So sánh giữa tả cảnh và tả cảnh ngụ rình năm 2024

  • 1. HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ THU HÀ BÚT PHÁP TẢ CẢNH NGỤ TÌNH TỪ CHINH PHỤ NGÂM (BẢN DIỄN NÔM) ĐẾN TRUYỆN KIỀU (NGUYỄN DU) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ THANH HÀ NỘI, 2016
  • 2. thực hiện luận văn, bản thân tôi đã trực tiếp sưu tầm tài liệu và thực hiện nghiên cứu dưới sự hướng dẫn khoa học nghiêm túc, trách nhiệm của PGS.TS. Vũ Thanh. Tôi xin cam đoan rằng, mọi số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, tháng 7 năm 2016 Tác giả Hoàng Thị Thu Hà
  • 3. hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều của các tập thể và cá nhân. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo, cán bộ và nhân viên Học viện Khoa học Xã hội; Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Viện Văn học đã tận tình giảng dạy, tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tớiPGS.TS.Vũ Thanh, người hướng dẫn khoa học đầy trách nhiệm và tâm lí, tình cảm đã tận tình, quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này. Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình học tập, nghiên cứu để thực hiện luận văn, song luận văn khó có thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong nhận được ý kiến đóng góp, chỉ dẫn của các thầy giáo, cô giáo và đồng nghiệp, bạn hữu để công trình khoa học sau của tôi có chất lượng hơn. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 7 năm 2016 Tác giả Hoàng Thị Thu Hà
  • 4. 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÚT PHÁP TẢ CẢNH NGỤ TÌNH TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM....... 9 1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ:...................................................................... 9 1.2. Từ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đến quan niệm “thiên nhân hợp nhất” trong văn học trung đại.............................................................................. 14 Chƣơng 2: BÚT PHÁP TẢ CẢNH NGỤ TÌNH TRONG VĂN HỌC TRƢỚC THẾ KỶ XVIII VÀ TRONG CHINH PHỤ NGÂM KHÚC .......................... 24 2.1. Bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn học dân gian và văn học Việt Nam trung đại ........................................................................................................................ 24 2.2. Bút pháp tả cảnh ngụ tình trong Chinh phụ ngâm khúc............................... 30 Chƣơng 3: BÚT PHÁP TẢ CẢNH NGỤ TÌNH TRONG TRUYỆN KIỀU.. 45 3.1. Sơ lược về tác giả, tác phẩm......................................................................... 45 3.2. Vai trò và biểu hiện của bút pháp tả cảnh ngụ tình trong Truyện Kiều ....... 48 3.3. Vai trò của bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều...................................................................................................................... 60 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. cấp thiết của đề tài 1.1. Cơ sở khoa học 1.1.1. Văn học trung đại Việt Nam phát triển từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX là sự gópmặt của nhiều tác giả với nhiều tác phẩm và thể loại đa dạng và phong phú. Đặc biệt với sự ra đời của thể loại khúc ngâm và truyện thơ Nôm đã đánh dấu sự chuyển biến cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật thể hiện của văn học Việt Nam thời trung đại. 1.1.2. Để biểu đạt tư tưởng, tình cảm trong văn chương, nhà văn thường sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật. Trong số đó, tả cảnh ngụ tình (hay còn gọi là mượn cảnh tả tình) là một trong những thủ pháp đặc trưng tiêu biểu. Khi tả cảnh, mục đích cuối cùng của nhà văn chính là tình chứ ít nhằm vào việc hướng người đọc cảm nhận cái đẹp của cảnh. Cảnh chủ yếu chỉ là cái nền cho tình biểu đạt. Sự tổ chức đặc biệt mối quan hệ giữa tình và cảnh tạo nên ý tại ngôn ngoại, khêu gợi những giá trị lớn, bao trùm lên các hình ảnh,các biểu tượng. Chỉ xét riêng nền văn học trung đại Việt Nam, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được coi là một trong những thủ pháp chính, tiêu biểu để bộc lộ cảm xúc tâm trạng của người sáng tác. Bởi vì ở thời kì này các nhà thơ, nhà văn thường lấy thiên nhiên làm thước đo cho mọi chuẩn mực trong văn chương. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng ở rất nhiều tác phẩm. Đại thi hào Nguyễn Du khi sáng tác Truyện Kiều đã viết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Dường như lời thơ trên được coi như tuyên ngôn nghệ thuật chung của các tác gia trung đại khi sử dụng thủ pháp sáng tạo nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. 1.1.3.Thủ pháp tả cảnh ngụ tình trong các tác phẩm Chinh phụ ngâm (bản diễn Nôm) và Truyện Kiều (Nguyễn Du) có sự tổ chức khá đặc biệt. Sự tