 2 bán nguyên âm và 6 phụ âm. Sáu phụ âm cuối đối lập nhau theo phương thức phát âm (mũi / không mũi) và theo vị trí cấu âm (môi / đầu lưỡi / mặt lưỡi). Ngoài 2 bán nguyên âm cuối, các phụ âm cuối trong tiếng Việt có thể trình bày trong bảng sau:

Phương thức phát âm


Môi Đầu lưỡi Mặt lưỡi


Page 5


Thanh điệu là đặc trưng ngôn điệu của âm tiết. Nó có chức năm khu biệt âm tiết và do đó cũng có chức năng khu biệt vỏ âm thanh của hình vị hay của từ trong tiếng Việt. Đặc tính của thanh điệu bao trùm lên toàn bộ âm tiết và thể hiện rõ nhất ở phần vần. Người ta gọi thanh điệu là âm vị siêu đoạn tính. Số lượng thanh điệu trong tiếng Việt khác nhau giữa các tiếng địa phương. Số lượng nhiều nhất là 6 thanh trong phát âm Hà Nội – hay trong tiếng Bắc nói chung và được phản ánh trên chữ viết. Đó là các thanh: sắc (’), huyền (‘), ngã (~), hỏi (?), nặng (.) và thanh không dấu.

Trong các tiếng địa phương từ Thanh Hóa trở vào Nam thường chỉ có năm thanh, thanh ngã trùng với thanh hỏi (trong tiếng nói của một số vùng ở Thanh Hóa, tiếng Bình Trị Thiên, Nam Trung bộ và Nam bộ), hoặc thanh ngã trùng với thanh nặng (trong tiếng nói vùng Nghệ An, Hà Tĩnh). Ngoài ra, trong một vài thổ ngữ lẻ tẻ ở Nghệ An và Quảng Bình chỉ có 4 thanh điệu.


Thanh điệu trong tiếng Việt bao gồm một loạt những đặc trưng ngữ âm điệu tính và phi điệu tính.

Đặc trưng điệu tính là những đặc trưng ngữ âm được biểu hiện bằng tần số thanh cơ bản (Fo) trong cấu trúc thanh điệu như âm vực và âm điệu.

Đặc trưng phi điệu tính là những đặc trưng còn lại khác với Fo như cường độ, trường độ, hiện tượng yết hầu hóa và thanh hầu hóa. Chúng ta hãy xem xét giá trị của những đặc trưng ngữ âm ấy đối với việc khu biệt thanh điệu trong phát âm Hà Nội (hay phương ngữ Bắc bộ nói chung).

1. Âm điệu

Âm điệu là đặc điểm của sự biến thiên của tần số thanh cơ bản trong quá trình phát âm một âm tiết. Sự biến thiên này được gọi là đường nét âm điệu.

Dựa vào đặc trưng này có thể phân các thanh điệu thành hai nhóm lớn: bằng và trắc (hay có người còn gọi đó là thế đối lập giữa không biến điệu và biến điệu (Nguyễn Hàm Dương, 1963).

Thanh không dấu (thanh 1) và thanh huyền (thanh 2) là những thanh bằng. Chúng có âm điệu bằng phẳng hoặc hơi đi xuống.

Thanh ngã (thanh 3), thanh hỏi (thanh 4), thanh sắc (thanh 5) và thanh nặng (thanh 6) là những thanh trắc. Chúng có đường nét âm điệu phức tạp và giới hạn biến đổi rất rộng. Thông thường, thanh sắc được miêu tả là một thanh đi lên, thanh nặng là thanh đi xuống, thanh hỏi và ngã có dường nét vừa đi xuống vừa đi lên. Vì vậy, các thanh sắc và nặng còn được gọi là những thanh có đường nét âm điệu một hướng hay không gãy, đối lập với thanh hỏi và thanh ngã là những thanh có đường nét âm điệu đổi hướng hoặc gãy (Đoàn Thiện Thuật, 1977).

2. Âm vực

Âm vực được hiểu là mức âm điệu trung bình (hay cao độ trung bình) của thanh điệu trong quá trình phát âm âm tiết.

Trong tiếng Việt, các thanh điệu thuộc hai âm vực cao và thấp.

Âm vực cao gồm các thanh 1, 3, 5 (tức là các thanh: không, ngã, sắc).

Âm vực thấp gồm các thanh 2, 4, 6 (huyền, hỏi, nặng).

Trong nhóm thanh cao, thanh 1 có âm điệu bằng phẳng, nên thường có độ cao trung bình thấp hơn thanh 3 và thanh 5. Vì vậy, có tác giả coi nó thuộc âm vực trung và chia thanh điệu tiếng Việt thành ba âm vực: cao, trung, thấp (Nguyễn Đình Hòa, 1967; R. B. Jones và Huỳnh Sanh Thông, 1960). Điều này có thể đúng với phát âm của một số thổ ngữ miền Nam (M. V. Gordina, 1984). Còn trong phương ngữ Bắc bộ, các thanh chỉ có hai âm vực cao và thấp.

3. Phân loại thanh điệu theo các tiêu chí khu biệt điệu tính

Có thể nêu ra ba tiêu chí khu biệt các thanh điệu, dựa trên đặc trưng điệu tính như sau:

– Về âm vực, các thanh có âm vực cao là thanh không dấu, thanh ngã và thanh sắc, các thanh có âm vực thấp là huyền, hỏi, nặng.

– Về đường nét âm điệu, có thể chia các thanh ra hai nhóm: nhóm thanh bằng gồm thanh không dấu và thanh huyền và nhóm thanh trắc gồm các thanh còn lại.

Trong nhóm thanh trắc, có thể chia các thanh thành 2 tiểu nhóm:

a. Những thanh có âm điệu gãy (có đường nét đi xuống rồi đi lên). Đó là thanh hỏi và thanh ngã.

b. Những thanh có âm điệu không gãy (có đường nét âm điệu hoặc đi lên, hoặc đi xuống). Đó là thanh sắc và thanh nặng.

Cách phân loại này có thể được trình bày trong sơ đồ nhận diện sau đây:

Sơ đồ nhận diện các thanh điệu theo các tiêu chí điệu tính

Am đieu bang / trac ………………………………......

Am đieu gay / khong gay ………………………………………. Am vuc cao / thap ……………………………………………………………

Thanh đieu a a` a~ a? a’ a.

1 2 3 4 5 6

Sự phân loại theo các nét khu biệt như trên phù hợp với qui luật đối và điệp của thanh điệu trong các từ kép láy và quy luật hiệp vần trong các thể thơ truyền thống. Sự phân loại này cũng phù hợp với tình hình phân bố các thanh điệu trong các loại hình âm tiết trong đó thanh 5 và thanh 6 có khả năng xuất hiện trong âm tiết khép (kết thúc bằng phụ âm cuối vô thanh). Bên cạnh đó, cũng có thể áp dụng mô hình này để lý giải hiện tượng lẫn lộn thanh 4 và thanh 3 rất phổ biến từ Thanh Hóa trở vào. Vì vậy, có thể nghĩ rằng sự phân loại thanh điệu thuần túy theo các nét khu biệt điệu tính như trên là đáng tin cậy hơn sự phân loại thanh điệu theo hệ các nét khu biệt hỗn hợp gồm các nét khu biệt điệu tính và phi điệu tính mà chúng tôi sẽ trình bày sau.

4. Các đặc trưng phi điệu tính

Mỗi thanh điệu còn có một số đặc trưng phi điệu tính như hiện tượng yết hầu hóa, hiện tượng tắc thanh hầu, cường độ và trường độ.

Hiện tượng yết hầu hóa được tạo thành do sự thu hẹp khoang yết hầu khi phát âm, làm biến chuyển chất giọng của thanh điệu. Đặc trưng này đi kèm với các thanh có chuyển điệu phức tạp, tức là các thanh trắc, và không xuất hiện ở các thanh bằng. Các thanh bị yết hầu hóa (thanh 3, 4, 5, 6) lại được chia thành hai tiểu nhóm dựa vào sự có mặt hay vắng mặt của sự co bóp thanh hầu. Hiện tượng co bóp thanh hầu gây ra sự chuyển đổi âm điệu đột ngột hoặc đôi khi làm đường nét âm điệu bị gián đoạn. Nhờ đặc trưng này, thanh ngã phân biệt với thanh sắc và thanh nặng phân liệt với thanh hỏi là những thanh cùng có hiện tượng yết hầu hóa.

Cường độ cũng là một đặc trưng đi kèm để phân biệt các thanh có đường nét âm điệu bằng phẳng và không bằng phẳng. M. V. Gordina có nhận xét rằng các thanh 1 và 2 có cường độ yếu, đồng đều từ đầu đến cuối. Còn Thompson thì phân định các thanh điệu theo tiêu chí căng / chùng (tenseness – laxness). Thanh chùng là các thanh 1 và 2, thanh căng là các thanh còn lại.

Trường độ là một đặc trưng về lượng (không phải về chất). Đó là điều kiện để thể hiện các đặc trưng ngữ âm học điệu tính và phi điệu tính của các thanh tiếng Việt. Nó là cái khuôn mà trong đó các đặc trưng khác của thanh điệu được hiện thực hóa. Đối với thanh điệu, có 2 loại khuôn trường độ, khuôn dài trong các âm tiết không khép và khuôn ngắn trong các âm tiết khép. Các thanh có đường nét một hướng (không gãy) có khả năng xuất hiện trong khuôn trường độ ngắn. Các thanh bằng và có âm điệu đổi hướng (gãy) thường cần có khuôn trường độ dài mới thể hiện trọn vẹn đường nét âm điệu của mình. Trong những âm tiết không kết thúc bằng phụ âm tắc vô thanh (có khuôn trường độ dài) thì thanh 6 và thanh 3 là những thanh ngắn, phân biệt với các thanh 1, 2, 4, 5 là những thanh không ngắn.

Như vậy, các đặc trưng phi điệu tính của thanh điệu tạo thành một hệ thống các đặc trưng phụ, dùng để nhận diện thanh điệu trong những trường hợp mà các nét khu biệt điệu tính vì lý do nào đó mà không thể hiện được rõ. Đó thường là sự lặp lại, sự trùng điệp về thông tin hay sự bổ sung về thông tin để bảo đảm hiệu quả truyền tin. Trong ngôn ngữ, có thể tìm thấy hệ thống các nét “dư” như thế này song song với các nét khu biệt các phụ âm, nguyên âm v.v… ở bậc ngữ âm, và đối với những đặc trưng khác ở các bậc từ pháp và cú pháp cũng vậy. Những nét “dư” còn được gọi là những nét toàn vẹn.

Bảng nhận diện thanh điệu theo các đặc trưng phi điệu tính



Thanh điệu /

Các đặc trưng phi điệu tính



1

a


2

à


3

ã


4



5

á


6


Yết hầu hóa (có (+) / không (–)) + + + +
Cường độ đồng đều (+) / không đồng đều (–) + +
Thanh hầu hóa (có / không) + +
Trường độ ngắn (+) / không ngắn (–) + +

Trở lại các thanh điệu tiếng Việt, ta có thể nhận xét rằng sự khu biệt bằng / trắc được lập lại trong hệ thống các đặc trưng phi điệu tính bằng đặc trưng yết hầu hóa và cường độ. Nhờ có các đặc trưng này mà đường nét âm điệu của các thanh trắc có thể biến đổi rất rộng nhưng thanh điệu vẫn được nhận diện. Nét khu biệt về âm vực không được lặp lại trong cái “dư” phi điệu tính nên đường nét âm điệu chỉ thay đổi sao cho độ cao trung bình vẫn ổn định.

Sự có mặt hay vắng mặt âm tắc thanh hầu là đặc trưng phi điệu tính không lặp lại mà bổ sung cho các đặc trưng điệu tính nhằm phân biệt giữa thanh huyền với thanh nặng; giữa thanh ngã với thanh sắc khi đường nét âm điệu bị “đập nhập”, hoặc để phân biệt với các thanh khác khi không còn phân biệt cả về âm vực. Những nét bổ sung không trùng lặp như thế bao giờ cũng nổi bật và được người sử dụng nhận diện rõ ràng hơn.

Những thí nghiệm của Miller về việc nhận diện thanh điệu trong tiếng nói thì thầm chứng tỏ rằng các đặc trưng phi điệu tính có thể dùng để đồng nhất hay khu biệt các thanh khi vắng các đặc trưng điệu tính. Khi tách âm điệu khỏi âm tiết đơn lập, các thanh 2 và 6 được nhận diện tết với mức lỗi cho phép là 5%. Trong ngữ cảnh, có thể nhận diện tất cả các thanh với mức lỗi gần như thế, trừ thanh 4. Đặc biệt thanh 6 dễ nhận diện (66% trong ngữ cảnh và 80% ở âm tiết đơn lập (Miller, 1961)), có lẽ nhờ sự có mặt của âm tắc thanh hầu.

5. Phân loại thanh điệu theo các nét khu biệt hỗn hợp: điệu tính và phi điệu tính

Vì sự co bóp thanh hầu làm đường nét âm điệu thay đổi rõ rệt, nên nhiều tác giả đã coi đây là nét khu biệt thứ ba, bên cạnh hai nét khu biệt điệu tính là âm vực và đường nét âm điệu. Cách phân loại này có thể tìm thấy trong công trình của Lê Văn Lý (1948), Hoàng Tuệ và Hoàng Minh (1975), Phạm Văn Hải (1973) v.v… Theo các tác giả này, các thanh được lập nhóm như sau:

– Về âm vực, các thanh có âm vực cao là 1, 3, 5; các thanh có âm vực thấp là 2, 4, 6.

– Về đường nét âm điệu có thể chia các thanh thành 2 nhóm thanh bằng (thanh 1, 2) và trắc (thanh 3, 4, 5, 6).

– Về sự có mặt hay vắng mặt của âm tắc thanh hầu, có thể chia thanh 3 và 6 thành một nhóm có âm tắc thanh hầu, đối lập với các thanh còn lại.

Gần đây, Hoàng Cao Cương nhấn mạnh vai trò của các đặc trưng phi điệu tính, gọi chúng là nét khu biệt dị chất và phân loại các thanh điệu tiếng Việt theo tiêu chí: cao / thấp, bằng / trắc, đồng chất / dị chất. Các thanh điệu đồng chất gồm 1, 2, 4 và 5, còn các thanh có dị chất là 3, 6 và 5’ (sắc nhập) và 6' (nặng nhập).

Sơ đồ nhận diện các thanh điệu theo tiêu chí khu biệt hỗn hợp

Bang / trac ……………………………………………………

Thanh hau hoa ………………………………………………………. Cao / thap …………………………………………………………………………

Thanh đieu a a` a’ a? a~ a.

1 2 3 4 5 6


Dùng hệ thống nét khu biệt hỗn hợp như trên để phân loại tiếng Việt cũng là một cách lập nhóm đáng chú ý. Nó phản ánh cấu trúc phức tạp của thanh điệu tiếng Việt vốn có nguồn gốc phi điệu tính, và trong giai đoạn hiện tại vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi hình hài xưa cũ của mình để hóa thân thành những đơn vị có cấu trúc điệu tính thuần khiết.

BÀI TẬP

51. Nếu coi âm tắc thanh hầu là phụ âm cuối chứ không phải nét khu biệt của thanh điệu thì số lượng thanh điệu trong tiếng Việt là bao nhiêu?
1. Các thanh điệu trong phương ngữ Bắc bộ

* Thanh 1 (không dấu):

Trong phương ngữ Bắc bộ, thanh 1 là một thanh tương đối cao, có âm điệu bằng phẳng ổn định, giống nhau ở tất cả các âm tiết. Độ cao của thanh ít thay đổi trong phát âm của mỗi người và nó không phụ thuộc vào thành phần của âm tiết. Trong các âm tiết khác nhau như a, ha, hoa, hoan, hai… đường nét hầu như không thay đổi. Thanh này không bị yết hầu hóa, cường độ yếu và đồng đều từ đầu đến cuối.

* Thanh 2 (huyền):

Thanh này được phát âm ở âm vực thấp so với thanh 1. Đường nét âm điệu đi xuống thoai thoải. Cũng giống như thanh 1, thanh 2 có cường độ đồng đều không thay đổi, không bị yết hầu hóa trong quá trình phát âm.

* Thanh 3 (ngã):

Thanh ngã chỉ có trong phương ngữ Bắc bộ, thuộc âm vực cao, đường nét gãy, có hai biến thể như sau:

a. Bắt đầu ở cao độ cao hơn thanh 2 và thấp hơn thanh 1, ở giữa âm tiết có sự hạ giọng đột ngột, kèm theo sự giảm cường độ, sau đó đường nét âm điệu vút lên cao.

b. Đường nét âm điệu bắt đầu bằng phẳng hoặc hơi đi lên ở đầu phần vần của âm tiết, ở giữa vần có sự hạ giọng đột ngột, giảm cường độ, và đường nét âm điệu bị gián đoạn do sự bóp thanh hầu. Sau đó đường nét vút lên cao, sự yết hầu hóa tăng cường về cuối âm tiết.

Về mặt âm điệu, thanh 3 rất gắn với thanh 5, đối lập của chúng chủ yếu là sự chuyển điệu đột ngột và đặc trưng phi điệu tính. Trong phát âm của trẻ em thường vắng mặt âm tắc thanh hầu và đường nét gãy nên thanh 3 trùng với thanh 5 (Đoàn Thiện Thuật, 1977, tr. 112).

* Thanh 4 (hỏi):

Trong tiếng Bắc, thanh 4 bắt đầu ở mức cao của thanh 2, đi xuống thoai thoải đến gần giữa vần thì giữ âm điệu bằng phẳng trong một khoảng thời gian ngắn, sau đó chuyển sang đường nét đi lên cân đối với nét đi xuống và kết thúc gắn với cao độ bát đầu. Phần thấp nhất của âm điệu đi qua giữa phần vần.

Trong một số trường hợp, thanh 4 được hiện thực hóa không có phần âm điệu đi xuống làm nó giống với đường nét thanh 5, hoặc không có đường nét đi lên (đặc biệt thường gặp trong phát âm của trẻ em dưới 3 tuổi) làm cho nó gần như đồng nhất với đường nét âm điệu thanh 6.

Thanh 4 thường bị yết hầu hóa mạnh hầu như từ đầu đến cuối.

* Thanh 5 (sắc):

Đây là một thanh cao, đường nét âm điệu đi lên, nhưng có thay đổi ít nhiều phụ thuộc vào loại hình âm tiết và độ dài ngắn của nguyên âm.

a. Trong những âm tiết không kết thúc bằng phụ âm cuối vô thanh: (ví dụ: bá, bái, bán) thanh 5 bắt đầu hơi thấp hơn thanh 1, ban đầu có đường nét bằng phẳng (khoảng 1/2 độ dài phần vần) sau đó đi lên tương đối dốc. Như vậy, trong những âm tiết loại này, đường nét thanh 5 chỉ khác thanh 1 ở phần cuối.

b. Trong những âm tiết kết thúc bằng phụ âm cuối vô thanh với nguyên âm dài, đoạn bằng phẳng của thanh rút ngắn lại, có khi mất hẳn, ví dụ thanh sắc trong hót, thướt. Còn trong âm tiết khép có nguyên âm ngắn, thanh 5 bắt đầu cao hơn và khoảng nâng ít hơn, ví dụ thanh sắc trong tắc, mất.

Trong khi tăng dần cường độ về cuối âm tiết, thanh này có sự yết hầu hóa mạnh.

* Thanh 6 (nặng):

Thanh này phát âm ở âm vực thấp. Đường nét đi xuống và thay đổi ít nhiều phụ thuộc vào loại hình âm tiết và độ dài ngắn của nguyên âm.

a. Trong những âm tiết không kết thúc bằng phụ âm cuối về thanh (ví dụ: tạ, tại, rạn), thanh 6 bắt đầu ở mức của thanh 2. Âm điệu đi xuống đột ngột thường thể hiện trên bán nguyên âm cuối và phụ âm cuối.

b. Trong những âm tiết kết thúc bằng phụ âm cuối vô thanh âm điệu bằng phẳng và có sự hạ giọng ở cuối nguyên âm. Vì vậy đường nét của thanh gần giống thanh 2. Khi có nguyên âm ngắn, sự đi xuống này có thể vắng mặt. Khi ấy nó khu biệt với thanh 2 nhờ những đặc trưng phi điệu tính.

Thanh 6 là thanh ngắn nhất trong các thanh điệu tiếng Việt.

2. Thanh điệu trong các tiếng địa phương khác

Ngoài hệ thống thanh điệu phương ngữ Bắc bộ, mà đại diện là phát âm Hà Nội, có số lượng đối lập tối đa các thanh điệu, có những đặc trưng ngữ âm điệu tính và phi điệu tính khác nhau mà chúng ta đã miêu tả, từ Thanh Hóa trở vào Nam còn có nhiều hệ thống thanh điệu khác thanh điệu tiếng Bắc về số lượng và phẩm chất ngữ âm.

2.1. Thanh điệu trong các thổ ngữ miền Trung

Các thổ ngữ miền Trung có nhiều biến dạng phức tạp của hệ thống thanh điệu. Về số lượng, có các hệ thống 5 thanh và các hệ thống 4 thanh.

Trong số những thổ ngữ có 5 thanh điệu, người ta phân biệt ra giọng Thanh, giọng Nghệ và giọng Bình Trị Thiên.

– Giọng Thanh: Trong một số thổ ngữ vùng Thanh Hóa, thanh 3 (thanh ngã) trùng với thanh 4 (thanh hỏi) thành một thanh, tạm gọi là thanh 3/4. Thanh này có đường nét âm điệu giống thanh 4 Nghệ (thổ ngữ Vinh) với đường nét đi lên gần giống với thanh ngã Bắc. Các thanh 1, 2, 5, 6 nói chung giống với tiếng Bắc về âm vực và đường nét âm điệu.

– Giọng Nghệ (vùng Nghệ Tĩnh) cũng thường có 5 thanh: 1, 2, 4, 5 và 3/6. Trong đó thanh 3 (thanh ngã) trùng với thanh 6 (thanh nặng) và có đường nét đi xuống gần giống thanh huyền, nhưng khác với thanh này ở âm vực thấp hơn và có những đặc trưng phi điệu tính.

Thanh 1 (bằng) và thanh 2 (huyền) giống với tiếng Bắc, nhưng thanh 1 thường được phát âm với âm điệu hơi đi xuống, còn thanh 2 Nghệ lại có mức âm điệu cao hơn thanh 2 Bắc, mặc dù vẫn thuộc âm vực thấp, khác với thanh 1 thuộc âm vực cao. Thanh 5 (thanh sắc) Nghệ thường có đường nét âm điệu gần giống thanh 4 (thanh hỏi) Bắc nhưng thuộc âm vực cao. Thanh 4 thường có đường nét âm điệu giống thanh 6 Bắc và thường có âm tắc thanh hầu ở cuối hoặc ở giữa (Maspéro, 1912). Hoặc có nơi (như ở vùng Vinh) thanh 4 có đường nét đi lên gần giống thanh ngã (Maspéro, 1912; Bùi Văn Nguyên, 1977). Đường nét âm điệu đi lên của thanh 4 như thế này giống với giọng Thanh và giọng Sài Gòn.

– Trong giọng Bình Trị Thiên nói chung thường có 5 thanh. Đó là các thanh 1, 2, 3/4, 5 và 6. Ở đây thanh ngã trùng với thanh hỏi, gọi là thanh 3/4. Thanh này được phát âm với đường nét đi xuống và hầu như không có phần đi lên ở cuối âm tiết như đường nét thanh hỏi thường gặp trong tiếng Bắc. Các thanh 1, 2, 6 nói chung giống với tiếng Bắc về âm vực và đường nét âm điệu. Riêng thanh 5 (sắc) trong giọng Bình Trị Thiên có đường nét gần giống thanh hỏi Bắc (Võ Xuân Trang, 1997).

Ngoài ra, lẻ tẻ trong một số thổ ngữ miền Trung có hệ thống 4 thanh.

Giọng Nghi Lộc thường được coi là rất đặc biệt, khác với giọng Bắc và giọng Nghệ. Ở đây thường không phân biệt giữa sắc với huyền, giữa ngã với nặng tiếng Bắc. Vì vậy, có thể có hệ thống 4 thanh điệu như sau: 1, 2/5, 3/6 và 4. Trong số 4 thanh này, thanh 1 giống với thanh 1 Bắc, thanh 2/5 giống với thanh huyền Bắc nhưng hơi cao hơn về âm vực. Vì vậy, để phân biệt cá và cà tiếng Bắc, người Nghi Lộc phải nói thêm là cà có đuôi, cà có cuống. Thanh 4 Nghi Lộc gần với đường nét thanh 5 tiếng Bắc. Còn thanh 3/6 Nghi Lộc thì gần giống với thanh 6 Bắc. Nói là giọng Nghi Lộc, nhưng giọng Nghi Lộc cũng không thuần nhất mà khác nhau từng làng. Hệ thống thanh điệu trên là của huyện lỵ Quán Hành, làm chuẩn cho Nghi Lộc (Bùi Văn Nguyên, 1977).

Hệ thống 4 thanh điệu với sự “đập nhập” các thanh hỏi, ngã và nặng đã được Maspéro nhắc tới, và được khắng định trong công trình của Võ Xuân Trang. Theo Võ Xuân Trang, thổ ngữ Hạ Trạch (Quảng Trạch, Bình Trị Thiên) có các thanh 1, 2, 5 và 3/4/6. Trong đó các thanh 1, 2, 5 tiếng Hạ Trạch gần giống về chất lượng với các thanh tương ứng trong tiếng Bắc. Còn thanh thứ tư, tức thanh 3/4/6 thì có đường nét âm điệu và âm vực gần giống thanh nặng tiếng Bắc.

Trong thổ ngữ có hệ thống 4 thanh điệu mà H. Maspéro nhắc tới, thanh 3/4/6 có đường nét gãy đi lên giống thanh ngã tiếng Bắc (H. Maspéro, 1912).

Cũng theo tài liệu của Võ Xuân Trang: hệ thống thanh điệu của các thổ ngữ vùng Tuyên Hóa, Thanh Hóa (huyện Tuyên Hóa – Bình Trị Thiên) có 4 thanh gồm: thanh 1, 2, 3/6 và 4/5. Ở đây không phân biệt thanh ngã với thanh nặng, thanh hỏi với thanh sắc. Thanh 4/5 vùng này giống về âm điệu với thanh 5 Bắc, còn thanh 3/6 giống với thanh 6 Bắc. Trong một tài liệu khác, một hệ thống thanh điệu tương tự như thế được ghi nhận có ở vùng Nghi Long (Nghệ Tĩnh), ở đó thanh 3/6 có âm điệu giống với thanh huyền tiếng Bắc, còn thanh 2 lại có đường nét gãy ở giữa và đi xuống với âm tắc thanh hầu, âm vực thấp.

Như vậy, thanh 1 với dường nét âm điệu bằng phẳng, là thanh ít bị biến đổi nhất trong các thổ ngữ.

2.2. Thanh điệu trong các thổ ngữ miền Nam

Trong các thổ ngữ miền Nam, thanh hỏi và thanh ngã trùng làm một, vì vậy có 5 thanh điệu: 1, 2, 3/4, 5 và 6. Ở đây thanh 1 có âm điệu bằng phẳng và đi xuống thoai thoải như thanh 2 nhưng chúng khác nhau về âm vực. Thanh 5 có đường nét đi lên như tiếng Bắc nhưng hầu như không có phần âm điệu bằng ngang mở đầu. Thanh 3/4 có hai cách thể hiện, hoặc ban đầu có âm điệu bằng phẳng, sau đó đi lên, gần giống với thanh ngã tiếng Bắc nhưng thấp hơn, hoặc ban đầu bằng phẳng, rồi đi xuống cùng với âm tắc thanh hầu và sau đó lại đi lên. Thanh 6 gắn giống với thanh 6 Bắc, kết thúc với âm tắc thanh hầu hoặc đi lên đôi chút ở cuối.



1. Sự biến đổi phụ thuộc vào vị trí của thanh điệu trong ngữ đoạn

Các thanh điệu trong chuỗi lời nói có thể giữ nguyên những đặc trưng ngữ âm của mình như trong âm tiết rời hoặc bị thay đổi về lượng và chất. Kết quả nghiên cứu của M. V. Gordina và I. S. Bystrov trên tư liệu hệ thống 6 thanh điệu tiếng Bắc cho thấy rằng thanh điệu của các âm tiết đứng trước chỗ ngừng ở cuối câu hay giữa câu hoặc có ngừng ở ranh giới những nhóm ngữ nghĩa– cú pháp giữ lại những đặc trưng của mình giống như thanh điệu trong những âm tiết rời. Vì chỗ ngừng biểu hiện ranh giới ngữ đoạn nên sự biến đổi của thanh điệu trong ngữ lưu phụ thuộc và vị trí của chúng trong ngữ đoạn. Ở ranh giới của ngữ đoạn, thanh điệu hầu như không bị thay đổi đặc tính của mình, ngược lại, ở giữa ngữ đoạnl thanh điệu bị biến dạng, nhược hóa về số lượng và chất lượng. Độ dài của phần vần ở giữa ngữ đoạn thường ngắn hơn hai lần. Sự nhược hóa rõ rệt thể hiện ở các hư từ và các loại từ đi kèm danh từ hoặc các thực từ trong mối quan hệ giữa định ngữ và cái được định ngữ, giữa trạng ngữ và vị ngữ.

Ví dụ:

+ Đảng là của người nghèo khổ chúng ta (Trong câu này, thanh 4 trong từ của bị nhược hóa).

+ Tấm hóa ra quả thị (Thanh 4 trong từ “quả” bị nhược hóa, còn thanh 6 trong từ “thị” giữ nguyên).

+ Anh ấy mua gì? Thằng ấy bị giết rồi (Thanh 1 trong từ anh, và thanh 2 trong từ thằng nhược hóa, còn thanh 5 trong từ ấy được thể hiện rõ).

+ Bác đợi đấy cái đã (Nhược hóa thanh điệu 5 và 3 trong từ đệm cái đã) hoặc trong câu Bỗng nhiên dứa con mười tuổi bỏ chạy (nhược hóa thanh 4 trong từ bỏ, còn thanh 6 trong từ chạy được thể hiện đầy đủ) (M. V. Gordina, 1961).

Như vậy mức độ hiện thực hóa đầy đủ hay không của thanh điệu không những phụ thuộc vào vị trí của âm tiết mang thanh điệu trong ngữ đoạn, mà còn liên hệ chặt chẽ với mối quan hệ về ngữ pháp và ngữ nghĩa trong câu.

2. Sự biến đổi của thanh điệu phụ thuộc vào bối cảnh ngữ âm chung quanh

Thanh điệu được hiện thực hóa trong ngữ lưu bên cạnh những thanh điệu khác, đó là bối cảnh ngữ âm xung quanh của nó. Ảnh hưởng lẫn nhau giữa các thanh điệu trong chuỗi lời nói trước hết liên quan đến đường nét âm điệu của thanh (cụ thể là độ cao bắt đầu, độ cao kết thúc) và đặc trưng phi điệu tính như sự co bóp thanh hầu v.v…

Sự biến đổi của thanh điệu phụ thuộc vào bối cảnh ngữ âm cũng thể hiện rõ ở giữa ngữ đoạn. Ở vị trí này, các thanh bị ảnh hưởng bởi thanh điệu đi trước và thanh điệu đi sau. Ví dụ, những thanh điệu thấp có kết thúc thấp (thanh 2, 6) có thể kết thúc ở mức cao hơn nếu đứng trước thanh điệu có âm vực cao. Ngược lại, những thanh cao (thanh 3,5) có thể có kết thúc tương đối thấp trước thanh 4, thanh 2, hoặc thanh 6. Do độ dài của thanh điệu ở giữa ngữ đoạn bị thu ngắn lại hai lần, nên ảnh hưởng rõ rệt đến sự thể hiện các đặc trưng ngữ âm của thanh. Sự thay đổi này ở mỗi thanh lại có mức độ khác nhau. Thay đổi rõ rệt nhất, có khi không còn đường nét âm điệu đặc thù là các thanh 6 và thanh 4. Sự hạ giọng ở cuối của thanh 6 bị giảm hẳn, hay hoàn toàn biến mất làm cho tranh 6 hầu như có âm điệu bằng phẳng giống như thanh 2 hay thanh 1. Thanh 4 cũng bị mất âm điệu đi lên nên gần giống với thanh 2. Khi bị ảnh hưởng của các thanh điệu lân cận, thanh 3 có thể thay đổi đường nét âm điệu, không còn sự hạ giọng rõ rệt ở giữa, vì vậy giống với thanh 5. Thanh 1 có thể đi lên hoặc đi xuống đôi chút. Thanh 2 có thể trở nên bằng phẳng hoặc đi lên. Riêng thanh 5 thường ít bị biến đổi. Nó luôn giữ được hướng đi lên của âm điệu.

Như vậy, trong những đặc trưng điệu tính, đường nét âm điệu là yếu tố rất hay thay đổi và giới hạn biến đổi rất rộng. Ở giữa ngữ đoạn, thanh điệu bị biến đổi làm cho đường nét các thanh nhiều khi bị “đập nhập”. Đặc trưng về âm vực tỏ ra bền vững trong ngữ lưu. Các thanh điệu bị biến đổi nhưng vẫn giữ lại cao độ điển hình của thanh và các thanh tiếng Việt trong ngữ lưu vẫn giữ nguyên hai âm vực cao và thấp. Trong nhiều trường hợp, các thanh cùng một âm vực lại có đường nét giống nhau nhưng thanh điệu luôn luôn được người nói nhận diện, ít khi bị nhầm lẫn. Rõ ràng, sự phân biệt thanh điệu trong ngữ lưu, ở mức độ nhất định, là nhờ có những đặc trưng phi điệu tính. Các đặc trưng này trong những trường hợp cần thiết, lại nổi bật lên, nhận lấy gánh nặng âm vị học.

BÀI TẬP

52. Tiếng địa phương của anh (chị) có có mấy thanh điệu? Đó những thanh nào? Hãy miêu tả chúng.



1. Sự phân bố thanh điệu trong các loại hình âm tiết

Như chúng ta đã biết, thanh điệu là đặc tính siêu đoạn của âm tiết. Các đặc trưng của thanh điệu được thể hiện đồng thời với các thành phần cấu trúc khác của âm tiết. Vì vậy, trong chừng mực nào đó nó bị chế định bởi các thành phần này.

Về mặt âm vị học, âm tiết tiếng Việt trước hết được chia thành hai đơn vị: phụ âm đầu và vần. Phần vần, trong đó có nguyên âm, là phần luôn luôn mang thanh tính của âm tiết. Các đặc điểm về âm vực và âm điệu của thanh điệu chỉ được biểu hiện trong phần mang thanh tính mà thôi. Vì vậy, trong sự đối lập và thống nhất các thanh điệu phần vần đóng vai trò quan trọng. Còn phụ âm đầu hầu như không đóng vai trò gì trong sự đối lập các thanh. Về mặt ngữ âm, đặc tính của thanh điệu cũng hầu như không lan truyền lên phụ âm đầu. Hoặc có chăng (trong trường hợp phụ âm đầu hữu thanh và vang), thì trong đoạn đầu của âm tiết các đặc trưng khu biệt của thanh điệu cũng chưa thể hiện rõ. Tài liệu ngữ âm thí nghiệm đã chứng minh rằng, các thông tin ngôn ngữ học của thanh điệu chỉ thể hiện rõ ở nửa cuối của âm tiết mà thôi.

Phần vần của âm tiết có thể bao gồm âm đệm, một âm chính bắt buộc và có thể có bán nguyên âm hay phụ âm cuối. Sự khác nhau của thanh biểu hiện tập trung ở giữa và cuối vần (tức ở nguyên âm và phụ âm cuối).

Trong các vần không có âm cuối (ví dụ: ta, tu), hoặc có âm cuối là bán nguyên âm (ví dụ: mai, sau), hay có âm cuối là phụ âm vang (ví dụ: nam, lan, xanh, mang) các đặc trưng của thanh điệu được thể hiện dễ dàng.

Phức tạp hơn là khi vần được kết thúc bằng các phụ âm cuối vô thanh, khép (ví dụ: lạp, tập, hát, bắt, bác, bắc v.v…). Giai đoạn giữ các phụ âm cuối vô thanh có zêrô âm học, vì vậy các đặc trưng của thanh không thể hiện được ở đoạn này. Nhưng về mặt thụ cảm, các phụ âm cuối vẫn được nhận diện là / –p /, hay / –t /, hoặc / –k / là nhờ giai đoạn tạo thành chỗ tắc và sự chuyển tiếp từ nguyên âm đến phụ âm (Gordina, 1984). Giai đoạn chuyển tiếp này luôn luôn hữu thanh, nên nhờ đó đặc trưng của thanh điệu phần nào có thể biểu hiện nhưng rất hạn chế. Có thể nói rằng, trong mối quan hệ với các thành phần chiết đoạn của các âm tiết, thanh điệu bị sự chế định rõ ràng nhất của âm cuối. Vì vậy sự phân bố của thanh điệu trong âm tiết phụ thuộc vào loại hình kết thúc âm tiết.

Số lượng các thanh điệu xuất hiện trong những ấm tiết kết thúc bằng phụ âm cuối vô thanh rất hạn chế. Ở các âm tiết này chỉ có thể có thanh sắc hoặc thanh nặng. Hai thanh này có đường nét âm điệu không đổi hướng, hoặc đi lên (như thanh sắc) hoặc đi xuống (như thanh nặng), nên dễ nhận diện hơn trong những âm tiết có khuôn trường độ ngắn (nói đúng hơn là những âm tiết có trường độ giai đoạn thanh tính ngắn).

Sự phân bố của thanh điệu trong mối quan hệ với âm cuối có thể tóm tắt trong sơ đồ sau:



THANH ĐIỆU /

ÂM TIẾT


không dấu

1


huyền

2


ngã

3


hỏi

4


sắc

5


nặng

6

khép + +
không khép + + + + + +
Thanh sắc và thanh nặng trong những âm tiết có âm cuối vô thanh có những đặc điểm riêng về độ dài và đường nét âm điệu khác với thanh sắc và thanh nặng trong các âm tiết còn lại (so sánh: tá / tán với tát và ta / tạn với tạt). Vì vậy, trước đây đã từng có quan niệm rằng những thanh điệu trong các âm tiết có âm cuối vô thanh là những thanh điệu đặc biệt, khác với 6 thanh còn lại. Và trong tiếng Việt được ghi một hệ thống 8 thanh điệu: tan, tàn, tãn, tản, tán, tạn, tát, tạt. Quan điểm này rất quen thuộc với từ chương học truyền thống. Ở đây thanh điệu được phân thành các nhóm bình, thượng, khứ, nhập (thanh nhập là các thanh sắc, nặng trong âm tiết khép), và mỗi nhóm lại chia thành hai loại; phù (cao), trầm (thấp).

BÀI TẬP

53. Nếu coi tiếng Việt có 8 thanh điệu thì số lượng phụ âm cuối của tiếng Việt sẽ bớt đi bao nhiêu phụ âm và thêm nét khu biệt gì cho thanh điệu?

2. Sự phân bố thanh điệu trong từ láy

Từ láy là từ mà các thành tố kết hợp với nhau chủ yếu là theo quan hệ ngữ âm. Quan hệ này thể hiện ở hai mặt:

a. Tương ứng về yếu tố siêu đoạn tính (thanh điệu)

b. Tương ứng về yếu tố âm đoạn tính (phụ âm đầu, vần và các yếu tố trong vần)

Số lượng các từ láy trong tiếng Việt rất lớn, có khoảng trên dưới 4.000 từ. Vì vậy, luật hài thanh trong các từ láy này đáng để chúng ta nghiên cứu.

Các thành tố của từ láy thường phải có thanh thuộc cùng một âm vực: hoặc thuộc âm vực cao (ngang, hỏi, sắc), hoặc thuộc âm vực thấp (huyền, ngã, nặng).

Ví dụ:

a. Cùng âm vực cao: lưa thưa (11), lác đác (55), hổn hển (44), chiêm chiếp (15), xấu xa (51), thơ thẩn (14), sởn sơ (41), xấn xổ (54), đỏ đắn (45).

b. Cùng âm vực thấp: đề huề (22), bịn rịn (66), bẽn lẽn (33), chần chật (26), lạnh lùng (62), mạnh mẽ (63), chững chạc (36), mỹ miều (32), tầm tã (23).

Các từ láy có nhiều kiểu loại nhỏ: láy toàn bộ (như chuồn chuồn, bươm bướm), láy bộ phận có thể là láy vần (như lảm nhảm, co ro) hay láy phụ âm đầu (như lạnh lùng, đẹp đẽ). Trong mỗi kiểu loại như vậy, luật hài thanh nói trên có đặc điểm riêng:

a. Trong các từ láy toàn bộ thì âm tiết đầu thường là một trong các thanh bằng (1, 2), còn âm tiết thứ hai thường là một trong các thanh trắc (3, 4, 5, 6) cùng âm vực với nó, ví dụ: vò võ, mơn mởn, xam xám, lành lạnh.

b. Trong các từ điệp vận, thường có xu hướng thống nhất các thanh điệu ở cả hai âm tiết. Theo thống kê của Nguyễn Thiện Giáp, có 61% số từ láy vẫn có thanh điệu hai âm tiết giống nhau hoàn toàn. Ví dụ: bơ vơ, tù mù, lã chã, lổn nhổn, lố nhố, lọm khọm (dẫn theo Nguyễn Tài Cẩn, 1975). Trong một số trường hợp, sự kết hợp của thanh điệu trong từ láy không theo đúng luật hài thanh (như khe khẽ, se sẽ, hay khít khịt, xốp xộp v.v…). Có thể giải thích các hiện tượng này bằng sự thay đổi lịch sử của thanh ngã từ âm vực thấp lên âm vực cao, kéo theo sự thay đổi của thanh điệu khác kết hợp với nó (sè sẽ – se sẽ, nhờ nhỡ – nhơ nhỡ), hoặc do quan hệ với cơ chế láy ba (khít khịt -> khít khìn khít, xốp xộp -> xốp xồm xộp).

c. Trong các từ láy phụ âm đầu, thanh điệu của hai âm tiết không bắt buộc phải giống nhau, chỉ cần hai thanh điệu ở hai âm tiết cùng âm vực là được, ví dụ: làm lụng, sạch sẽ v.v…

Như vậy sự phân bố thanh điệu trong các từ láy tiếng Việt tuân theo luật phù–trầm. Luật hài hoà thanh điệu này bị chế định rõ rệt trong kiểu láy vần do mối quan hệ chặt chẽ giữa vần và thanh điệu.

BÀI TẬP

54. Hãy tìm luật hài thanh trong các dạng láy ba, láy tư sau đây:

a. Láy ba: khít (khìn) khịt, dửng (dừng) dưng, sạch (sành) sanh, cuống (cuồng) cuồng, trơ (trờ) trờ.

b. Láy tư:

– lếch (tha) lếch thếch, hì (hà) hì hục, lênh (kha) lênh khênh, vất (vơ) vất vưởng.

– (bổi hổi) bồi hồi, lảm nhảm (làm nhàm), lắng nhắng (lặng nhặng), (loáng choáng) loạng choạng.

– (lơ) thơ (lẩn) thẩn, (lồm) nhồm (loàm) nhoàm, xơ (rơ) xác (rác).

3. Sự phân bổ của thanh điệu trong từ điển và trên văn bản

3.1. Sự phân bố của thanh điệu trong từ điển

Theo tài liệu thống kê của I. S. Bystrov và M. V. Gordina (1976) trên ba từ điển trong đó có một từ điển Hán–Việt, sự phân bố của các thanh điệu tiếng Việt xét theo qui luật về thống kê như sau: Thanh 1 (thanh bằng) là thanh phân bố rộng, luôn có tần số xuất hiện cao nhất (trung bình khoảng 23%) tổng số âm tiết xuất hiện trong từ điển. Thanh 3 (thanh ngã) phân bố rất hạn chế, tần số xuất hiện thấp nhất (trung bình 7%). Nếu chỉ xét trong các âm tiết không có âm cuối vô thanh, thì thang bậc phân bố của các thanh tiếng Việt chia làm 4 mức, theo sự giảm dần của tần số như sau:

a) Thanh 1

b) Thanh 2 và thanh 5

c) Thanh 4 và thanh 6

d) Thanh 3

Riêng trong vốn từ Hán–Việt, chúng ta thấy thang bậc này được sắp xếp theo trình tự: 1  5  6  4  2  3. Như vậy, các thanh trắc 5, 6, 4 có tần số trội hơn, và thanh 2 ít được sử dụng, mặc dù vẫn thường gặp hơn thanh 3.

Trong cả ba từ điển, số âm tiết có âm cuối vô thanh chiếm khoảng 18%, trong đó, số âm tiết có thanh 5 là 9,6%, còn lại là thanh 6. Như vậy, tần số xuất hiện của thanh 5 và thanh 6 trong âm tiết khép vẫn lớn hơn cả thanh 3. Trong số âm tiết mang thanh 5, tỉ lệ của âm tiết khép so với âm tiết không khép là 41%, còn trong số âm tiết mang thanh 6 tỉ lệ đó là 33%.

3.2. Sự phân bố của thanh điệu trên văn bản

Sự phân bố này được xét trên các văn bản văn học (văn xuôi) và chính luận. Độ dài văn bản mỗi loại khoảng 16.000 âm tiết. Tần số sử dụng của các thanh điệu không giống nhau và ít nhiều tương ứng với tần số phân bố trong từ điển, nhưng có một số chênh lệ nhỏ:

– Thanh 1 vẫn là thanh thường gặp nhất cả trong hai loại văn bản, nhưng trong văn bản văn học tần số xuất hiện lớn hơn (29%).

– Tiếp theo thanh 1 là thanh 2. Thanh này cũng có tần số xuất hiện lớn trong văn bản văn học, và tỉ lệ chênh lệch với văn bản chính luận khá rõ. Nếu so với tần số xuất hiện trong từ điển (khoảng 14%) thì tần số sử dụng của thanh 2 trong văn bản có chênh lệch rõ rệt (21 %). Các âm tiết không có âm cuối vô thanh mang thanh 5 cũng thường xuất hiện trong văn bản văn học.

Ngược lại, thanh 4 và các thanh 5, 6 trong âm tiết khép (có âm cuối vô thanh) được sử dụng trong văn bản chính luận nhiều hơn. Nếu như trong văn bản văn học, tỉ lệ các âm tiết khép mang thanh 5 với các âm tiết không khép có cùng thanh điệu ấy là 38%, thì trong văn bản chính luận là 70%. Thanh 3 cũng được sử dụng trong văn bản chính luận nhiều hơn văn bản văn học. Có các hiện tượng trên là do trong văn bản chính luận thường sử dụng các từ kèm những, các, sẽ, gã v.v… và các từ Hán Việt.

BÀI TẬP

55. Tìm một bài thơ lục bát và một bài thơ 7 chữ có cùng độ dài văn bản. Hãy nhận xét:

a. Tần số xuất hiện của các thanh điệu trong hai bài thơ trên có gì khác nhau?

b. Tần số của các thanh điệu trong âm tiết tham gia hiệp vần của hai bài thơ đó có đặc điểm gì?

56. Trong hai khổ thơ 7 chữ và 5 chữ sau, hãy nhận xét về đặc điểm phân bố của các thanh bằng và thanh trắc ở các âm tiết cuối cùng của mỗi nhịp trong câu thơ (có gạch dưới).

– Thơ 7 chữ:

Miền Nam đó / ngọn đèn / mặt biển

Giữa đêm đông / đỏ lửa / đưa đường

Hãy nhằm hướng / phương đông / mà tiến

Hỡi những con tàu / trên các / đại dương

(Tố Hữu – Có thể nào yên)

– Thơ 5 chữ:

Con chim non / rũ cánh

Đi tìm tổ / bơ vơ

Quanh nẻo rừng / hiu quạnh

Lướt thướt / dưới dòng mưa

(Tố Hữu – Mồ côi)

57. Hãy tìm qui luật sử dụng thanh điệu bằng và trắc trong một số bài thơ văn xuôi của Chế Lan Viên.



Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 6


Các phương tiện ngôn điệu như thanh điệu, trọng âm, ngữ điệu thường quan hệ với một đơn vị độc lập trong hệ thống ngôn ngữ. Đơn vị đó bao giờ cũng lớn hơn âm vị, đó là âm tiết, từ, ngữ đoạn và câu. Có thể ví các đơn vị này như tầng nền, còn các hiện tượng ngôn điệu như lớp keo dẻo cố kết chúng lại với nhau. Lớp keo này có thể bóc ra để gắn với tầng nền khác, cũng như các phương tiện ngôn điệu không có quan hệ một đối một với từng đơn vị cơ sở, mà có thể gắn với những đơn vị cơ khác nhau trong cùng một loại. Ví dụ: thanh sắc có thể gặp ở những âm tiết khác nhau, má, mái, mát v.v… và ngược lại một âm tiết có thành phàn âm tố giống nhau cũng có thể được phát âm với nhiều giọng khác nhau: ma, mà, mã, mạ.

Thanh điệu đã được đề cập đến như một âm vị siêu đoạn tính và như một thành tố không thể thiếu được trong âm tiết (xem chương V: Thanh điệu). Trong chương này, chúng tôi chỉ bàn đến vấn đề trọng âm và ngữ điệu.



1. Khái niệm trọng âm và các kiểu trọng âm

Trọng âm là sự nêu bật một số đơn vị nào đó so với những đơn vị khác trong chuỗi lời nói. Trọng âm câu nêu bật một từ trong câu, còn trọng âm từ nêu bật một âm tiết trong từ.

Phương tiện để nêu bật đơn vị có trọng âm khác nhau trong các ngôn ngữ có thể là độ cao, độ mạnh, độ dài của âm tiết hoặc sự phát âm rõ ràng các nguyên âm, phụ âm và các yếu tố khác cấu thành âm tiết. Ví dụ tiếng Nhật là một ngôn ngữ sử dụng độ cao; trong từ yama (núi), âm tiết thứ hai cao hơn âm tiết thứ nhất và đó cũng là âm tiết có trọng âm (N. A. Spesnev, 1980). Kiểu trọng âm sử dụng độ cao này được gọi là trọng âm nhạc. Một số ngôn ngữ khác nêu bật âm tiết có trọng âm bằng độ mạnh. Đó là trọng âm lực. Còn nếu một âm tiết có trọng âm được nêu bật bằng độ dài của nó, ta có kiểu trọng âm lượng.

Thông thường đơn vị có trọng âm trong một ngôn ngữ vừa mạnh hơn, vừa dài hơn và cao hơn (hoặc thấp hơn) đơn vị không có trọng âm. Ví dụ, trong tiếng Đức và tiếng Pháp, âm tiết có trọng âm khác với âm tiết không có trọng âm về độ mạnh và độ cao. Trong tiếng Nga, độ dài đóng vai trò quan trọng hơn các yếu tố khác.

Các ngôn ngữ không chỉ khác nhau về các kiểu trọng âm mà còn khác nhau về vị trí phân bố của nó. Ví dụ, trong tiếng Tiệp, trọng âm bao giờ cũng rơi vào âm tiết đầu tiên của từ, còn trong tiếng Ba Lan, trọng âm ở âm tiết gần cuối. Loại trọng âm như vậy gọi là trọng âm cố định. Còn trong tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Đức v.v… trọng âm có thể rơi vào một âm tiết bất kỳ nào (ở đầu, ở giữa hay cuối từ). Đó là trọng âm tự do (hay nhiều vị trí). Đôi khi cùng một từ ấy nhưng trọng âm có thể chuyển vị trí từ âm tiết này sang âm tiết khác khi từ thay đổi hình thái. Ví dụ: ruká – rúki trong tiếng Nga, hoặc philólogy – philológical trong tiếng Anh. Loại trọng âm như thế gọi là trọng âm di động v.v…

2. Sự khác biệt giữa thanh điệu và trọng âm từ

a. Thanh điệu là đặc trưng ngôn điệu của âm tiết, còn trọng âm là đặc trưng ngôn điệu của từ.

Trong những ngôn ngữ âm tiết tính như tiếng Việt, tiếng Trung Quốc, tiếng Thái, tiếng Miến Điện v.v… âm tiết không thể tồn tại bên ngoài thanh điệu. Không có thanh điệu, không tạo trên diện mạo chung của âm tiết. Trong các ngôn ngữ phi âm tiết tính, như tiếng Nga, tiếng Anh v.v… mỗi từ có một trong âm. Trọng âm thống nhất các âm tố, tạo nên diện mạo của từ. Nếu từ có nhiều hơn một âm tiết thì âm tiết có trọng âm liên kết với âm tiết không có trong âm tạo thành một đơn vị thống nhất.

b. Đặc trưng thứ hai phân biệt trọng âm từ và thanh điệu là, nếu ta biết vị trí của trọng âm (hoặc kiểu trọng âm) thì ta có thể nói trước được đặc điểm về đường nét ngôn điệu của từ. Ví dụ, trong tiếng Nga, nếu có một từ ba âm tiết và biết âm tiết thứ hai có trọng âm thì ta có thể đoán trước được đặc điểm về cường độ trường độ, thuộc tính của nguyên âm sẽ phân bố thế nào trong từ ở âm tiết có trọng âm, trước trọng âm và sau trọng âm.

Còn trái lại, đối với các ngôn ngữ có thanh điệu như tiếng Việt nếu biết thanh điệu của âm tiết thứ hai trong một tổ hợp song tiết nào đó, thì ta khó lòng nói chính xác âm tiết đi trước nó mang thanh điệu gì.

c. Về mặt chức năng, ngoài vai trò cấu tạo diện mạo chung của âm tiết, thanh điệu còn có chức năng khu biệt nghĩa hình vị hay từ. Điều này dễ hiểu vì thanh điệu là đặc trưng của hình tiết là đơn vị cơ sở của ngôn ngữ âm tiết tính. Trong các ngôn ngữ này, số lượng hình tiết không nhiều. Vì vậy để cấu tạo những âm hiệu phức tạp cần phải hoặc kéo dài chuỗi âm tiết, hoặc phải bổ sung số lượng âm tiết bằng cách thêm vào những đặc trưng ngôn điệu, siêu đoạn như thanh điệu. Trong tiếng Việt, nhờ thanh điệu, ta có thể nhân lên sáu lần số lượng âm tiết khu biệt nghĩa. Ví dụ: ta, tá, tà, tả, tã, tạ.

Còn đối với trọng âm, chức năng khu biệt nghĩa từ không phải là chủ yếu. Chức năng chính của trọng âm có lẽ là chức năng tạo đỉnh (liên kết các âm tiết trong từ xung quanh âm tiết có trọng âm lại thành một chính thể ngữ âm, hoặc nêu bật một đơn vị nào đó trong câu) và chức năng phân giới từ. Chức năng khu biệt của trọng âm được xác định bởi khả năng phân biệt từ theo vị trí trọng âm (nếu trọng âm nhiều vị trí), phân biệt hình thái từ (nếu là trọng âm di động) v.v… (Kasevich, 1983).

3. Trọng âm trong tiếng Việt

Trong sự mô tả truyền thống từ trước đến nay thì các ngôn ngữ có trọng âm từ thường không có thanh điệu. Còn trong các ngôn ngữ âm tiết tính có thanh điệu, thì có trọng âm từ hay không? Trọng âm từ và trọng âm câu tiếng Việt – một ngôn ngữ âm tiết tính – được thể hiện cụ thể như thế nào? Đó là những vấn đề cần nghiên cứu.

Haudricourt (A. G. Haudricourt & C. Hagège, 1978) có nhận xét rằng “không nên nói về trọng âm trong ý nghĩa nghiêm ngặt của từ này khi áp dụng vào những ngôn ngữ đơn tiết”.

Trọng âm trong tiếng Việt chưa được nghiên cứu nhiều. Tuy nhiên, trong một số công trình nghiên cứu, người ta đã đề cập đến vấn đề này. Đó là những gợi ý rất hay mặc dù chúng cần được chứng minh bằng nhiều tư liệu hơn và bằng các phương pháp nghiên cứu thực nghiệm.

L. Thompson, trong Âm vị học tiếng Sài Gòn (1959) và trong Ngữ pháp tiếng Việt (1965), cho rằng có bốn mức trọng âm trong tiếng Việt: nhấn mạnh (emphatic), nặng (heavy), trung bình (medium) và yếu (weak).

Aurélia Trấn, trong luận án tiến sĩ của mình về Trọng âm, thanh điệu và ngữ điệu trong tiếng miền Nam Việt Nam (bảo vệ tại trường Đại học Quốc gia Úc) đã vạch ra 4 mức của trọng âm tiếng Việt. Đó là nhấn mạnh (emphatic), mạnh (strong), yếu (weak) và rất yếu (extra weak).

Nguyễn Đăng Liêm trong Phát âm tiếng Việt (1970), với mục đích tiện dụng cho việc thực hành, đã chia ra hai mức trọng âm trong tiếng Việt. Theo ông, trọng âm mạnh có thể là một trọng âm cú pháp. Ông cho rằng, sự định vị của trọng âm yếu và trọng âm mạnh trong những ngữ đoạn với chỗ ngừng trong tiếng Việt tạo thành cơ sở cho các mô hình tiết điệu trong ngôn ngữ. Những mô hình này có những đặc tính như sau:

1. Chức năng cú pháp của các âm tiết quyết định mô hình trọng âm trong ngữ đoạn, có nghĩa là các âm tiết là các danh từ, các động từ, các trạng từ và các tính từ thì có thể có trọng âm, trong khi các âm tiết lặp lại, các âm tiết là các giới từ, các tiểu từ v.v… thì không có trọng âm.

2. Đó là sự lựa chọn trọng âm yếu và trọng âm mạnh. Như vậy có hai mô hình tiết điệu:

a. Mô hình tiết điệu bắt đầu với trọng âm yếu,

b. Mô hình tiết điệu bắt đầu với trọng âm mạnh.

Theo Nguyễn Đăng Liêm, trong mỗi ngữ đoạn (ông gọi pause group) có ít nhất một trọng âm. Âm tiết có trọng âm cú pháp thường mạnh hơn các âm tiết trọng âm thông thường khác trong ngữ đoạn. Những âm tiết mang trọng âm cú pháp thường truyền đạt thông tin mới trong ngữ đoạn và thường là một danh từ, động từ, hoặc là tính từ.

Các tác giả người Nga như Gordina (1960), Gordinal và Bystrov (1961) cho rằng trọng âm trong tiếng Việt được xác định như mức đầy đủ của sự hiện thực hóa thanh điệu. Các âm tiết có trọng âm thể hiện đầy đủ các đặc trưng của thanh điệu, còn các âm tiết không có trọng âm thường thể hiện không đầy đủ.

Giáo sư Cao Xuân Hạo, trong bài viết Trọng âm và các quan hệ ngữ pháp trong tiếng Việt cho rằng sự đối lập về trọng âm trong tiếng Việt được thể hiện nhờ sự tương phản giữa các âm tiết kế tiếp nhau về độ dài, độ mạnh và tính trọn vẹn về đường nét thanh điệu. Dựa vào những tài liệu thực nghiệm của các tác giả đi trước như Nguyễn Hàm Dương, M. V. Gordina… ông cho rằng, một tiếng có trọng âm dài hơn một tiếng không có trọng âm từ 1,5 đến 4 lần, mạnh hơn từ hai đến ba lần và có một đường nét thanh điệu trọn vẹn hơn hẳn. Theo ông, mỗi câu nói đều mang một hay nhiều trọng âm, mỗi trọng âm đánh dấu một ngữ đoạn và nó được đặt vào tiếng (âm tiết) cuối cùng hay duy nhất của mỗi ngữ đoạn. Ở đây, ngữ đoạn được hiểu là đơn vị mang trọng âm và có thể trùng với một đơn vị mang chức năng ngữ pháp của câu.

Như vậy, trọng âm có thể cùng tồn tại với thanh điệu trong các ngôn ngữ âm tiết tính như tiếng Việt, nhưng không điển hình và có nội dung không hoàn toàn giống với khái niệm trọng âm trong các ngôn ngữ phi âm tiết tính.

Tính chất và kiểu loại trọng âm có lẽ phụ thuộc vào sự phân cấp trong xu hướng và khả năng đơn lập hoá của các ngôn ngữ. Ở những ngôn ngữ có mức đơn lập hóa hoàn toàn các âm tiết, âm tiết trùng với hình vị và trùng với từ đơn như tiếng Việt, thì có thể có khả năng tồn tại trọng âm cú pháp (trọng âm câu, hay trọng âm ngữ đoạn, trọng âm lô–gic v.v…). Còn những ngôn ngữ có mức độ đơn lập hóa thấp, hay đang bắt đầu từ bỏ tình trạng đơn lập hóa các âm tiết, chuyển dần sang từ đa tiết và cơ cấu phi âm tiết tính, thì có khả năng xuất hiện cả trọng âm từ. Bởi vì khi kéo dài hình tiết thành từ, thì tất yếu xuất hiện nhu cầu thống nhất các âm tiết trong từ, một số âm tiết sẽ bị nhược hóa và âm tiết có trọng âm sẽ được tách ra.

3.1. Trọng âm trong câu tiếng Việt

Theo Gs. Cao Xuân Hạo, mỗi câu tiếng Việt đều mang một hay nhiều trọng âm, mỗi trọng âm đánh dấu một ngữ đoạn (syntagme). Trọng âm được đặt vào âm tiết cuối cùng hay duy nhất của ngữ đoạn. Như vậy, trọng âm có chức năng phân giới giữa từng ngữ đoạn với ngữ đoạn kế tiếp nhau trong câu. Ví dụ:

(1) Lan // đi mua cá // mí lại khế // về nấu canh //

[ 1 0 0 1 0 0 1 0 0 1 ]

Trong câu ví dụ trên, âm tiết tương ứng với số 1 là âm tiết có trọng âm; âm tiết này luôn đứng ở cuối ngữ đoạn.

Nếu một câu hoặc ngữ đoạn có ngữ khí từ (hay tiểu từ tình thái) ở cuối thì câu hoặc ngữ đoạn đó sẽ được kết thúc bằng một khinh âm. Ví dụ câu kết thúc bằng nhé, không (ngữ khí từ nghi vấn) đâu (ngữ khí từ nhấn mạnh ý phủ định)… thì không có trọng âm ở cuối. Còn những câu kết thúc bằng những từ có mang chức năng cú pháp thì có trọng âm ở cuối. Nhờ vậy, ta có thể phân biệt một ngữ khí từ với thực từ đồng âm với nó, chẳng hạn như phân biệt không là ngữ khí từ nghi vấn với không là phó từ phủ định; phân biệt đâu là ngữ khí từ nhấn mạnh ý phủ định với đâu là phó từ nghi vấn phiếm định. Ví dụ:

(2) Tôi về nhé. [ 010 ] ss. Tôi về nhà [ 001 ]

(3) Có đi không [ 010 ] ss. Đi hay không [ 101 ]

(4) Tôi không đi đâu. [ 0010 ]

ss. Tôi không đi đâu (cả). [ 0001(0) ]

Tương tự như vậy, có thể phân biệt một số hư từ (không có trọng âm) với những thực từ vốn là gốc phát sinh của hư từ này hoặc ngẫu nhiên đồng âm với nó (có trọng âm). Ví dụ, phân biệt giữa cho (hư từ) và cho (động từ):

(5) a. Lấy tiền cho bạn. (= lấy tiền dùm bạn)

[ 0 1 0 1 ]

b. Lấy tiền cho bạn. (= lấy tiền để biếu bạn)

[ 0 1 1 1 ]

Trong số những hư từ có thể phân biệt với thực từ đồng âm theo tiêu chí trọng âm, theo Cao Xuân Hạo, có thể kể thêm:

– ở, đi, về, qua, lên, xuống, ra, vào, sang

– làm, thành (giới từ / vị từ)

– của, bên, trên, dưới, trong, ngoài (giới từ / danh từ hay vị từ)

– chỉ, là, với, và, thì…

3.2. Trọng âm trong các tổ hợp gồm hai tiếng thực từ

Từ trước đến nay, các nhà ngôn ngữ học thường nghiên cứu các tổ hợp song tiết về mặt cấu tạo, về mối quan hệ ngữ nghĩa và ngữ pháp giữa các tiếng trên văn bản mà ít chú ý đến sự phân biệt tinh tế vế trọng âm. Cao Xuân Hạo đã phát hiện ra quy luật sử dụng khinh âm và trọng âm trong các tổ hợp song tiết tương quan với mối quan hệ phức tạp và đa dạng về mặt ngữ pháp giữa các tiếng. Sau đây là một số sự kiện tiêu biểu:

* Trọng âm trong kết cấu chủ–vị (hay đề – thuyết) gồm hai tiếng:

Một tổ hợp hai tiếng gồm có một chủ ngữ và một vị ngữ có mô hình trọng âm [ 11 ] nếu chủ ngữ là danh từ, và có mô hình trọng âm [ 01 ] nếu chủ ngữ là đại từ nhân xưng. Ví dụ:

(6) a. Ngựa ăn. Chủ đánh. (cùng mẫu trọng âm [ 11 ])

b. Nó ăn. Tao đánh. (cùng mẫu trọng âm [ 01 ])

Đặc điểm này cung cấp một tiêu chí hình thức để phân biệt danh từ với đại từ, đặc biệt là trong những trường hợp mà tiếng được dùng làm đại từ vốn là danh từ chỉ quan hệ thân thuộc hay ngôi thứ như: bố, mẹ, con, anh, chị, em, ông, bác, chú, thím, cô, dì, cậu, mợ, cháu, tôi, tớ, thầy, bạn, họ v.v…

* Trọng âm trong các tổ hợp đẳng lập:

Một tổ hợp đẳng lập gồm hai tiếng (cùng từ loại), bất kể từ loại chung và cú pháp của nó là gì, bao giờ cũng có mô hình trọng âm [ 11 ]. Chẳng hạn:

Sách vở, áo xống, nhà cửa, gà qué, xe cộ

Ăn uống, ngủ ngáy, hỏi han, làm ăn

Vui sướng, hăng say, lạnh nhạt, khổ sở

Sự kiện này cung cấp một tiêu chí hình thức để phân biệt tổ hợp đồng lập với tổ hợp chính phụ trong đó có hai yếu tố cùng từ loại, vốn có mô hình trọng âm [ 01 ]. So sánh:

(7) a. nhà cửa [ 11 ] và nhà máy [ 01 ]

b. làm ăn [ 11 ] và làm vỡ [ 01 ]

c. lạnh nhạt [ 11 ] và lạnh ngắt [ 01 ]

Trong các kết cấu song tiết khác như kiểu vị từ – bổ ngữ, danh từ – định ngữ… cũng có những qui luật về trọng âm riêng (cụ thể hơn, xin xem Cao Xuân Hạo, Trọng âm và các quan hệ ngữ pháp trong tiếng Việt).



1. Những nhận xét chung

Trong chuỗi lời nói, mỗi câu thường được thể hiện như một chỉnh thể toàn vẹn về ngữ âm, được tách ra giữa hai chỗ ngừng giọng. Hình thức ngữ âm của câu được gọi là ngữ điệu câu.

Trong ngữ điệu, cần phân biệt hai mặt:

– Ngữ điệu giao tiếp: là ngữ điệu thể hiện những kiểu câu khác nhau như câu kể, câu hỏi, câu cảm thán, câu cầu khiến đồng thời biểu hiện mối quan hệ giữa các câu với nhau, thông báo câu đã kết thúc chưa, hay phân chia câu thành các bộ phận nhỏ hơn (như các ngữ đoạn) v.v…

– Ngữ điệu tình thái: là ngữ điệu biểu hiện một sắc thái tình cảm nào đấy phù hợp với trạng thái cảm xúc của người nói (vui, buồn, giận, ấu yếm mỉa mai v.v…).

Ngữ điệu tình thái không nhất thiết phải liên quan đến nội dung ý nghĩa của câu. Cùng một câu, một ý nghĩa, nhưng câu ấy có thể được thông báo với nhiều sắc thái cảm xúc khác nhau. Ngữ điệu tình thái phản ánh mối quan hệ (thái độ, sự đánh giá) của người nói đối với nội dung thông báo trong quá trình giao tiếp. Cách biểu hiện cảm xúc thông qua ngữ điệu có sắc thái riêng ở mỗi ngôn ngữ. Vì vậy, nhiều khi chúng ta không hiểu đúng sắc thái tình cảm trong lời nội của một ngoại ngữ.

Ngữ điệu tình thái hiện nay đang được các nhà nghiên cứu chú ý. Nhưng việc nghiên cứu ngữ điệu tình thái gặp khó khăn không nhỏ vì không có một sự phân loại “các tình thái” (hay cảm xúc) một cách nghiêm nhặt và nhất quán.

Ngữ điệu giao tiếp có liên quan đến cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ. Các phương tiện ngữ điệu có quan hệ với các phương tiện ngữ pháp. Mối quan hệ này, theo quan điểm của A. M. Peskovski (trong bài báo Ngữ điệu và ngữ pháp (1959)) trước tiên dựa trên nguyên tắc thay thế, tức là “ý nghĩa ngữ pháp thể hiện bằng những phương tiện ngữ pháp càng rõ, thì sự biểu hiện bằng ngữ điệu của nó càng yếu”. Ví dụ, trong tiếng Việt, các kiểu câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm thán được biểu hiện bằng những từ chỉ sự hoài nghi, chỉ ý cầu khiến hay bày tỏ cảm xúc. Vì vậy, sự biểu hiện bằng ngữ điệu trong các kiểu câu trên không rõ ràng.

Cần chú ý rằng, trong đa số trường hợp, các phương tiện ngữ điệu có tính chất tự do và linh động, tức là những đặc trưng ngữ điệu không bao giờ có mối quan hệ không thể tách rời với một đặc trưng ngữ pháp đơn trị nào đó. Vì vậy, không nên tìm kiếm mối quan hệ một đối một giữa một cấu trúc ngữ pháp cụ thể và hình thức ngữ điệu của câu. Ví dụ, đối với các ngôn ngữ Ấn Âu ngữ điệu đi lên thường biểu thị câu chưa kết thúc, hoặc biểu thị sự nghi vấn (trong câu hỏi không có từ để hỏi).

2. Những thành tố của ngữ điệu

Ngữ điệu gồm các thành tố sau đây: âm điệu, cường độ, độ dài (hay tốc độ lời nói), chỗ ngừng và âm sắc giọng nói. Những thành tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành hình thức ngữ âm của câu.

2.1. Âm điệu

Âm điệu là yếu tố quan trọng nhất của ngữ điệu: đó là sự thay đổi cao độ thanh cơ bản của giọng nói. Một thời gian dài trước đây, người ta đồng nhất ngữ điệu với âm điệu. Chỉ vài chục năm gần đây vai trò của các thành tố khác mới được chú ý đến.

Âm điệu có thể thực hiện những chức năng khác nhau. Âm điệu cùng với chỗ ngừng, làm phương tiện phân đoạn lời nói. Ranh giới giữa hai ngữ đoạn thường được đánh dấu bởi sự chuyển đổi của âm điệu, sự chuyển tiếp của giọng từ cao xuống thấp, hay từ thấp lên cao v.v… Âm điệu còn là phương tiện nối liền các phần khác nhau của câu.

Để phân biệt các kiểu câu theo mục đích phát ngôn (câu hỏi, câu kể, câu cầu khiến, cảm thán v.v…) trước tiên phải dựa vào âm điệu. Vì ý nghĩa quan trọng của nó, nên trong các sách giáo khoa (đặc biệt là sách dạy ngoại ngữ) và trong các công trình nghiên cứu lý thuyết, người ta thường trình bày ngữ điệu dưới dạng những sơ đồ biến đổi độ cao.

2.2. Cường độ

Chức năng cơ bản của cường độ là làm nổi bật một bộ phận nào đó trong câu, thể hiện qua kiểu loại trọng âm (trọng âm câu hay ngữ đoạn, trọng âm lô–gic v.v…).

2.3. Độ dài

Được hiểu là tốc độ phát âm. Tốc độ phát âm được qui định bởi đặc điểm cá nhân của người nói và cũng phụ thuộc vào phong cách và hoàn cảnh phát âm (ví dụ, giảng bài thường có tốc độ chậm hơn lời nói bình thường). Tốc độ của lời nói còn phụ thuộc vào nội dung câu nói. Các từ có ý nghĩa và có chức năng quan trọng thì nói chậm hơn các hư từ v.v…

2.4. Chỗ ngừng

Được hiểu là chỗ lặng về âm học và chỗ ngừng về cấu âm. Đôi khi không có hai đặc điểm trên nhưng người nghe cảm nhận có chỗ ngừng, đó là chỗ ngừng tâm lý.

Chức năng của chỗ ngừng là tạo nên ranh giới giữa các phần khác nhau của câu, tách đơn vị ngữ pháp này với đơn vị ngữ pháp khác và thể hiện mối quan hệ giữa chúng. Chỗ ngừng có thể truyền đạt những sắc thái tình cảm. Sự im lặng có tác dụng truyền cảm, đó chính là sự ngắt giọng tâm lý. Nó có vị trí đáng kể trong việc đọc, kể chuyện văn học và diễn xuất v.v…

2.5. Âm sắc

Được hiểu là chất lượng của giọng, thể hiện qua mối quan hệ phức tạp giữa tần số âm cơ bản và các thượng âm, độ vang, độ rõ của giọng v.v…

Âm sắc dùng để thể hiện mặt tình thái của ngữ điệu. Tất cả những sắc thái tình cảm của con người thể hiện qua giọng nói nhờ âm điệu, nhờ sự nhấn mạnh, sự kéo dài hay ngừng giọng, nhưng âm sắc lời nói có một vai trò đặc biệt. Khi nói: “Cô ta nói điều đó với giọng giận giữ” hay “với giọng sợ hãi”, “giọng nũng nịu” tức là chú ý đến âm sắc của giọng nói.

Như vậy, những tình cảm của chúng ta không chỉ thể hiện bằng lời, mà được thể hiện rất nhiều qua ngữ điệu.

3. Ngữ điệu trong tiếng Việt

Trong tiếng Việt, sự thay đổi cao độ thanh cơ bản (tức âm điệu) được sử dụng để khu biệt nghĩa các hình–tiết? Vì vậy, việc sử dụng các đặc điểm thanh tính để thể hiện các thông tin ngôn ngữ học ở bình diện câu phải đảm bảo sao cho không thay đổi thanh điệu của hình–tiết (hoặc từ đơn) tham gia cấu tạo câu. Sự chế định của thanh điệu làm cho sự biểu hiện của các phương tiện ngữ điệu (đặc biệt là âm điệu) kém hiệu quả, và trong nhiều trường hợp, phương tiện ngữ điệu được thay thế bằng phương tiện từ vựng. Ví dụ, so sánh ngữ điệu câu hỏi và câu kể trong tiếng Việt rất khó khăn. Vì theo luật ngữ pháp chuẩn, câu hỏi nhất thiết phải có từ hỏi hoặc các từ đệm v.v… Mặc dù vậy, các nhà nghiên cứu vẫn nhận thấy sự khác biệt về ngữ điệu giữa các kiểu câu này, tuy không rõ rệt như trong ngôn ngữ Ấn Âu. Sự tồn tại của thanh điệu không loại trừ ngữ điệu.

Như chúng ta đã biết, trong tiếng Việt, mỗi âm tiết được phát âm với một thanh điệu nhất định. Vì vậy, độ cao và đường nét âm điệu của câu phụ thuộc vào thanh điệu của từng âm tiết trong từ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là câu nói tiếng Việt không biểu hiện sắc thái tình cảm và người Việt không thể phân biệt các câu theo mục đích phát ngôn. Một câu hỏi đặt ra là: có những sự khác biệt nào về ngữ âm giúp ta phân biệt được các sắc thái tình cảm khác nhau và phân biệt giữa câu nghi vấn và câu tường thuật và các loại câu khác? Sự khác biệt này rõ ràng có thực trong sự cảm nhận của chúng ta. Trong phần này chúng tôi xin giới thiệu một số kết quả nghiên cứu của những người đi trước về những vấn đề trên.

3.1. Đặc tính ngữ điệu của câu nghi vấn và câu kể

M. V. Gordina (1984) cho rằng việc so sánh các câu hỏi và câu tường thuật (hay câu kể) về mặt ngữ điệu rất khó vì trong câu hỏi của tiếng Việt luôn luôn có các từ nghi vấn như: ai, đâu, gì, như thế nào, bao giờ v.v… nhưng nói chung, các từ nghi vấn trong tiếng Việt thường đặt ở cuối câu hỏi. Vì vậy, trong cùng những câu được tạo thành câu tường thuật hoặc câu hỏi, từ trong câu khẳng định đứng ở cuối, tức là đứng ở ranh giới của ngữ đoạn, còn trong câu hỏi thì đứng ở trước từ cuối (trước từ nghi vấn), có nghĩa là những từ này đứng ở giữa ngữ đoạn, và ở vị trí này, đặc trưng thanh điệu của từ thường bị biến đổi. (Xin xem phần Thanh điệu).

Nhưng trong lời nói, câu hỏi có thể không có từ nghi vấn. Mặc dù chúng được coi là không chuẩn, nhưng chính chúng lại cho ta một bằng chứng rõ ràng về sự khác nhau của ngữ điệu trong việc tạo thành hình thức ngữ âm của câu hỏi và câu tường thuật. Vì vậy, ở đây chúng ta có thể so sánh hai loại câu này trong hình thức thuần túy của nó. Như vậy, khi nghiên cứu đặc trưng ngữ điệu của câu kể và câu hỏi, bên cạnh sự tồn tại của những câu hỏi có các từ nghi vấn, còn có những câu hỏi mà tính chất nghi vấn được thể hiện bằng các đặc trưng về ngữ điệu.

Khi so sánh các câu hỏi và câu kể, M. V. Gordina nhận thấy rằng đường nét thanh điệu của các từ ở vị trí mạnh và ở trước các từ nghi vấn tương đối ổn định, nói chung giống với khi phát âm ở vị trí đơn lập. Như vậy, trong câu nghi vấn và câu tường thuật đều không có loại ngữ điệu kết thúc câu như trong một số ngôn ngữ khác như tiếng Anh hay tiếng Nga. Trong khi đó, đặc tính thanh điệu của câu nghi vấn và câu tường thuật có những tương ứng nhất định và có thể nhận thấy được: thanh điệu các từ trong câu nghi vấn, trong đa số trường hợp, có âm vực cao hơn thanh điệu các từ trong câu tường thuật. Sự khác nhau về âm vực này liên quan tới các thanh bằng (thanh không và thanh huyền), cũng như các thanh đi lên, đi xuống và các thanh có đường nét phức tạp khác. Mức độ dao động về âm vực có thể nhiều ít khác nhau nhưng không quá một quãng bốn (hai cung rưỡi). Sự khác nhau này biểu hiện rõ hơn ở những câu ngắn. Không chỉ những từ mang trọng âm câu mới được phát âm ở âm vực cao hơn mà kể cả những từ khác trong câu hỏi cũng được phát âm như vậy. Sự khác nhau về độ cao nói chung của câu tường thuật và câu hỏi được đặc biệt thể hiện rõ khi câu hỏi không có từ nghi vấn. Ngoài ra, thanh điệu của những từ mang trọng âm trong câu thường có cường độ mạnh hơn.

Như vậy, có thể nói rằng, ngữ điệu câu của tiếng Việt – trong câu kể và câu hỏi – có mối quan hệ xác định với đặc tính của thanh điệu.

Trong câu kể, với âm vực thấp hơn, những yếu tố thuộc âm điệu thấp của thanh được nhấn mạnh: âm điệu đi xuống của thanh huyền (thanh 2), phần đi xuống của thanh hỏi (thanh 4), sự hạ giọng rất sâu của thanh nặng (thanh 6). Ngược lại, trong câu hỏi, các yếu tố thuộc âm điệu cao được nhấn mạnh như: phần đi lên của thanh ngã (thanh 3) và thanh hỏi (thanh 4), phần lên giọng của thanh sắc (thanh 5). Đặc tính của thanh điệu bị biến đổi tương ứng tuỳ theo mỗi thanh ở trong câu hỏi hay câu tường thuật.

Thompson cũng đã chỉ ra âm vực cao hơn của thanh và khẳng định phần đi lên của đường nét âm điệu đối với câu hỏi. Ông nhận xét rằng có thể có sự nâng cao của âm vực của toàn bộ câu hỏi nói chung (Thompson, 1965, tr. 44; 109).

Do đó, đối với tiếng Việt, có thể nói rằng những biến thể của thanh điệu không chỉ phụ thuộc vào vị trí của từ trong câu mà còn phụ thuộc vào các kiểu câu khác nhau. Trong những kiểu câu khác nhau về mục đích phát ngôn, các đặc trưng của thanh điệu có thể bị biến đổi hoặc được nhấn mạnh hay nhược hoá ở mức độ nhiều hay ít. Trong khi đó, sự đối lập các thanh luôn luôn được giữ lại.

Đặc tính ngữ điệu của câu tiếng Việt nói chung được biểu hiện thông qua những đặc tính của thanh điệu. Trong tiếng Trung quốc, một ngôn ngữ có thanh điệu, chúng ta cũng thấy những hiện tượng tương tự như vậy. Theo kết quả nghiên cứu của Rumiansev (1963, 1972) và của Galenovich Grigorova, âm vực, cường độ và đường nét âm điệu của thanh điệu thay đổi phụ thuộc vào ngữ điệu của câu.

Như vậy, sự nghiên cứu ngữ điệu trên tài liệu tiếng Việt và tiếng phổ thông Trung Quốc cho thấy rằng, các loại câu phân loại theo mục đích phát ngôn thường phân biệt nhau về âm vực chứ không phải bằng đường nét âm điệu. Ví dụ trong tiếng Việt, nếu lấy hai câu (hỏi và kể) có các từ giống nhau:

– Cháu xung phong.

– Cháu xung phong?

để so sánh, thì thấy rằng câu kể và câu hỏi thường không có ngữ điệu kết thúc riêng (như trong tiếng Ấn Âu). Nhưng đặc trưng thanh điệu của từ trong câu hỏi và câu kể có mối tương quan nhất định: các thanh điệu trong câu hỏi trong đa số trường hợp cao hơn về âm vực so với thanh điệu trong câu kể làm cho âm vực của toàn bộ câu hỏi được nâng lên một mức (M. V. Gordina, 1984). Điều đó giống như trong âm nhạc, hai câu khác nhau về độ cao nhưng vân giữ nguyên tuyền điệu.

3.2. Ngữ điệu tình thái trong tiếng Việt

Ngoài âm điệu, còn có các phương tiện siêu đoạn khác được sử dụng ở diện câu mà ta đã biết, như cường độ, trường độ, chỗ ngừng và âm sắc. Những phương tiện này ít bị chế định bởi thanh điệu, vì vậy có thể được sử dụng rộng rãi hơn trong các ngôn ngữ có thanh điệu như tiếng Việt, để cấu thành ngữ điệu câu đặc biệt là ngữ điệu tình thái (tất nhiên chúng luôn luôn kết hợp chặt chẽ, không thể tách rời âm điệu trong câu). Chỉ cần nhớ lại ngữ điệu phong phú của các câu nói hằng ngày, chúng ta thấy rằng ngữ điệu đã thêm cho câu những sắc thái ý nghĩa rộng không thể hiện bằng từ ngữ. So sánh các câu:

– Nó cần gì? Và Nó cần gì!

– Nó thiếu gì? và Nó thiếu gì!

– Nó giỏi gì? và Nó giỏi gì!

– Anh ấy phó tiến sĩ gì? Và Anh ấy phó tiến sĩ gì!

bằng ngữ điệu, ta có thể phân biệt đó là thái độ nghi vấn hay thái độ phủ định (= Nó chẳng cần gì. Nó chẳng thiếu gì). Hoặc khi nói cùng một câu, chẳng hạn như: Nó ngoan lắm hoặc Mày hiếu thảo lắm dấy, con ạ, người ta có thể nói với giọng khen ngợi (khẳng định) hay mỉa mai (phủ định).

Trong các câu trên, cấu trúc ngữ điệu rõ ràng có liên quan mật thiết đến biểu hiện của âm tiết mang trọng âm câu và phần tiếp sau nó (trong các câu trên trọng âm rơi vào vào các từ cần, thiếu, giỏi, ngoan v.v…). Như vậy, nếu coi âm tiết mang trọng âm là trung tâm, có thể chia câu làm ba phần: trước trung tâm, trung tâm và sau trung tâm. Phần trước trung tâm thường phát âm trung hòa, phần trung tâm và sau trung tâm thường mang đặc điểm ngữ điệu riêng cho từng loại câu hoặc từng loại tình thái.

Hiện nay, các vấn đề ngữ điệu và trọng âm trong các ngôn ngữ có thanh điệu (trong đó có tiếng Việt) chưa được nghiên cứu thấu đáo. Kết quả nghiên cứu chưa toàn diện và có hệ thống. Hy vọng rằng, với những phương tiện kỹ thuật hiện đại các nhà ngữ âm học sẽ có điều kiện thuận lợi hơn trong việc nghiên cứu và sẽ có những kết quả toàn diện và thuyết phục hơn.




Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 7


1. Chức năng của chữ viết

Chữ viết thuộc về một trong những sáng tạo vĩ đại của loài người. Chữ viết giúp con người giao tiếp nhau trong những trường hoạt khi giao tiếp bằng âm thanh không thực hiện được hay gặp trở ngại. Nhưng trở ngại chính đối với sự giao tiếp bằng âm thanh là không gian và thời gian. (Âm thanh không thể truyền trong một không gian quá rộng nếu không có sự giúp đỡ của kỹ thuật, và âm thanh cũng không thể truyền lại cho các thế hệ sau được nếu không có hệ thống chữ viết).

Tục ngữ Nga có câu: Lời nói như con chim sẻ. Nó bay đi và không tìm lại được. Còn những gì viết bằng bút, thì không thể chặt bằng rìu.

Tục ngữ Việt cũng có câu: Lời nói gió bay; Bút sa gà chết.

Sự xuất hiện của chữ viết gắn liền với nhu cầu của con người từ thời đại xa xưa, khi họ cần phải giao tiếp với người khác và bộ lạc khác ở những nơi xa xôi hoặc cần truyền lại cho thể hệ sau những tư tưởng, kiến thức và kinh nghiệm sản xuất của họ.

Ngày nay, chúng ta có thể nghiên cứu những loại hình chữ viết đầu tiên của nhân loại dựa vào những ký hiệu ghi trên đá, trên bia, trên tường những hầm mộ v.v… và dựa vào chữ viết của những bộ lạc cho đến nay còn dùng những lối chữ cổ.

Ngôn ngữ và chữ viết là hai hệ thống tín hiệu khác nhau. Lý do tồn tại duy nhất của chữ viết là để biểu hiện lời nói và cố định hóa lời nói. Đối tượng của ngữ âm học là mặt âm thanh của từ chứ không phải là hình thức chữ viết của nó. Giữa chữ viết và lời nói thì chữ viết là cái có sau, cái phụ thuộc. Ta có thể so sánh tín hiệu âm thanh như một người thật, còn chữ viết như ảnh chụp của người đó. Chữ viết đôi khi không phản ánh chính xác tín hiệu âm thanh mà lại che mất bộ mặt thật của nó. Chữ viết khi ấy không phải là một trang phục mà là một thứ hóa trang. Vì vậy chúng ta không nên lầm lẫn giữa âm thanh và chữ viết.

2. Các hệ thống chữ viết

Có nhiều hệ thống văn tự được sử dụng trên thế giới, nhưng nhìn chung có những loại chính như sau:

2.1. Loại chữ tượng hình

Trong hệ thống này, người ta dùng những ký hiệu bằng hình vẽ để biểu trưng các thực thể. Ví dụ, một loạt các đường gợn sóng có lẽ tượng trưng cho biển hay một con sông, những phác thảo về người và vật tượng trưng cho người và vật thật. Người ta không có ý định vẽ lên hiện thực một cách nghệ thuật hay một cách chính xác nhưng các hình vẽ phải đủ rõ và đơn giản để có thể nhận ra chúng ngay tức khắc và có thể tái tạo lại chúng khi cần. Tuy nhiên, khi đọc các chuỗi đồ hình, có thể gặp nhiều trường hợp mơ hồ, tối nghĩa và phải giải đoán rất khó khăn. Cùng một chuỗi đồ hình, người ta có thể “đọc” theo nhiều cách khác nhau nếu không biết ngữ cảnh.

Các đồ hình cấu thành hệ thống chữ viết thời xa xưa nhất được tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới, nơi mà các di tích của người cổ xưa được khám phá. Ví dụ chữ viết cổ được tìm thấy ở Ai Cập và Mesopotamia khoảng 3000 năm trước công nguyên và ở Trung Hoa khoảng 1500 năm trước công nguyên.

Ngoài những biểu tượng tượng trưng cho các thực thể và khái niệm có liên quan, trong chữ Ai Cập còn có những ký hiệu biểu hiện một hay một chuỗi phụ âm hoặc biểu hiện sự hạn định về nghĩa của từ v.v…

2.2. Loại chữ ghi ý

Chữ viết ghi ý (hay tượng ý) thường được coi là sự phát triển về sau của lối chữ tượng hình. Trong chữ viết ghi ý, các ký hiệu mang ý nghĩa trừu tượng hay quy ước, không còn cho thấy một sự nối kết bằng hình tượng rõ ràng với hiện thực bên ngoài. Hình thể của một chữ tượng ý có thể thay đổi đến nỗi không còn có thể nhận biết đó vốn là một hình vẽ đại diện cho một đồ vật; và nguồn gốc của nó có thể được mở rộng để bao gồm các khái niệm còn thiếu các dạng hình vẽ rõ ràng. Ví dụ, trong thời kỳ đầu của chữ viết Sumerian, bức tranh vẽ một bầu trời đầy sao mang nghĩa “ban đêm”, “tối”, hay “đen”; một bàn chân sẽ tượng trưng cho nghĩa “đi”, “đứng” và những khái niệm khác cũng giống như thế.

Có người cho rằng chữ viết ghi ý là hệ thống mà trong đó từ được biểu hiện bằng một ký hiệu duy nhất, không liên quan gì đến những âm thanh cấu tạo từ. Ký hiệu này quan hệ với cả từ và do đó cũng gián tiếp có quan hệ với ý niệm mà từ biểu hiện. Vì các ký hiệu chữ viết không phản ánh mặt âm thanh và hình thức ngữ pháp của từ mà chỉ phản ánh mặt ý nghĩa nên những từ đồng âm được biểu hiện bằng những chữ hoàn toàn khác nhau.

Tuy nhiên, trong thực tế rất hiếm có một hệ thống chữ viết ghi ý thuần túy như vậy. Hầu hết các hệ thống được gọi là chữ viết ghi ý thường pha trộn nhiều loại ký hiệu biểu hiện các đơn vị ngôn ngữ khác nhau. Chữ viết Sumerian, Egyptian, Hittite và các chữ viết khác trong giai đoạn đầu đều là những sự pha trộn cách ghi các yếu tố ngôn ngữ. Các ký hiệu trong các hệ thống chữ viết này có thể là những yếu tố tượng ý, những yếu tố tượng hình hoặc đôi khi có thể là những yếu tố biểu âm.

Chữ Hán được nhiều người coi là điển hình cho lối chữ ghi ý (ideographic) và loại biểu trưng (logographic). Nhưng thực ra hệ thống này cũng có sự pha trộn.

Theo truyền thống, chữ Hán được chia làm 6 loại: hình thanh, chỉ sự, hội ý, chuyển chú, giả tá và tượng hình.

Trong 6 loại trên, loại chỉ sự tượng trưng cho các ý trừu tượng và gần nhất với chữ ghi ý. Loại hình thanh bao gồm một yếu tố ghi ý được coi là “gốc” kết hợp với một yếu tố biểu thị âm thanh. Loại hội ý là các chữ kép trong đó các yếu tố có mối quan hệ về ngữ nghĩa. Loại chuyển chú là loại chữ lược cấu tạo bằng cách cải sửa hình dạng của một chữ để tạo thành chữ khác có ý nghĩa liên quan. Loại giả tá là các chữ được mượn từ các chữ có phát âm tương tự. Loại tượng hình là những chữ còn có mối quan hệ gần gũi với các hình vẽ gốc.

2.3. Loại chữ ghi âm

Loại chữ này nhằm tái hiện chuỗi âm thanh nối tiếp nhau trong từ. Các hệ thống chữ viết ngữ âm học có thể ghi âm tiết hay âm tố.

+ Chữ ghi âm tiết: Mỗi ký hiệu ghi một âm tiết, thường là một cặp phụ âm –nguyên âm. Hệ thống chữ ghi âm tiết cổ nhất được tìm thấy ở Cyprus, nơi mà nó được dùng từ khoảng thế kỷ 6 đến thế kỷ 3 trước công nguyên.

Hệ thống chữ viết kana của Nhật gồm hai hệ thống được dùng cho những mục đích khác nhau là hiragana và katakana cũng được coi là chữ ghi âm tiết; mỗi hệ thống gồm có 75 ký tự (graphemes), mỗi ký tự dùng để biểu thị một âm tiết như [ka], [ga], [sho], [go]… Tuy nhiên, trên thực tế, chữ Nhật là hệ thống hỗn hợp ghi ý và âm tiết: danh từ, thân từ của động từ và tính từ, thường được ghi bằng chữ ghi ý (kanji) bắt nguồn từ chữ ghi ý của Trung Quốc, còn các hậu tố, đuôi từ… được ghi bằng chữ hiragana. Chẳng hạn, từ (cao, đắt) có 3 âm tiết là ta–ka–i; thân từ taka– được ghi bằng chữ ghi ý, còn đuôi tính từ được ghi bằng chữ ghi âm tiết hiragana.

+ Chữ ghi âm tố (hay hệ thống chữ cái):

Trong hệ thống này, mỗi ký hiệu ghi một âm tố (hay âm vị). Hệ thống chữ viết này rất tiết kiệm vì nó chỉ cần một số tương đối ít các ký hiệu để biểu thị vỏ âm thanh của ngôn ngữ. Đa số các hệ thống có khoảng từ 20 đến 30 chữ cái. Hệ thống chữ cái nhỏ nhất có thể là chữ Rotakas, được sử dụng ở quần đảo Solomon, có 11 chữ cái. Hệ thống lớn nhất là chữ Khmer, có 74 chữ cái.

Một hệ thống chữ viết ghi âm lý tưởng là hệ thống mà mỗi chữ cái ghi một âm vị. Tuy nhiên, hầu hết các hệ thống chữ cái được sử dụng hiện nay không đáp ứng được tiêu chuẩn này ở một mức độ nào đó, hoặc là do hệ thống chữ viết không theo kịp những thay đổi về phát âm, hoặc là vì ngôn ngữ đó đang dùng một hệ thống chữ cái vốn không phải viết ra cho nó. Ví dụ, hệ thống chữ viết Tây Ban Nha và Phần Lan có sự tương ứng cao giữa âm và chữ, trong khi chữ viết của tiếng Anh và tiếng Xen–tơ (Gaelic) không có được. Vì thiếu sự tương đương giữa chữ cái và âm vị nên nhiều từ tiếng Anh “viết một đường, đọc một nẻo” và người ta phải đưa ra những luật đánh vần độc đoán, bắt buộc trẻ em phải học.

Cũng có nhiều hệ thống chữ cái mà trong đó chỉ có một số âm vị được miêu tả bằng ký tự. Đó là những hệ thống chữ cái “phụ âm”, như Aramaic, Hebrew và Arabicl (Ả Rập). Trong các hệ thống này, việc ghi dấu các nguyên âm không bắt buộc. Còn trong các hệ thống chữ cái Ấn Độ, nguyên âm được biểu thị bằng những dấu phụ bắt buộc và được ghi liền sát vào các phụ âm.

Hệ thống chữ cái được biết đến lâu đời nhất có lẽ là hệ thống Bắc Semitic. Nó phát triển khoảng năm 1.700 trước công nguyên ở Palestine và Syria, gồm 22 chữ cái biểu thị phụ âm. Hệ thống chữ cái của ngôn ngữ Hebrew, Arabic và Phoenician dựa trên nền tảng của mẫu chữ này. Sau đó, khoảng năm 1.000 trước công nguyên, hệ thống chữ cái Phoenician được người Hy Lạp sử dụng như là một hệ thống mẫu và họ thêm chữ cho nguyên âm. Đến lượt nó, chữ Hy Lạp lại trở thành mẫu cho một số hệ thống chữ viết khác và từ đó cũng xuất hiện hệ thống chữ cái La Mã cổ đại, và cuối cùng là tất cả các hệ thống chữ cái phương Tây.

1. Sự ra đời của chữ quốc ngữ

Nước ta từ lâu vẫn dùng chữ Hán và chữ Nôm. Sau khi người Pháp thiết lập nền đô hộ ở Việt Nam thì những thứ chữ viết nói trên được thay bằng một hệ thống chữ viết Latin hoá gọi là chữ quốc ngữ.

Chữ quốc ngữ ra đời cách đây hơn 3 thế kỷ. Đó là công trình sáng tạo tập thể của một nhóm cố đạo người Âu cộng tác cùng với một số người Việt. Người để lại nhiều tác phẩm có giá trị trong giai đoạn đầu của chữ quốc ngữ là Alexandre de Rhodes. Đáng chú ý là quyển Từ điển Việt – Bồ – La xuất bản năm 1651 (biên soạn dựa trên hai cuốn Từ vựng Việt – Bồ của Gaspar de Amiral và Từ vựng Bồ – Việt của Antonio de Barbosa). Trong giai đoạn đầu, chữ quốc ngữ chỉ được dùng một cách hạn chế trong phạm vi của các nhà truyền giáo và các giáo dân Thiên chúa giáo. Về sau, khi thực dân Pháp đặt ách thống trị ở Việt Nam, thì chữ quốc ngữ đã trở thành văn tự chính thức, được sử dụng ngày càng rộng rãi.

Theo Hoàng Phê (1961), tên gọi “chữ quốc ngữ” được người Pháp dùng và ghi trong một nghị định của một viên thống đốc Nam Kỳ ngày 06–04–1878 về việc dùng thứ chữ mới ở Việt Nam. Đây có thể là một tài liệu xưa nhất có đề cập đến tên gọi “chữ quốc ngữ”. Sách Chánh tả Việt ngữ (Lê Ngọc Trụ, 1972) cũng nói đến nghị định này và một nghị định nữa ký ngày 30–01–1882 của thống đốc Le Myre de Vilers về việc công nhận chữ quốc ngữ và bắt buộc dùng trong các công văn thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm.

2. Đặc điểm của chữ quốc ngữ

Chữ quốc ngữ là một lối chữ ghi âm, dựa trên hệ thống chữ cái Latin. Nó dùng những ký hiệu (tức những con chữ, mượn từ chữ cái Latin, có thêm những dấu phụ) để ghi những âm vị, âm tố và các thanh điệu tiếng Việt. Chữ quốc ngữ về căn bản khác với chữ Hán và chữ Nôm. Chữ Hán là một lối chữ ghi ý. Còn chữ Nôm của Việt Nam trước đây, được xây dựng dựa trên cơ sở chữ Hán, về căn bản cũng là một lối chữ ghi ý.

So với chữ Nôm, chữ quốc ngữ có ưu điểm rất lớn vì nó là lối chữ ghi âm rất giản tiện, chỉ cần dùng vài chục ký hiệu (con chữ) là có thể biểu hiện được hệ thống âm thanh của tiếng Việt.

So với các hệ thống chữ ghi âm khác như chữ Anh, chữ Pháp thì chữ quốc ngữ là một hệ thống chữ viết “còn trẻ”, mới được dùng phổ biến hơn một thế kỷ nay, nên giữa chữ và âm tương đối có sự phù hợp.

Nguyên tắc chính tả cơ bản của chữ quốc ngữ là nguyên tắc ngữ âm học, có nghĩa là “phát âm thế nào thì viết thế ấy”, nên có sự tương ứng khá lớn giữa chữ viết và phát âm.

3. Những bất hợp lý của chữ quốc ngữ và nguồn gốc của những sự bất hợp lý ấy

Chữ quốc ngữ ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Ban đầu nó là công cụ để các nhà truyền giáo châu Âu học tập, nghiên cứu tiếng Việt nhằm mục đích truyền đạo. Nó đã được sáng chế trên cơ sở các lối chữ Roman như chữ Latin, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp… Tuy có ưu điểm là giản tiện nhưng chữ quốc ngữ chưa phải là một lối chữ ghi âm hoàn thiện. Có thể nêu ra một số nguyên nhân của tình trạng bất hợp lý trong chữ quốc ngữ như sau:

a. Chữ quốc ngữ đã thừa kế một số những bất hợp lý của các lối chữ Roman.

Ví dụ, trong chữ quốc ngữ, các con chữ c, g chỉ dùng trước a, o, u (và ă â ô ơ u) bởi vì trong các tiếng Roman, các con chữ ấy chỉ giữ nguyên các âm nguyên thủy của chúng ở vị trí đó mà thôi. Vì vậy, trong chữ quốc ngữ, không dùng g trước i, ê, e mà dùng gh (giống chữ Ý); đồng thời không dùng c trước i, ê, e, nhưng lại cũng không dùng ch thay cho c như trong chữ Ý vì ch trong chữ quốc ngữ đã dùng để ghi một phụ âm tắc ch (giống chữ Bồ Đào Nha). Vì vậy, trước i, ê, e,… phải dùng con chữ k, là con chữ dùng trong chữ Hi Lạp (Hoàng Phê, 1960).

b. Chữ quốc ngữ dùng các chữ cái Latin. Chữ Latin thông dụng trên thế giới và có nhiều tiện lợi nhưng số ký hiệu của chữ cái Latin là có hạn, chỉ có 25 con chữ là:

A B C D E F C H I J K L M N O P Q R S T U V X Y Z

Chữ Latin không có ký hiệu ghi thanh điệu. Trong khi đó, hệ thống ngữ âm tiếng Việt có đến trên 30 âm vị (hơn 10 nguyên âm và hơn 20 phụ âm) và 6 thanh điệu. Vì thế bộ chữ cái Latin không có đủ ký hiệu để ghi âm tiếng Việt. Những người sáng chế ra chữ quốc ngữ đã phải dùng nhiều con chữ ghép dựa theo các chữ ghép trong chữ Bồ Đào Nha, Hi Lạp, Pháp, Ý… Chẳng hạn chữ ch và nh đọc như chữ Bồ Đào Nha, chữ gh và gi đọc như chữ Ý, chữ ng đọc như chữ Pháp; các dấu sắc, huyền, ngã, nặng giống chữ Hi Lạp; ngoài ra chữ quốc ngữ đã dùng một số con chữ mới (như ơ, ư, â,…)

c. Chữ quốc ngữ do một số người nước ngoài đặt ra trước đây hơn 3 thế kỷ, trong một thời kỳ mà khoa học về ngôn ngữ chưa phát triển và hầu như chưa có sự nghiên cứu tiếng Việt về mặt ngữ âm. Kết cấu âm tiết tiếng Việt lại có nhiều điểm đặc biệt, khác hơn với các ngôn ngữ Châu Âu. Như vậy, chữ quốc ngữ là một lối chữ ghi âm nhưng lại được xây dựng trên cơ sở một sự nghiên cứu chưa đầy đủ về ngữ âm tiếng Việt, vì thế nó không tránh khỏi một số điểm bất hợp lý.

d. Chữ quốc ngữ, mặc dù đã rất khác so với cách ghi ban đầu trong từ điển Việt – Bồ – La (1651), nhưng từ hơn một thế kỷ nay về căn bản không thay đổi. Trong khi đó, tiếng Việt từ một thế kỷ nay lại phát triển hết sức mạnh mẽ do sự biến đổi và phát triển của xã hội trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và khoa học trong sự tiếp xúc rộng rãi với các ngoại ngữ khác, v.v… Như vậy, tiếng Việt đã có nhiều thay đổi nhưng chữ quốc ngữ lại căn bản giữ nguyên. Sự mâu thuẫn này gây ra thêm một số bất hợp lý trong chữ quốc ngữ.

Những điểm bất hợp lý của chữ quốc ngữ, chúng ta sẽ phân tích kỹ trong phần chính tả.



1. Các nguyên tắc chính tả cơ bản

Nếu như bảng chữ cái được tạo thành theo nguyên tắc số lượng chữ cái tương ứng với số lượng âm vị của ngôn ngữ thì vấn đề chính tả đã được giải quyết một nửa. Nhưng vì không có một bảng chữ cái lý tưởng và vì chữ viết có tính lịch sử, phản ánh nhiều khuynh hướng khác nhau nên việc sử dụng bảng chữ cái vào chữ viết thường dựa trên những nguyên tắc chính tả nhất định.

Như vậy chính tả là toàn bộ những tiêu chuẩn về những qui luật thực hành chữ viết, bao gồm:

1. Những luật dùng các con chữ của bảng chữ cái để viết các từ.

2. Luật viết các từ độc lập với những chữ cái khi viết chúng.

Ví dụ: Cách dùng các dấu câu, cách viết hoa, tên người, tên đất…

Chuẩn mực của cách viết thường tuân theo những nguyên tắc khác nhau.

– Đối với luật chính tả liên quan đến việc sử dụng các con chữ của bảng chữ cái ghi âm, có thể kể đến các nguyên tắc cơ bản sau đây:

+ Nguyên tắc âm vị học

+ Nguyên tắc ngữ âm học

+ Nguyên tắc từ nguyên

a. Nguyên tắc âm vị học của chữ viết: theo nguyên tắc này mỗi một âm vị được thể hiện bằng một chữ cái, không phụ thuộc vào vị trí của nó trong các từ và tổ hợp từ.

Ví dụ: Chữ cái a ghi âm / a / trong các từ ta, tan, a, ha… (So sánh với cách ghi âm vị / ie / trong các từ tia, tiên, tuyết, khuya).

b. Ngược lại, theo nguyên tắc ngữ âm học của chữ viết, chữ cái phản ánh phát âm của âm vị ở những vị trí hay bối cảnh khác nhau. Ví dụ: cách viết âm đệm / –u– / trong các từ hoa hòe và quyền quí.

c. Nguyên tắc từ nguyên (nguyên tắc viết theo lịch sử, truyền thống) tức là phản ánh tên chữ viết không phải trạng thái hiện tại mà trạng thái quá khứ của hệ thống âm thanh. Ví dụ: trong tiếng Việt, chữ gi vốn phản ánh một âm cổ đã mất (hiện nay đã chuyển thành âm / z / trong phát âm tiếng Việt miền Bắc): gia, giành, giấu giếm…

Trong bất kỳ một hệ thống chữ viết nào cũng có thể thấy sự kết hợp các nguyên tắc khác nhau, nhưng mỗi hệ thống chữ viết có những nguyên tắc chủ yếu. Chữ quốc ngữ xây dựng chủ yếu trên nguyên tắc âm vị học và ngữ âm học. Ngược lại, chữ Pháp và chữ Anh chu yếu dùng nguyên tắc từ nguyên, viết theo truyền thống lịch sử.

Ví dụ: Trong tiếng Pháp, từ homme (người) được ghi có chữ h ở đầu từ dù nó h không được phát âm, vì từ này bắt nguồn từ homo của tiếng Latin; còn trong từ oiseau [wazo] (chim), chữ viết không tương ứng với một âm nào cả.

2. Hệ thống ngữ âm tiếng Việt và sự thể hiện trên chữ viết

2.1. Hệ thống âm đầu tiếng Việt và sự thể hiện của các âm đầu trên chữ viết

+ Trên chữ viết, đa số các âm vị phụ âm đầu được thể hiện bằng một con chữ. Có 10 âm vị được thể hiện bằng một con chữ:


Âm vị Con chữ Âm vị Con chữ
1. /b/ b 6. /n/ n
2. /m/ m 7. /s/ x
3. /v/ v 8. /l/ l
4. /t/ t 9. /t/ h
5. /d/ d 10. /h/ h

+ Có 9 âm vị được thể hiện bằng cách ghép hai con chữ:


Âm vị Con chữ Âm vị Con chữ
1. /f/ ph 6. /n/ nh
2.
/th/
th 7. // ng
3. /t/ tr 8. /x/ kh
4. /z/ gi 9. // gh
5. /c/ ch

+ Trong chữ quốc ngữ có một trường hợp trong đó một âm vị được thể hiện bằng cách ghép 3 con chữ, đó là âm vị [  ]khi đứng trước các nguyên âm dòng trước / i, e, , ie / được ghi bằng “ngh”. Ví dụ: nghi, nghe, nghề nghiệp.

+ Có 5 âm vị được ghi không thống nhất (tức là được ghi bằng 2, 3 cách khác nhau). Đó là:

– Âm vị / k / được ghi bằng “k” khi đứng trước / i, e, , ie /, ví dụ: kí, kể, kẻ, kiệt; được ghi bằng “q” khi đứng trước bán nguyên âm /–u–/, ví dụ: qua, quăn, quí, quyết, được ghi bằng “c” trong những trường hợp còn lại, ví dụ: cá, cắn, câu, cơm, cực, cong, cột, cũ.

– Âm vị /  / được ghi bằng “gh” khi đứng trước / i, e, , ie /, ví dụ: ghi, ghế, ghen, ghiền; được ghi bằng “g” trong những trường hợp khác, ví dụ: gà, gặt, gần, gừng, gọn, gỗ, gu.

– Âm vị /  / được ghi bằng “ngh” khi đứng trước / i, e, , ie /, ví dụ: nghỉ, nghề, nghe, nghiện; được ghi bằng “ng” trong những trường hợp khác, ví dụ: nga, ngắn, ngây, ngon, ngôn, ngủ, ngừng.

– Âm vị / z / thường gặp trong phát âm miền Trung, miền Nam và một số thổ ngữ ven biển miền Bắc, được ghi bàng “r”. Ví dụ: rực rỡ, rộng rãi. Ở một vài thổ ngữ còn giữ lại những âm cổ hoặc ở cách phát âm của một số người già, chữ “gi” cũng được phát âm là / z /.

– Âm vị / z / trong phát âm Hà Nội và các thổ ngữ miền Bắc tương ứng với các con chữ “d”, ”gi”. Ví dụ: dữ dội, giành giật.

Về cách ghi “d” và “gi” để biểu hiện cùng một âm / z / trong các từ cụ thể, không thể đưa ra qui luật chính tả mà phải dựa vào nguyên tắc từ nguyên, tức ghi theo truyền thống lịch sử. (Trước đây, khi chữ quốc ngữ mới hình thành, những từ được ghi bằng “d” vốn được phát âm khác với những từ được ghi bằng “gi”).

Nguyên nhân chủ yếu của cách ghi không thống nhất trong chính tả trong các trường hợp: g – gh; ng – ngh, c – k – q là do các cố đạo người châu Âu khi sáng tạo chữ quốc ngữ đã thừa kế những cách ghi bất hợp lý của các lối chữ Roman. Ví dụ: Chữ “g” được dùng để ghi âm vị /  / nhưng khi đứng trước i, ê, e, iê thì con chữ này không giữ được giá trị ấy nữa; vì theo truyền thống văn tự quen thuộc của họ, nếu viết gi, gê, ge thì sẽ được đọc là: [ zi, ze, z ]. Vì vậy phải chuyển thành “ghi, ghê, ghe” (như chữ Ý).

Cũng tương tự như vậy, chữ “c” trong đa số trường hợp dùng để ghi âm vị / k /, nhưng khi gặp nếu ghi “ci, cê, ce”, các giáo sĩ phương Tây quen đọc là [ si, se, se ], vì vậy phải dùng “k” thay cho “c”.

Còn việc dùng chữ “q” để ghi âm / k / là do chữ quốc ngữ ra đời trong tình trạng ngành ngữ âm học và âm vị học chưa phát triển nên khi âm / k / đứng trước âm đệm /–u–/ và bị tròn môi, các giáo sĩ đã dùng một con chữ khác để ghi âm này (theo chữ Latin).

+ Trong hệ thống âm đầu tiếng Việt có một số tác giả cho rằng ở trước các âm tiết như: anh, ăn, uống, ưa v.v… có âm vị tắc thanh hầu / ? / mà trên chữ viết không biểu hiện bằng con chữ nào.

Tóm lại, có thể trình bày tóm tắt sự tương ứng giữa các âm vị phụ âm đầu và các chữ cái như sau:


Số thứ tự Âm vị Con chữ Số thứ tự Âm vị Con chữ
1. /b/ b 12. /t/ tr
2. /m/ m 13. /s/ s
3. /f/ ph 14. /z/ r
4. /v/ v 15. /c/ ch
5.
/th/
th 16. /n/ nh
6. /t/ t 17. /k/ c, k, q
7. /d/ đ 18. /n/ ng, ngh
8. /n/ n 19. /x/ kh
9. /s/ x 20. /y/ g, gh
10. /z/ d, gi 21. /c/ khuyết
11. /l/ l 22. /h/ h

2.3. Hệ thống âm chính tiếng Việt và sự biểu hiện trên chữ viết

+ Hệ thống âm thính tiếng Việt dựa trên cách phát âm Hà Nội bao gồm:

– 9 nguyên âm dài: / i, w, u, e, , o, , a, o)

– 2 nguyên âm ngắn: / ă,  /

– 3 nguyên âm đôi: / ie, w, uo /

+ Cần chú ý tới cách thể hiện trên chữ viết của một số nguyên âm sau:

a. Các nguyên âm đôi được thể hiện trên chữ viết bằng nhiều cách khác nhau phụ thuộc vào loại hình âm tiết và sự kết hợp của nguyên âm đôi với âm đệm / –u– /.

+ Âm vị / ie / được ghi bằng “ia” hoặc “ya” trong âm tiết mở, ví di: mía, tia, chia, lìa và khuya và /ie/ được ghi bằng “iê” hoặc “yê” trong các loại hình âm tiết khác. (Ví dụ: âm tiết nửa mở: liêu, chiều, âm tiết nửa khép: tiến, niềm, nghiêng, âm tiết khép: tiếp biết, việc).

Khi có âm đệm /u–/ đứng trước, nguyên âm đôi /ie/ được viết thành “ya” hoặc “yê”. Ví dụ: khuya, quyên.

+ Âm vị /uo/ được ghi bằng “ua” trong âm tiết mở và ghi bằng “uô” trong các loại hình âm tiết khác. Ví dụ: mùa, lúa, buồn, thuộc.

+ Âm vị /w/ được ghi bằng “ưa” trong âm tiết mở và ghi bằng “ươ” trong các loại hình âm tiết khác. Ví dụ: lửa, mưa, thương, lượt,…

Rõ ràng là cách thể hiện của các nguyên âm đôi trên chữ viết tuân theo nguyên tắc ngữ âm học chứ không phải theo nguyên tắc âm vị học. Các nhà sáng tạo chữ quốc ngữ đã ghi các biến thể vị trí của các nguyên âm đôi.

b. Các nguyên âm ngắn:

+ Âm vị là // được ghi bằng chữ “â” trong mọi trường hợp

+ Âm vị /ă/ được ghi bằng “a” khi kết hợp với các bán nguyên âm làm âm cuối. Ví dụ: tay, may, sau, cháu.

Các trường hợp còn lại âm vị /ă/ được thể hiện bằng con chữ “ă”. Ví dụ: ăn, tặng, mắt.

(Theo một số tác giả, trong tiếng Việt còn có 2 nguyên âm ngân nữa là /c/ và //. Âm vị / c / chỉ xuất hiện trước các âm cuối /  / và / k / và được ghi bằng chữ “o”. Ví dụ: xong, móc, sóc (so sánh với nguyên âm / c / dài được ghi bằng “oo” trong các từ như: xoong, moóc, soóc). Còn âm vị // chỉ xuất hiện trước các biến thể ngạc hoá của các âm cuối //, /k/ đó là [n] và [c]. Ví dụ: sách, mách, anh, bánh…)

c. Các nguyên âm dài: Sự biểu hiện các âm vị nguyên âm đơn dài / e, , w, , a, u / trên chữ viết thường tuân theo nguyên tắc tương ứng một đối một. Riêng các nguyên âm / i /, được ghi thành 2 con chữ:

+ Âm vị / i / được ghi bằng “i” hoặc “y”. Thường ghi thành “y” khi nguyên âm này đứng sau âm đệm (ví dụ: tuy, thủy), hoặc đứng một mình (như: y sĩ, ý kiến). Các trường hợp còn lại thường ghi là “i”. Một vài trường hợp có thể tùy tiện ghi thành “i” hay “y” như: Mỵ nương hay Mị nương quý hay quí.

+ Âm vị / o / thường được ghi là “ô”, trừ khi đứng trước hai âm cuối / –, –k / có thể được ghi thành “ôô” (khi ghi biến thể dài phân biệt với biến thể ngắn). Ví dụ: cô, bông, lộc, so sánh với bôông bôông (tiếng cồng).

+ Âm vị /c/ thường ghi là “o”, trừ khi đứng trước hai âm cuối / –, –k / phải ghi là “oo” để phân biệt với biến thể ngắn [  ]. Ví dụ: cò, còi, lòng, tóc, so sánh với quần soóc, rơ–moóc.

Có thể tóm tắt sự thể hiện bằng chữ viết của tất cả cái nguyên âm (âm chính) tiếng Việt trong bảng sau:

Bảng đối chiếu các âm vị nguyên âm và chữ cái


Âm vị Chữ cái Âm vị Chữ cái
1 /i/ i, y 8 /o/ ô, ô ô
2 /e/ ê 9 /c/ o, oo
3 // e, a 10 // â
4 /w/ ư 11 /ă/ ă, a
5 // ơ 12 /ie/ iê, ia, yê, ya
6 /a/ a 13 /uo/ uô, ua
7 /u/ u 14 /w/ ươ, ưa

2.4. Hệ thống âm cuối tiếng Việt và sự thể hiện các âm vị âm cuối trên chữ viết

Tiếng Việt có 8 âm vị âm cuối bao gồm:

– Các phụ âm ồn: –p, –t, –k

– Các phụ âm vang: –m, –n, –

– Các bán nguyên âm cuối: –u, –i

Trên chữ viết, mỗi âm cuối / –p, –t, –m, –n / được thể hiện bằng một con chữ tương ứng. Các âm cuối / –, –k / và các bán âm cuối /–u, –i / thể hiện trên chữ viết phức tạp hơn.

+ Phụ âm cuối /–/ được ghi bằng “nh” khi đứng sau các nguyên âm / i, e,  /. Ví dụ: minh, mênh, manh. Trong các trường hợp khác, phụ âm cuối này được ghi bằng “ng”. Ví dụ: mang, vâng, hồng, xuống.

+ Phụ âm cuối /–k/ được ghi bằng “ch” khi đứng sau các nguyên âm /i,e/. Ví dụ: dịch, chệch, sạch. Trong các trường hợp khác phụ âm cuối /–k/ được ghi bằng “c”. Ví dụ: lạc, tấc, bực, cuốc.

+ Bán nguyên âm cuối /–u/ được ghi bằng chữ “o” khi đứng sau các nguyên âm đơn dài, ở bậc thanh lượng lớn. Ví dụ: mèo, cao. Cách viết này biểu hiện sự biến dạng của bán âm /–u–/ sau các âm rộng. Trong các trường hợp còn lại, bán nguyên âm này được ghi bằng chữ “u”. Ví dụ: líu ríu, kêu, mưu, nhiều, hươu, đau đầu.

+ Bán nguyên âm cuối /–i/ được ghi bằng chữ “y” khi đứng sau các nguyên âm ngắn /ă, /. Ví dụ: tay, cây. Trong các trường hợp khác nó được ghi bằng “i”. Ví dụ: mai, tới, vui, cuối, chửi.

Tóm lại, sự thể hiện của hệ thống âm cuối tiếng Việt trên chữ viết có thể trình bày trong bảng sau:

Bảng đối chiếu các âm vị âm cuối và chữ cái


Phụ âm cuối Âm vị Chữ cái
/–p/ p
/–t/ t
/–k/ c, ch
/–m/ m
/–n/ n
/–/ ng, nh
Bán nguyên âm cuối /–u/ u, o
/–i/ i, y

BÀI TẬP

58. Phân tích sự thể hiện 3 nguyên tắc âm vị học, nguyên tắc ngữ âm học và nguyên tắc từ nguyên trong chính tả tiếng Việt.

2.5. Hệ thống thanh điệu và qui tắc bỏ dấu thanh

+ Để ghi thanh, người ta dùng các dấu phụ trên hoặc dưới các nguyên âm chính của một âm tiết. Tiếng Việt có 6 thanh điệu. Mỗi âm tiếng Việt bao giờ cũng được đọc với một độ cao và một đường nét âm điệu nhất định.

+ Trong tiếng Việt có 3 nguyên tắc bỏ dấu thanh sau đây:

a. Nguyên tắc khoa học: dấu thanh đặt ở âm chính của vần, tức là đặt trên hoặc dưới nguyên âm có vai trò quyết định âm sắc chủ yếu của âm tiết.

Ví dụ: thuỷ, hoá, khoẻ.

b. Nguyên tắc thẩm mỹ (nguyên tắc thứ yếu): dấu thanh đặt ở vị trí cân đối trong âm tiết. Nguyên tắc này trước đây hay dùng (ví dụ: thủy, hóa, khỏe), nhưng hiện nay trong một số trường hợp nó được thay bằng nguyên tắc khoa học. Có một số trường hợp nếu đặt dấu thanh sai sẽ làm cho phát âm không đúng và hiểu sai nghĩa từ. So sánh: giạ lúa và giặt gịa.

c. Nguyên tắc thực dụng: để tiện việc in ấn, dấu thanh thường được đặt vào một con chữ nguyên âm chứ không đặt ở giữa hai con chữ.

+ Các trường hợp bỏ dấu thanh cụ thể như sau:

(a) Nếu âm chính là một nguyên âm đơn thì dấu thanh luôn luôn được ghi ở trên hoặc ở dưới âm chính.

Ví dụ:


– Trong âm tiết không có âm đệm và bán nguyên âm cuối:

à, bà, bán, bánh, đắt, thật

– Trong âm tiết có âm đệm hoặc có bán nguyên âm cuối:

oà, huệ, hoá, khoẻ, quạnh, hoặc, quít

ái, lại, lấy, cửi, sáo, màu, nếu

– Trong âm tiết có cả âm đệm và bán nguyên âm cuối:

ngoài, hoại, ngoèo, khuỷu

(b) Nếu âm chính là một nguyên âm đôi thì tùy trường hợp có thể bỏ dấu thanh ở yếu tố thứ nhất hoặc yếu tố thứ hai của âm chính.

Ví dụ:

– Bỏ dấu thanh ở yếu tố đầu (khi không có âm cuối):

mía, nghĩa, thừa mứa, lụa, múa

– Bỏ dấu thanh ở yếu tố thứ hai (khi có âm cuối):

tiếng Việt, chuyển, hiện tượng, được, tuồng, dưới

Cách viết này dựa trên nguyên tắc thẩm mỹ, nhằm bỏ dấu thanh ở vị trí cân đối trong âm tiết.

BÀI TẬP

59. Phân biệt các âm chính, qui định âm sắc chủ yếu của âm tiết với các bán nguyên âm. Trong các từ sau: qua, cua, húi, húy, huyết.


Do có nhiều từ tiếng Việt mà hiện nay chính tả chưa thống nhất và cách viết tên riêng, đặc biệt là tên riêng nước ngoài còn nhiều cách phiên âm khác nhau gây không ít khó khăn trong việc giao tiếp thông tin, vì vậy chúng ta cần tuân theo những qui định chung về chính tả do Hội đồng chuẩn hóa chính tả và thuật ngữ của Nhà nước ban hành.

1. Về những từ tiếng Việt mà hiện nay chính tả chưa thông nhất

Có những qui định như sau:

a. Khi thói quen đã làm cho mặt ngữ âm của từ biến đổi và ít nhiều có khác với từ nguyên (gốc Việt hoặc gốc Hán) thì phải căn cứ vào ngữ âm của thói quen mới để xác định chuẩn chính tả; bởi vì thói quen của đại đa số nhân dân là một tiêu chí có nghĩa quyết định.

Thí dụ:


Chỏng gọng (so sánh chổng gọng)

Đại bàng (so sánh đại bằng)

b. Khi thói quen chưa làm xác định rõ một hình thức ngữ âm nào có tính chất ổn định thì nên dựa theo tiêu chí về từ nguyên để xác định chuẩn chính tả.

Thí dụ: trí mạng (so sánh chí mạng)

c. Khi trong thực tế đang tồn tại hai hình thức chính tả mà chưa xác định được một chuẩn duy nhất thì có thể chấp nhận cả hai hình thức đó.

Thí dụ: eo sèo / eo xèo; sứ mạng / sứ mệnh

(so sánh: viết định mệnh chứ không viết định mạng, và ngược lại, cách mạng chứ không viết cách mệnh).

d. Trường hợp các âm tiết có nguyên âm / i / ở cuối thì viết thống nhất bằng i. Ví dụ: kì dị, lí trí, mĩ vị… Nếu có âm đệm /u–/ đứng trước thì viết bằng con chữ “y”. Ví dụ: uy, duy, tuy, quy,…

Chú ý: i hay y đứng một mình hay đứng đầu âm tiết vẫn viết theo thói quen cũ, như: ý nghĩa, y tế, ỉ eo, ầm ĩ, im, yêu.

2. Vấn đề tên riêng

Tên riêng là một hệ thống cần được tách biệt với hệ thống các từ ngữ khác. Chức năng của tên riêng là bảo đảm sự liên hệ, không gây nhầm lẫn với cá nhân, cá thể, đơn vị mang tên đó.

2.1. Cách viết tên riêng tiếng Việt

a. Tên người và tên nơi chốn: viết hoa tất cả các âm tiết, không dùng gạch nối.

Thí dụ: Trấn Quốc Toản, Quang Trung, Hà Nội, Vũng Tàu.

b. Tên tổ chức, cơ quan: chỉ viết hoa âm tiết đầu trong tổ hợp từ dùng làm tên.

Thí dụ: Đảng cộng sản Việt Nam, Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Bộ ngoại giao.

Ghi chú:

– Các từ chỉ phương hướng (đông, tây, v.v…) chỉ viết hoa khi dùng trong tên riêng địa lý. Thí dụ: miền tây của Tây Đức, biển Đông.

– Những từ vốn là tên địa lý, nếu đã mất tính chất tên riêng thì không viết hoa, thí dụ: mực tàu, cá rô phi, dừa xiêm.

2.2. Cách viết tên riêng không phải tiếng Việt

a. Nếu chữ viết nguyên ngữ dùng chữ cái Latin, thì giữ nguyên dạng trên chữ viết (kể cả các chữ cái f, j, w, z) như trong nguyên ngữ; chữ lược bớt dấu phụ, nếu có như có.

Thí dụ: Shakespeare, Paris, Petofi (Petofi: lược dấu phụ ở chữ cái o).

b. Nếu chữ viết nguyên ngữ dùng một hệ thống chữ cái khác thì áp dụng lối chuyển tự chính thức sang chữ cái Latin.

Thí dụ: Lomonosov, Moskva, Maiakovski (theo lối chuyển tự chính thức của Liên xô cũ).

c. Nếu chữ viết nguyên ngữ không phải là chữ viết dùng chữ cái, thì dùng một cách phiên âm chính thức bằng chữ cái Latin (thường là cách phiên âm đã được phổ biến trên thế giới).

Thí dụ: Tokyo, Osaka, Hiroshima

d. Trong trường hợp thực tiễn sử dụng rộng rãi trên thế giới đã quen dùng một tên riêng viết bằng chữ cái Latin mà có khác với nguyên ngữ (thường là tên nước, tên thành phố) thì dùng hình thức tên riêng phổ biến đó.

Thí dụ: Hungary (trong nguyên ngữ là Magvarorszag); Bangkok (trong nguyên ngữ là Krung Thep hoặc Krung Pattannakosin).

Ghi chú:

– Một số tên riêng, nhất là tên nước và tên người (lịch sử) đã quen dùng từ lâu thì nói chung giữ nguyên. Thí dụ: Anh, Pháp, Đức Trung Quốc, Thích Ca, Liễu Thăng, Lỗ Tấn,…

– Đôi khi ta cũng có thể chấp nhận hai hình thức khác nhau như La Mã và Roma.

– Những tên riêng được dùng phổ biến ở nhiều nước thì theo cách viết phổ biến đó. Thí dụ: Gengis Khan (thay cho Thành Cát Tư Hãn), Alexandre đại đế (thay cho A Lịch Sơn đại đế).

– Tên riêng trong các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở nước ta cũng viết theo các qui định trên đây. Thí dụ: Dak Lak, Ea Hleo,…

e. Nếu những tên riêng hay bộ phận của tên riêng (thường là địa danh) có nghĩa và thường được dịch nghĩa thì ta cũng dịch nghĩa (trong trường hợp này không có một hình thức nào có tính quốc tế) Thí dụ: Biển Đen, Guinea xích đạo.

Đối với tên sông, núi thuộc nhiều nước (và do đó có những tên khác nhau trong những ngôn ngữ khác nhau) thì dùng hình thức tương đối phổ biến trên thế giới, nhưng trong những văn bản nhất định, có thể dùng hình thức địa phương.

Thí dụ: Sông Danube có thể tùy văn cảnh được dùng dưới những dạng khác nhau: Donau (Đức), Duna (Hungary), Dunares (Rumani), Dnepro (Ucraina).

Sông Mekong có thể tuỳ văn cảnh được dùng là Mekong (Lào, Campuchia), Cửu Long (Việt Nam). (Xin xem Chuẩn hoá thuật ngữ và chính tả, 1983).




Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 8


Chú thích các thuật ngữ trong Bảng phụ âm

IPA : International Phonetic Association

Pulmonic : âm cấu tạo khi luồng không khí từ phổi đi ra

Non–pulmonic : âm hút

Consonants : các phụ âm

Bilabial : (phụ âm) môi-môi

Lablodental : (phụ âm) môi-răng

Dental : (phụ âm) răng

Alveolar : (phụ âm) lợi

Postalveolar : (phụ âm) sau lợi

Retroflex : (phụ âm) quặt lưỡi, cong lưỡi

Palatal : (phụ âm) ngạc

Velar : (phụ âm) mạc

Uvular : (phụ âm) lưỡi con

Pharyngeal : (phụ âm) yết hầu

Glottal : (phụ âm) thanh hầu

Plosive : (phụ âm) tắc

Nasal : (phụ âm) mũi

Trill : (phụ âm) rung

Tap or flap : (phụ âm) vỗ

Fricative : (phụ âm) xát

Lat. Fric. : (phụ âm) xát bên

Approx. : (phụ âm) xát, vang

Lat. Approx. : (phụ âm) xát bên, vang

Voiceless labal–velar fric. : (phụ âm) xát, môi-mạt, vô thanh

Voiced labal–velar approx. : (phụ âm) xát, môi-mạt, hữu thanh

Voiced labal–palatal approx. : (phụ âm) xát, môi-ngạc, hữu thanh

Voicelless epiglottal fricative : (phụ âm) xát, trên thanh hầu, vô thanh

Voiced epiglottal fricative : (phụ âm) xát, trên thanh hầu, hữu thanh

Epiglottal plosive : (phụ âm) tắc, trên thanh hầu

Alveolo–palatal fricatives : (phụ âm) xát, lợi-ngạc

Alveolar lateral flap : (phụ âm) vỗ bên, lợi


Chú thích thuật ngữ trong Bảng những dấu phụ đi kèm

Voiceless : vô thanh

Voiced : hữu thanh

Aspirated : bật hơi

More round : tròn môi hơn

Less round : ít tròn môi hơn

Advanced : nhích về phía trước

Retracted : lui về sau

Centralized : giữa hóa

Mid–centralized : trung hòa, giữa hóa

Syllabic : âm tiết tính

Non–syllabic : phi âm tiết tính

Rhoticity : R hóa (phát âm có r đi sau nguyên âm)

Breath voiced : (phụ âm) phát âm với hơi thở nhẹ

Creaky voiced : (phụ âm) thanh hầu hóa, trầm hóa

Linguolabial : (phụ âm) lưỡi-môi

Vabialized : (phụ âm) môi hóa

Valatalized : (phụ âm) ngạc hóa

Velarized : (phụ âm) mạc hóa

Charyngealized : (phụ âm) yết hầu hóa

Raised : nhích lên trên

Lowered : dịch xuống dưới

Avanced Tongue Root : gốc lưỡi nhích về trước

Retracted Tongue Root : gốc lưỡi lùi về sau

Dental : (phụ âm) răng

Pical : (phụ âm) đầu lưỡi

Aminal : (phụ âm) mặt lưỡi trước

Lasalized : mũi hóa

Lasal release : có âm mũi đi kèm

Ateral release : có âm bên đi kèm


DANH SÁCH CÁC THUẬT NGỮ NGỮ ÂM HỌC

ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG ANH

âm : sound, phone

âm gió : assibliated sound

âm hệ : family of sounds

âm học : acoustics

âm lượng : sonorousness

âm lưỡi sau : back sound

âm lưỡi trước : front sound

âm lướt : glide

âm mạnh : fortis sound

âm nước : liquid

âm đệm : medial

âm điệu : melody

âm điệu lời nói : speech melody

âm điệu đi lên : ascend melodia

âm đoạn : segment

âm đoạn tính (âm vị ~) : segmental (~ phoneme)

âm riêng lẻ : disconected sound

âm sắc : tamber

âm suýt : buzzing sound

âm tắc khép : arresting stop

âm thanh (mặt ~) : phonic (~ aspect)

âm thở : breathed sound

âm tiết : syllable

âm tiết có trọng âm : accented syllable

âm tiết hạt nhân : nucleus-syllable

âm tiết khép : closed syllable

âm tiết mạnh : strong syllable

âm tiết mở : open syllable

âm tiết tính : syllablic

âm tiết yếu : weak syllable

âm tố : sound

âm tố lời nói : speech sound

âm vang mũi : nasal sonant

âm vang tắc : occlusive sonant

âm vị : phoneme

âm vị–âm tiết : syllabo-phoneme

âm vi đoạn tính : segmental phoneme

âm vị học (giải thuyết ~; đơn vị; gánh nặng ~) : phonology; phonemics

âm vị siêu đoạn tính : suprasegmental phoneme

âm vị zêrô : zero phoneme

âm vực : register

âm xuýt : sibilant

Ấn–Âu (các ngôn ngữ ~) : Indo-European (~ language)

ấn tượng thính giác : auditive impression

áp suất : pressure

áp suất không khí : air pressure

bật hơi (sự ~; âm ~) : aspiration; aspirate

bất thường : anomalous

bằng thanh điệu : level (~ tone)

bản chất ngữ âm : phonetic entily

bán nguyên âm : semi-vowel

bán phụ âm : semi-consonant

bảng chữ cái : alphabet

bảng phụ âm : table of consonants

bên (phụ âm ~) : lateral (~ consonant)

biên độ : amplitude

biến thể : variant; allophone

biến thể cá nhân : individual variant

biến thể chính : principal allophone

biến thể của âm vị : phonemic variant

biến thể tự do : facultative allophone; free variant

biệt ngữ : argot

biểu cảm : expressive

biểu đạt (cái ~) : signifying

bít (động tác ~) : closure

bít, tắc : block

bộ máy phát âm : track organs; speech organs

bổ sung (cấu âm ~) : additional (~ articulation)

bối cảnh ngữ âm : phonetic contex

bổng (âm sắc ~) : acute

cần yếu : relevant

cần yếu về âm vị học : phonological relevant

câu : sentence

cấu âm : articulation

cấu âm chính : major articulator

cấu âm đồng chất : homogeneous articulation

cấu âm phụ : minor articulator

cấu âm răng : dental articulation

cấu âm tự động : automatic articulation

câu cảm thán : exclamatory sentence

câu nghi vấn : interrogative sentence

câu nhiều ngữ đoạn : polysyntagmal sentence

cấu trúc; cơ cấu. : structure

cấu trúc phổ : spectrum

căng : tense

cao : high

các khí quan chủ động : active organs of speech

các khí quan thụ động : passive organs

cách viết, đánh vần : spelling

cải cách chữ viết : writing reform

cản trở : obstruct

chậm : slow

chất lượng trung hòa : neutral quality

chặt : close

chính tả : orthography

chỗ ngừng : pause

chỗ ngừng giữa ngữ đoạn : intersyntagmal pause

chỗ tắc : occlusion

chữ cái : letter

chữ cái Latin : Roman alphabet

chữ ghi ý : ideogram

chữ hình nêm : cuneiform writing

chữ hình vẽ, chữ tượng hình : pictographic writing

chữ kép : digraph

chữ viết : writing

chữ viết ghi âm : phonetic writing

chức năng (gánh nặng ~) : function (functional yield)

chức năng ngữ nghĩa : semantic function

chức năng ngữ pháp : grammatic function

chức năng sinh học : biological function

chu kỳ : period

chuẩn hóa : normalize

chuẩn; chuẩn mực : norm, standard

chuỗi âm thanh : sound chain

chùm nét khu biệt : bundle of distinctive features

chùng (phụ âm ~) : laz (~ consonant)

chuyển động sóng âm : wave motion

cơ cấu : structure

cơ quan chủ động : active organ

cơ quan phát âm : organs of speech

cơ sở cấu âm : basic of articulation

cổ (từ ~) : archaic

cộng minh trường : resonantor

cong lưỡi (âm ~) : cacuminal

cường độ : intensity

cứ liệu : data

cụm từ : phrase

cuối (âm ~) : final

dấu hiệu phân đoạn : boundary marker

dấu hiệu, ký hiệu : symbol

dấu phụ : diacritical sign, diacritic(al)

dây thần kinh : nervers

dây thanh : vocal cords, vocal bands

dây thanh căng : stiff vocal cords

dây thanh chùng : slack vocal cords

dạng nhược hóa : reduced form

dạng thức mạnh : strong form

dạng thức yếu : weak form

dao động có chu kỳ : periodic vibration

dao động điều hòa : harmonic vibration

dị hóa : dissimilate

dịch về trước : advanced

đa âm tiết : polysyllabic

đa tổng hợp : polysynthetic

đầu (âm ~) : intial

đầu lưỡi (âm ~) : apical

đầu lưỡi răng (âm ~) : dentilingual

đầu lưỡi–lợi (âm ~) : apico-alveolar

đặc điểm dân tộc (của phát âm) : nation feature (of pronunciation)

đặc trưng : characteristic, feature

đặc trưng âm học : acounstic feature

đặc trưng sinh lý học : physiolognomic

đặc trưng thanh hầu : glottis feature

đại cương (ngữ âm học ~; ngôn ngữ học ~): general (~ phonetics;~ linguistics)

đại từ : pronoun

đỉnh âm tiết : syllabic peak

đỉnh cộng chấn : formant

đinh đầu lưỡi, chóp lưỡi : tip

đẳng lập (đối lập ~) : equipollent

đảo vị trí của âm : anagram

đệm (âm ~) : pretonal

đi xuống : fall

đi xuống– đi lên : fall-rise

điệp (âm ~) : geminated

độ căng : tenseness, tension

độ cao : height

độ cao thanh cơ bản : pitch

độ cao tương đối : relative pitch

độ cao tuyệt đối : absolute pitch

độ dài : duration; length

độ dài tương đối : relative length

đồ hình : graphic

độ lớn : loudness

độ mạnh tương đối : relative loudness

độ nâng lưỡi sau : back elevation

độ ngắn (của nguyên âm) : brevity (of vowel)

độ nghe rõ: audibility

độ rõ của phát âm : accuracy of pronunciation

đồ thị ngữ điệu : intonation-graph

độ vang : sonority

độ vang tương đối : relative sonority

độc thoại : monologue

đối hệ : paradim

đối lập (thế ~) : opposition

đối thoại : dialogue

đồng âm : homonyms

đồng chất : homogencity

đồng hóa : assimilate

đồng hóa hoàn toàn : complete assimilation

đồng nhất : indentical

đồng tự : homographs

đọc : reading

đơn ngữ : monolingual

đơn tiết : monosyllabic

đơn vị : unit

đơn vị lời nói : speech unit

đơn vị ngôn ngữ : limguistic unit

định vị (tiêu chí ~) : local (~ mark)

đường cong không có chu kỳ : non-periodic curve

đường cong ngữ điệu : intonation curve

đường ghi, đường cong : curve

đường ghi giao động sóng âm : ocsillgram

đường nét âm điệu : melodic contour

gắt, thé : srident

gãy (thanh điệu ~) : broken (~ tone)

giai đoạn cấu âm : phase of articulation

giao tế : interdental

giả (nguyên âm đôi ~) : false (~ diphthong)

giải phẫu học : anatomy

giải pháp : solution

giải thuyết : interpretation

giảm dần (nguyên âm đôi ~) : falling (~ diphthong)

giọng : voice

giọng rít : creaky voice

giữa răng (phụ âm ~) : bifocal (~ consonant)

giới từ : preposition

gốc lưỡi : tongue root

gốc lưỡi đưa về trước : advanced tongue root

hậu, sau : post-

hai bên : bilateral

hai tiêu điểm : bicentral, bifocal

hạt nhân : nucleus, nuclei

hàm trên : upper jaw

hệ lưỡng phân : binary

hệ thống : system

hệ thống ký hiệu : notation

hệ thống phiên âm : phonetic notation

hẹp : narrow

hiện tượng đồng đại : synchronic phenomena

hiệu quả : effect

hiệu quả âm học : acounstic effect

hình âm vị học : morphological

hình chụp X-quang : X-ray photography, radiogram

hình thang nguyên âm Jones : Jone’s vowel trapezium

hình vị : morpheme

Hội Ngữ âm học quốc tế : IPA

họng : throat

hòa phối (nguyên âm) : ablaut

hữu thanh : voiced

hỏi : question

i-ốt hóa, ngạc hóa : yotization

kết hợp (biến thể ~; khả năng ~) : positional (~variant;combinability)

kéo dài : prolong

khác biệt : different

khe thanh hầu : glottic aperture, glottis

khoang : cavity, champer

không cần yếu : irrelevant

khoang miệng : mouth cavity

khoang mũi : nasal cavity

không ngắt : continuant

không trọng âm : unaccented

không vang : non-sonorous

khoang yết hầu : laryns cavity, pharyngeal ~

khu biệt : distinguish

kiểu; loại hình : type

ký hiệu : sign, symbol

lặp (hiện tượng ~) : reduplication

lặp lại nguyên âm : assonance

loại hình âm : sound-classe

loãng : diffuse

lơi (âm ~) : lax

lợi : alveolar

lợi (âm ~) : alveolar

lời nói : speech

lời nói nhân tạo : artificial speech

lời nói thì thầm : whisper

lượng : quanlity

lưỡi : tongue

lưỡi con : uvular

lưỡi sau : backlingual

lưỡi trước : forelingual

luân phiên (hiện tượng ~) : alternation

luân phiên âm tố : interchange of sound

luồng hơi : air stream

luồng không khí : flow of air

lý thuyết ngữ âm : phonetic theory

mất âm cuối : apocope

mất giọng : aphonia, dysphonia

mặt lưỡi : dorsal

mạc (ngạc mềm) : velar

mạc hóa (âm ~; hiện tượng ~) : velarized (~ sound; velarization)

màu sắc : colour

máy ghi dao động : oscillograph

máy nghe : audiphone

máy đo thính lực : audiometer

máy phân tích phổ : spectrograph

mềm : soft

miệng : mouth

mô hình âm điệu : melodic pattern

môi : lips

môi (âm ~) : labial

môi-mạc (âm ~) : labil-velar

môi-môi (âm ~) : bilabial

môi-răng (âm ~) : labiodental

môi dưới : lower lip

môi hóa : labialization

môi trên : upper lip

mức độ dài : degree of length

mức tiếng thanh (độ vang) : scale of sonority

mức trọng âm : degree of stress

mũi (âm ~) : nasal

mũi hóa : nasalize

mũi hóa (hiện tượng ~) : nasalization

nét khu biệt : distinctive feature

ngắn : short

ngạc (âm ~) : palatal

ngạc-lợi (âm ~) : palato-alveolar

ngạc cứng : palatal

ngạc giả : artificial palate

ngạc giữa (âm ~) : mediopalatal

ngạc hóa : palatalize

ngạc mềm : soft palate

ngạc đồ : palatogram

ngạc trước (âm ~) : prepalatal

ngôn ngữ : language

ngôn ngữ có trọng âm : stress language

ngôn ngữ học : linguistics

ngôn ngữ học cấu trúc : structural linguistics

ngôn ngữ không có trọng âm : non-stress linguistics

ngôn điệu : prosody

ngôn điệu (hiện tượng ~) : prosodic (~ fact)

ngữ âm : phonetic

ngữ âm học : phonetics

ngữ âm học âm học : acoustic phonetics

ngữ âm học cấu âm : articulatory phonetics

ngữ âm học khí cụ : instrucmental phonetics

ngữ âm học lịch đại : diachromic phonetics

ngữ âm học lịch sử : historical phonetics

ngữ âm học miêu tả : descriptive phonetics

ngữ âm học đồng đại : synchronic phonetics

ngữ âm học sinh lý : physiophonetics

ngữ âm học thực hành : pratical phonetics

ngữ âm thực nghiệm : experimental phonetics

ngữ cảnh : context

ngữ điệu : syntagm, syntagma

người nghe : auditor

nguyên âm : vowel

nguyên âm ba : triphthong

nguyên âm căng : tense vowel

nguyên âm chuyển sắc : coloured vowel

nguyên âm có trọng âm : accented vowel

nguyên âm dài : long vowel

nguyên âm dòng giữa : central vowel

nguyên âm dòng giữa, độ nâng trung bình : mid-central vowel

nguyên âm dòng pha : mixed vowel

nguyên âm dòng sau : back vowel

nguyên âm dòng sau, độ nâng trung bình : mid-back vowel

nguyên âm dòng trước : front vowel

nguyên âm dòng trước, tròn môi : rounded front vowel

nguyên âm dòng trước, (độ nâng) cao : high front vowel

nguyên âm dòng trước, độ nâng trung bình : mid front vowel

nguyên âm khép : closed vowel

nguyên âm không tròn môi : unrounded vowel

nguyên âm lướt : vowel-glide

nguyên âm mạnh : strong vowel

nguyên âm mở : open vowel

nguyên âm mũi : nasal vowel

nguyên âm mũi hóa : nasalized vowel

nguyên âm ngắn : short vowel

nguyên âm đôi : diphthong

nguyên âm đôi hóa : diphthonggize

nguyên âm đôi đi lên : increasing diphthong

nguyên âm đôi đi xuống : falling diphthong

nguyên âm đơn : monophthong

nguyên âm tròn môi : rounded vowel

nguyên âm trung hòa : neutral vowel, obscure vowel

nguyên âm yếu : lax vowel

nguyên tắc : principle

nguyên tắc chính tả lịch sử : consevative principles of orthography

nhận dạng : recognize

nhấn mạnh : emphassis

nhân tố : factor

nhà âm vị học : phonologist

nhà ngữ âm học : phonetician

nhược hóa : reduction

nhược hóa về lượng : quantitative reduction

nhược hóa về phẩm chất : qualitative reduction

nhịp điệu : pulse, rhythm

nhịp độ : tempo, speed

nổ : explosive

nổ (âm ~) : plosive

nước (âm ~) : liquid

nửa hẹp (nguyên âm ~) : half-closed (~ vowel)

nửa khép (âm tiết ~) : half-closed (~ syllable)

nửa mở : half-open

nửa rộng (nguyên âm ~) : half-open (~ vowel)

ồn : noise

phẩm chất : quality

phần âm tiết : syllabation

phần đầu của lưỡi : blade of the tongue

phần sau của lưỡi : back of the tongue

phân tích : analysis

phần trước của lưỡi : front of tongue

phần trước mặt lưỡi : predorsal part

phạm vi hẹp : narrow range

phát âm : pronounce

phát âm (cách ~) : pronunciation

phát âm chuẩn : standard pronunciation

phát âm cổ : obsolete pronunciation

phát âm nhân tạo : artificial pronunciation

phát âm được chấp nhận chung : received pronunciation

phát âm sai : faulty pronunciation

phát ngôn : utlerance

phi âm tiết tính : non-syllabic

phiên âm : transcription

phiên âm âm vị học : phonemic transcription

phiên âm các biến thể : alloophonic transcription

phiên âm hẹp : narrow transcription

phiên âm ngữ âm học : phonetic transcription

phiên âm rộng : broad transcription

phiên âm theo bảng chữ cái : alphabetic transcription

phổ hình : spectrogram

phổi : lung

phong cách diễn thuyết : oratorical style

phong cách hội thoại : conversational style

phong cách hội thoại nhanh : rapid conversational style

phong cách nói : diction

phong cách phát âm : style of pronunciation

phong cách trang trọng : formal style

phương ngữ học : dialectology

phương pháp dạy phát âm : methos of teaching pronunciation

phương pháp phân tích ngữ âm : method of phonetic analysis

phương pháp X–quang : radiography

phương thức cấu âm : means of articulation

phức hợp : composite

phụ (dấu ~) : diacritic

phụ âm : consonant

phụ âm bên : lateral consonant

phụ âm cứng : hard consonant

phụ âm giữa răng : interdental consonant

phụ âm khép : arresting consonant

phụ âm lợi : alveolar consonant

phụ âm lưỡi sau : backlingual consonant

phụ âm lưỡi trước : forelingual consonant

phụ âm mặt lưỡi : dorsal consonant

phụ âm mặt lưỡi trước : predorsal consonant

phụ âm mềm : soft consonant

phụ âm môi : labial consonant

phụ âm môi–môi : bilabial consonant

phụ âm mũi : nasal consonant

phụ âm nổ : plosive consonant

phụ âm nước : liquid consonant

phụ âm đầu : initial consonant

phụ âm đầu lưỡi : apical consonant

phụ âm răng : dental consonant

phụ âm rung lưỡi con : uvular trill

phụ âm sau lợi : post-alveolar consonant

phụ âm tắc : occlusive consonant

phụ âm tắc thanh hầu : glottal consonant

phụ âm tiền thanh hầu : pre-glottalized consonant

phụ âm vang : sonorous consonants, sonant

phụ âm xát : fricative consonant

phù hiệu ngữ âm : phonetic symbol

quặt lưỡi (phụ âm ~) : retroflex (consonant ~)

quãng tám : octave

quả táo Adam : Adam’s apple

quá trình : process

quy luật : law

răng dưới : lower teeth

răng trên : upper teeth

ranh giới âm tiết : syllable-boundary

rộng : wide

rườm : redundant

rụng phụ âm : dropping of consonant

rung (~ âm) : plapped, trilled

rút gọn từ : syncopate

sáng (âm ~) : clear

siêu đoạn tính (âm vị ~) : suprasegmental (~ phoneme)

sinh lý học : physiology

sự bật hơi : aspiration

sự biến đổi : change, shift

sự bù trừ : compensation

sự cản trở : obstruction

sự chuẩn hóa : standardization

sự cộng hưởng : resonance

sự dị hóa : dissimilation

sự đồng hóa : assimilation

sự hạ giọng : descent

sự hạ giọng đột ngột : step fall

sự khác biệt địa phương : dialectal difference

sự khu biệt : distinction

sự kiện : fact

sự lên giọng đột ngột : step rise

sự lựa chọn : alternative

sự miêu tả : description

sự mũi hoá : nasalization

sự ngạc hóa : palatalization

sự nghe : audition

sự nguyên âm đôi hóa : diphthongization

sự biểu cảm : emotion

sự nhược hóa : reduction

sự nổ : burst, explosion, plosion

sự phân bố : distribution

sự phân chia âm tiết : syllable division

sự phân giới : delmitation

sự phân loại : classification

sự phân đoạn : segmentation

sự phát âm : pronunciation

sự quặt lưỡi : retroflexion

sự rút gọn : syncope

sự so sánh : comparision

sự tắc-xát : affrication

sự tăng cường độ lớn của âm : amplification of sound

sự thắt, xiết : constriction

sự thay đổi ngữ điệu : intonational change

sự thay đổi trong ngữ cảnh : modification in context

sự thích nghi : accomodation

sự thực hành : pratice

sự thở ra : breath, expiration

sự thu hẹp : narrowing

sự thụ cảm : perception

sự tương ứng : correlation

sự trung hòa hóa : neutralization

sự vô thanh hóa : devocaliration

song ngữ : bilingual

song tiết : disyllblic

sóng âm : sound-wave

tần số : frequency

tất yếu bắt buộc (biến thể ~) : obligatory (~variant)

tắc : occlude, stop

tắc – xát : affriciat

tắc thanh hầu : glottal plosive, glottal stop

tắc thuần túy : pure plosive

tăng dần (nguyên âm đôi ~) : rising (~ diphthong)

tắt (viết ~) : abbreviation

tai : ear

tam giác nguyên âm : vowel-triangle

thân (~ lưỡi) : body (~ of the tongue)

thấp : low

thanh (tiếng ~) : voice

thanh cao–đi lên : high-rising tone

thanh cơ bản : fondamental pitch

thanh hầu : vocal organs

thanh hầu co, thắt : contricted glottis

thanh đi xuống : falling tone

thanh đi xuống–đi lên : falling-rising tone

thanh điệu : tone

thanh điệu đi lên : rising tone

thanh điệu đi xuống : falling tone

thanh quản mở rộng : spread glottis

thành ngữ : expression

thành tố : component

thán từ : exclamation

thay đổi : modify, change

thay đổi độ cao : change in pitch

thay thế : subsitution

thể : mood

thế đối lập : opposition

thế đối lập có-không : privative opposition

thích nghi : accommodate

thính giác : auditory

thổ ngữ : subdialect

thổi : blow

thực quản : ocsophagus

thói quen phát âm : habit of pronunciation

thuật ngữ : term

thụt, co : retracted

thuộc giải phẫu : anatomical

tiền, trước : pre-

tiếng lóng : back slang

tiếng địa phương : dialect

tiếng động yếu : feeble noise

tiếng ồn : noise

tiếp xúc : contact

tiết vị, hình tiết : syllabeme

tiêu chí khu biệt : distinctive feature

tiêu điểm : focus

tính bền vững : stability

tính chất mũi : nasality

tình thái : modal

tính tình thái : modality

tổ hợp : combination

tổ hợp phụ âm : cluster of consonants

tổ hợp từ : collocation

tốc độ lời nói : tempo of speech

tối (âm ~) : dark

tối ưu : optimum

tự do (biến thể) : free (~ variant)

tự điển cụm từ và thành ngữ : phrase-book

từ : word

từ đơn tiết : monosyllabic word

từ vay mượn : loan-word, borrowed word

tượng thanh : onomatopoeic

tương liên (thế ~) : correlation

tương đối : relative

tương ứng : correspondence

tương phản (thế ~) : contrast

tương quan : correlate

tương tự : analogical

trầm : grave

trật tự : order

trọng âm : stress, accent

trọng âm câu : sentence stress

trọng âm chính : major stress, primary stress

trọng âm cuối : ultimate stress

trọng âm lôgic : logical stress

trọng âm lực : dynamic accent, dynamic stress

trọng âm lượng : accent by length

trọng âm mạnh : strong stress

trọng âm nhạc : accent by stress

trọng âm phụ : secondary stress

trọng âm từ : word-stress

trọng âm yếu : weak stress

tròn môi : rounding

trường độ : length

trước : front

trước nguyên âm : pre-vocal

trước trọng âm : pre-tonic

trung bình (nguyên âm ~) : medial (~ vowels)

trung hòa (vị trí ~) : neutralization

trung tâm âm tiết : centre of syllable

tùy tiện, tự do : facultative

uốn lưỡi, quặt lưỡi : cacuminal

vần (thơ) : rhyme

vật lý học : physics

vang (âm ~) : sonant

vang môi–môi : bilabial sonant

vế có : mark member

vế của thế đối lập : member of opposition

vế không : unmarked member

vị trí : position; place

vị trí cấu âm : place of articulation

vị trí chướng ngại : place of obstruction

vị trí của trọng âm : place of stress, position of stress

vị trí giữa các phụ âm : interconsonantal position

vị trí giữa nguyên âm : intervocalie

vị trí trung hòa : neutral position

vô thanh : unvoiced, voiceless

vô thanh hóa : devoiced

vòm miệng, ngạc cứng : palate

vùng lợi : asveolar region

vùng sau lợi : post-alveolar region

vùng sau ngạc : post-palatal region

vùng tần số : region of frequency

vùng tiếp xúc : area of contact

vùng trước mạc : pre-velar region

vùng trước ngạc : pre-palatal region

xát : constrictive, fricative

xát (âm ~) : fricative, sprirant

xát khe tròn : hole type fricative

xát môi–môi : bilabial fricative

xát môi–môi khe dẹt : bilabial slit fricative

xát môi–môi khe tròn : bilabial hole fricative

xát thanh hầu : glottal fricative

xuýt (âm ~) : husting

yết hầu : larynx; pharyngeal

yết hầu co, thắt : constricted pharynx

yết hầu hóa (hiện tượng ~) : pharyngeal

yếu : weak

yếu tố âm tiết tính : syllablic element




Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 9


A. Sách và bài báo bằng tiếng Việt, Anh, Pháp

1. Abercrombie D. 1967. Elements of General Phonetics. Edinburgh University Press.

2. Anderson S. & Stephen R. 1985. Phonology in the Twentieth century: Theories of Rules and Theories of Representasions. University of Chicago Press.

3. Andreev N. D. 1975. Kết cấu âm tiết Việt Nam (bản dịch tiếng Việt). Trong: “Những vấn đề ngôn ngữ học”, q.5.ĐHTH Hà Nội xb, tr. 39–46.

4. Asher R. E. & Simpson J. M. Y. 1994. The Encyclopedia of language and Linguistics. Pergamon Press.

5. Bùi Văn Nguyên 1977. Thử tìm hiểu giọng nói Nghệ Tĩnh trong giọng nói chung của cả nước. Ngôn ngữ số 4: 34–41.

6. Cao Xuân Hạo 1962. Bàn về cách giải thuyết âm vị học một số vần mẫu có nguyên âm ngắn trong tiếng Việt. Trong: “Thông báo khoa học”, tập 1. ĐHTH Hà Nội xb.

7. Cao Xuân Hạo 1975. Le problème da phonème en vietnamien. Etudes Vietnamiennes, n0). 40: 99–127.

8. Cao Xuân Hạo 1978. Trọng âm và các quan hệ ngữ pháp trong tiếng Việt. Trong: “Thông báo Ngữ âm học”. Viện KHXH tại Tp. HCM xb.

9. Cao Xuân Hạo 1985. Về cương vị ngôn ngữ của tiếng. Ngôn ngữ số 2: 26–52

10. Cao Xuân Hạo, 1998. Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp. Tp. HCM: Giáo dục.

11. Chomsky N. & Morris H. 1968. The sound pattern of English. New York: Happer & Row.

12. Chao, Y. R. 1930. A system of tone–letters. Le maltre phonétique 30: 24–7.

13. Crystal D. & Randolph Q. 1964. Systems of prosodic and Paralinguistic Features in English, The Hague: Mouton.

14. Crystal D. 1992. An Encyclopedic Dictionary of Language and Languages. Blackwell Publishers.

15. Crystal D. 1994. The Cambridge Encyclopedia of Language. Cambridge University Press.

16. Chuẩn hoá chính tả và thuật ngữ, 1983. Hà Nội: Giáo dục.

17. Cù Đình Tú, Hoàng Văn Thung, Nguyễn Nguyên Trứ 1977. Ngữ âm học tiếng Việt hiện đại. Hà Nội: Giáo dục.

18. Cù Đình Tú, Hoàng Văn Thung, Nguyễn Nguyên Trứ, 1972. Giáo trình riêng Việt hiện đại. Hà Nội: Giáo dục.

19. Đinh Lê Thư, 1982. Bàn về âm tắc thanh hầu mở đầu âm tiết tiếng Việt. Ngôn ngữ số 3: 47– 51.

20. Đinh Lê Thư. 1984. Những biến thể về phương thức cấu tạo phụ âm đầu trong các tiếng địa phương miền Bắc Việt Nam. Ngôn ngữ số 1: 9–15.

21. Đinh Lê Thư, 1985. Sự hiện thực hóa về mặt ngữ âm của thế đối lập hữu thanh–vô thanh của phụ âm đầu trong tiếng Việt. Ngôn ngữ số 2: 67 –71.

22. Đoàn Thiện Thuật 1977. Ngữ âm tiếng Việt, Hà Nội: ĐH và THCN.

23. Đoàn Thiện Thuật 1973. Cứ liệu ban đầu về ngữ âm trẻ em Việt Nam ở tuổi Vườn trẻ (24–36 tháng). Trong: “Kỷ yếu hội nghị khoa học về tâm lý, sinh lý trẻ em dưới 3 tuổi”. Hà Nội: UBBVBMTETW xb.

24. Đỗ Quang Chính 1972. Lịch sử chữ quốc ngữ, Sài Gòn: Tủ sách Ra Khơi.

25. Emeneau M. B. 1951. Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar. Univ. of California Publications in Linguistics vol. 8.

26. Gordina M. V. 1972a. Bàn về cách giải thuyết âm vị học các nguyên âm đôi tiếng Việt (bản dịch tiếng Việt). Trong “Những vấn đề ngôn ngữ học”, q. 5: 35–41. ĐHTH Hà Nội (lưu hành nội bộ).

27. Gordina M. V. 1972b. Bàn về một vài vấn đề cần tranh luận về kết cấu ngữ âm của tiếng Việt (bản dịch tiếng Việt). Trong: “Những vấn đề ngôn ngữ học”, q. 5: 21–34. ĐHTH Hà Nội (lưu hành nội bộ).

28. Gordina M. V. 1972c. Bàn thêm về vấn đề âm vị trong tiếng Việt (bản dịch tiếng Việt). “Những vấn đề ngôn ngữ học”, q.5: 14–21. ĐHTH Hà Nội (lưu hành nội bộ).

29. Gramont & Lê Quang Trinh 1911. Etudes sur la langue annamite. Paris: M. S. L.

30. Haudricourt A. G. 1954. De l’origine des tons en Vietnamien. Journal Asiatique, t. 242: 69–82.

31. Haudricourt A. G. 1966. The limits and connections of Austroasiatic in North East. Trong “Studies in comparative Austroasiatic Linguistics”. The Hague: Mouton.

32. Hoàng Cao Cương 1985. Bước đầu nhận xét về đặc điểm ngữ điệu trong tiếng Việt. Ngôn ngữ số 3: 40–47.

33. Hoàng Cao Cương 1986. Suy nghĩ thêm về thanh điệu tiếng Việt. Ngôn ngữ số 3: 19–38.

34. Hoàng Phê 1961. Vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ. Trong: “Kỷ yếu Hội nghị cải tiến chữ quốc ngữ”. Hà Nội: Viện Văn học.

35. Hoàng Tuệ, Hoàng Minh 1975. Remarques sur la structure phonologique du Vietnamien. Etudes Vietnamiennes, n0. 40: 67-98.

36. Hoàng Tuệ, Lê Cận, Cù Đình Tú 1962. Giáo trình về Việt ngữ, tập 1, Hà Nội: Giáo dục.

37. Hữu Quỳnh, Vương Lộc 1973. Khái quát về lịch sử tiếng Việt và ngữ âm tiếng Việt hiện đại. Hà Nội: Giáo dục.

38. IPA. 1949. The principles of international Phonetic Association. London. Reprinted in 1979.

39. Jakobson R., Fant C. G. M., Halle M. 1952. Preliminaries to Speech Analysis. Cambridge MA: MIT Press. Revised ed. in 1963. Reprinted in “Roman Jakobson, Setected writings”, vol.8 (Berlin: Mouton de Gruyter, 1987, pp. 585–660).

40. Jakobson R. 1962. Selected writings. vol. 1, Phonology Studies. 2 nd. ed. in 1971. The Hague: Mouton.

41. Jakobson R. 1987. Selected writings, vol. 8. Major works, 1976–80. Berlin: Mouton de Gruyler.

42. Laver J. 1994. Principles of phonetics. Cambridge University Press.

43. Jones R. B., Huỳnh Sanh Thông 1960. Introduction to Spoken Vietnamese. ACLS. Washington DC.

44. Lê Ngọc Trụ 1972. Chánh tả Việt ngữ. Sài Gòn.

45. Lê Văn Lý 1948. La parler Vietnamien. Paris: Imp. Hương Anh.

46. Maspéro H. 1912. Etudes sur la phonétique historique de annamite–Les initiales. Publications de l’Ecole francais d'Extrême–Orient, t. 12.

47. Miller J. D. 1961. Word Recognition in Vietnamese whispered Speech. Word, vol. 17.

48. Nguyễn Bạt Tuỵ 1959. Ngôn ngữ học Việt Nam. Sài Gòn: Ngôn ngữ.

49. Nguyễn Bạt Tuỵ 1949. Cữ và vần Viêd khwa họk. Sài Gòn: Hoạt hóa.

50. Nguyễn Đình Hòa 1983. Speak Vietnamese. Rev. ed, Tokyo.

51. Nguyễn Đăng Liêm 1970. Vietnamese pronunciation. Honolulu: University of Hawaii Press.

52. Nguyễn Phan Cảnh 1978. Bản chất cấu trúc âm tiết tính của ngôn ngữ. Dẫn luận vào một miêu tả không phân lập đối với âm vị học Việt Nam. Ngôn ngữ số 2: 5–18.

53. Nguyễn Phan Cảnh 1989. Âm vị học các ngôn ngữ có thanh điệu, Ngôn ngữ số 1+2: 13–24.

54. Nguyễn Quang Hồng 1976. Âm tiết tiếng Việt, chức năng và cấu trúc của nó. Ngôn ngữ số 3: 29–36.

55. Nguyễn Quang Hồng 1986. Hiện tượng đơn lập hóa âm tiết về mặt ngữ âm trong ngôn ngữ có thanh điệu ở phương Đông. Ngôn ngữ số 2: 40–45.

56. Nguyễn Quang Hồng 1994. Âm tiết và loại hình ngôn ngữ. Hà Nội: Khoa học xã hội.

57. Nguyễn Tài Cẩn 1975. Ngữ pháp tiếng Việt. Tiếng – Từ ghép – Đoản ngữ. Hà Nội: ĐH và THCN.

58. Nguyễn Tri Niên, Nguyễn Phan Cảnh 1961. Sơ lược về tình hình phát âm phân biệt d và gi hiện nay. Nghiên cứu văn học số 8. Hà Nội.

59. Nguyễn Văn Trừng 1975. Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc. Sài Gòn: Nam Sơn.

60. Phạm Văn Hải 1973. A Study of Vietnamese tones carbondale. Illinois.

61. Pike, K. L. 1943. Phonetics. Ann Arbor: University of Michigan Press.

62. Roach P. J. 1987. Rethinking phonetic taxonomy. Transactions of the Philological Society, pp. 24–37.

63. Thompson L. C. 1965. A Vietnamese Grammar. Seattle: Univ. of Washington Press.

64. Từ điển chính tả phổ thông 1963. Hà Nội: Văn hóa.

65. Xtankêvich N. V., 1982. Loại hình các ngôn ngữ. Hà Nội: ĐH và THCN.

66. Vachek, J. 1966. The Linguistic Schoot of Prague, Bloomington: Indiana University Press.

67. Vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ, 1961. Hà Nội.

68. Viện ngôn ngữ học (UBKHXHNV) 1984. Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và chính sách ngôn ngữ. Hà Nội: Khoa học xã hội.

69. Võ Xuân Trang 1997. Phương ngữ Bình Trị Thiên. Hà Nội: Khoa học xã hội.

70. Vũ Bá Hùng 1976. Vấn đề âm tiết của tiếng Việt, Ngôn ngữ số 3:

Wells J. 1988. Computer–coded phonetic transcription. Journal of the International Phonetic Association 17: 94– 114.

71. William B. 1992. International Encyclopedia of linguistics. Oxford University Press.

B. Sách và bài báo bằng tiếng Nga

(tựa đề được dịch ra tiếng Việt)

1. Gordina M. V. 1960. Những vấn đề cơ bản của cơ cấu ngữ âm tiếng Việt. Tóm tắt luận án phó tiến sĩ khoa học ngữ văn. Leningrad.

2. Gordina M. V. & I. S. Bystrov 1961. Tiêu chí phân chia ngữ đoạn và ngữ điệu câu trong tiếng Việt. “Ghi chép Khoa học”. Trường ĐHTH Leningrad, số 305.

3. Gordina M. V., 1966. Về những đơn vị ngữ âm chức năng khác nhau của ngôn ngữ. Trong: “Nghiên cứu về âm vị”. Moskva: Khoa học.

4. Gordina M. V. & I. S. Bystrov, 1976. Một số qui luật thống kê của sự phân bố thanh điệu tiếng Việt. Trong: “Tuyển tập ngôn ngữ Việt Nam”. Moskva: Khoa học.

5. Gordina M. V. 1984. Cơ cấu ngữ âm tiếng Việt. Moskva: Khoa học.

6. Kesevich V. B. 1977. Các vấn đề chung của ngôn ngữ. Moskva: Khoa học.

7. Kesevich V. B. 1983. Những vấn đề âm vị học đại cương và ngôn ngữ Phương Đông. Moskva: Khoa học.

8. Maxlov Ju. S. 1975. Dẫn luận vào ngôn ngữ học. Moskva: Đại học.

9. Mkhitarian T. T., 1959. Ngữ âm tiếng Việt. Moskva: Văn học phương Đông.

10. Nguyễn Hàm Dương, 1963. Hệ thống thanh điệu và phổ hình các nguyên âm tiếng Việt (nghiên cứu thực nghiệm). Tóm tắt luận án phó tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Trường ĐHTH Lomonoxov.

11. Ngôn ngữ học đại cương (cấu trúc bên trong của ngôn ngữ) 1972. Moskva: Khoa học.

12. Panov M. V., 1979. Tiếng Nga hiện đại: Ngữ âm học. Moskva: Đại học.

13. Reformatxki A. A., 1960. Dẫn luận vào ngôn ngữ học. Moskva: Giáo dục.

14. Remartruc V. V., 1976. Những đặc tính về số lượng của âm vị tiếng Việt. Moskva: Khoa học.

15. Serba L. V., 1912. Các nguyên âm tiếng Nga trong mối quan hệ về số lượng và chất lượng. SPB.

16. Spesnev N. A., 1958. Bản chất âm học của trọng âm từ trong tiếng Trung Quốc hiện đại. “Ghi chép khoa học”. Nxb. Trường ĐHTH Leningrad, số 136.

17. Spesnev N. A., 1980. Ngữ âm tiếng Trung Quốc. Nxb. Trường ĐHTH Leningrad.

18. Trubetxkoy N. S., 1960. Cơ sở âm vị học. Bản dịch từ tiếng Đức của A. A. Kholodovich. Moskva: Văn học nước ngoài.

19. Zinder L. R., 1979. Ngữ âm học đại cương. Xuất bản lần thứ 2, có sửa chữa, bổ sung. Moskva: Đại học.


Chương một. DẪN LUẬN

(Đinh Lê Thư viết)

I. Đối tượng và vị trí của ngữ âm học

II. Cơ sở ngữ âm

1. Cơ sở âm học

2. Cơ sở sinh lý học

3. Cơ sở xã hội

III. Phân loại âm tố về mặt cấu âm

1. Những đơn vị đoạn tính và siêu đoạn tính

2. Nguyên âm và phụ âm

3. Các phụ âm

4. Các nguyên am

5. Ý nghĩa việc phân loại âm tố về mặt cấu âm

6. Các phương pháp nghiên cứu cấu âm

IV. Phân loại âm tố về mặt âm học

1. Tại sao cần có sự phân loại về mặt âm học

2. Các đặc trưng âm học

3. Ưu điểm của cách phân loại âm học

V. Mặt chức năng trong việc nghiên cứu các âm học nghiên cứu các âm tố của ngôn ngữ – lý thuyết âm vị

1. Định nghĩa âm vị

2. Chức năng của âm vị

3. Sự phân xuất và xác định âm vị

4. Sự qui nạp âm vị – Âm vị và biến thể

5. Các nét khu biệt của âm vị và sự đối lập âm vị

VI. Phiên âm ngữ âm học

Chương hai. ÂM TIẾT

(Nguyễn Văn Huệ và Đinh Lê Thư viết)

I. Những vấn đề chung

1. Cơ chế cấu tạo âm tiết

2. Chức năng của âm tiết

3. Cấu trúc âm tiết trong ngôn ngữ

II. Âm tiết tiếng Việt

1. Đặc điểm âm tiết tiếng Việt

2. Cấu trúc âm tiết tiếng Việt

3. Các loại hình âm tiết tiếng Việt

4. Một số hiện tượng có liên quan đến âm tiết

Chương ba. PHỤ ÂM ĐẦU

(Đinh Lê Thư viết)

I. Các tiêu chí khu biệt phụ âm đầu

1. Về cấu âm

2. Về tính chất âm học

II. Sự hiện thực hóa về mặt ngữ âm của các phụ âm đầu

1. Các phụ âm đầu tắc và xát

2. Các phụ âm đầu hữu thanh và vô thanh

III. Hệ thống phụ âm đầu trong các tiếng địa phương

1. Hệ thống phụ âm đầu trong các thổ ngữ Bắc bộ

2. Hệ thống phụ âm đầu trong các thổ ngữ Bắc Trung bộ

3. Hệ thống phụ âm đầu trong các thổ ngữ miền Nam

IV. Sự phân bố của phụ âm đầu

1. Quan hệ phân bố giữa phụ âm đầu và âm đệm

2. Quan hệ phân bố giữa phụ âm đầu và thanh điệu

Chương bốn. VẦN VÀ CÁC YẾU TỐ CỦA NÓ

(Nguyễn Văn Huệ viết)

I. Âm đệm /–u–/

1. Các đặc trưng ngữ âm

2. Sự phân bố

3. Tính chất nước đôi của âm đệm /–u–/

II. Âm chính

1. Nguyên âm đơn

2. Nguyên âm đôi

III. Âm cuối

1. Hệ thống âm cuối

2. Quy luật phân bố của các âm cuối sau âm chính

3. Qui luật biến dạng của âm chính và âm cuối

4. Sự thể hiện của các nguyên âm và phụ âm trong các tiếng địa phương

Chương năm. THANH ĐIỆU

(Đinh Lê Thư viết)

I. Những nét khu biệt của thanh điệu

1. Âm điệu

2. Âm vực

3. Phân loại thanh điệu theo các tiêu thí khu biệt điệu tính

4. Các đặc trưng khu biệt phi điệu tính

5. Phân loại thanh điệu theo các nét khu biệt hỗn hợp: điệu tính và phi điệu tính

II. Sự thể hiện của các thanh điệu trong các âm tiết rời

1. Các thanh điệu trong phương ngữ Bắc bộ

2. Thanh điệu trong các tiếng địa phương khác

III. Thanh điệu trong ngữ lưu

1. Sự biến đổi thanh điệu phụ thuộc vào vị trí trong ngữ đoạn

2. Sự biến đổi của thanh điệu phụ thuộc vào cảnh ngữ âm chung quanh

IV. Sự phân bố thanh điệu

1. Sự phân bố thanh điệu trong các loại hình âm tiết

2. Sự phân bố thanh điệu trong từ láy

3. Sự phân bố của thanh điệu trong từ điển và trên văn bản

Chương sáu. TRỌNG ÂM VÀ NGỮ ĐIỆU

(Đinh Lê Thư viết)

I. Trọng âm

1. Khái niệm trọng âm và các kiểu trọng âm

2. Sự khác biệt giữa thanh điệu và trọng âm từ

3. Trọng âm trong tiếng Việt

II. Ngữ điệu

1. Những nhận xét chung

2. Những thành tố của ngữ điệu

3. Ngữ điệu trong tiếng Việt

Chương bảy. CHỮ VIẾT VÀ CHÍNH TẢ

(Đinh Lê Thư viết)

I. Khái niệm chung về chữ viết

1. Chức năng của chữ viết

2. Các hệ thống chữ viết

II. Chữ quốc ngữ

1. Sự ra đời của chữ quốc ngữ

2. Đặc điểm của chữ quốc ngữ

3. Những bất hợp lý của chữ quốc ngữ

III. Chính tả

1. Các nguyên tắc chính tả cơ bản

2. Hệ thống âm vị tiếng Việt và sự thể hiện trên chữ viết

IV. Những qui định về chính tả tiếng Việt

1. Về những từ tiếng Việt mà hiện nay chính tả chưa thống nhất

2. Vấn đề tên riêng

PHỤ LỤC

– Bảng phụ âm của Hội Ngữ âm quốc tế (IPA)

– Danh sách các thuật ngữ tiếng Việt được dùng trong sách đối chiếu với tiếng Anh

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Sách và bài báo bằng tiếng Việt, Anh, Pháp

B. Sách và bài báo bằng tiếng Nga

(dịch tựa đề ra tiếng Việt)

---//---


CƠ CẤU NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT

Tác giả: Đinh Lê Thư – Nguyễn Văn Huệ

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC – 1998

Chia sẻ với bạn bè của bạn: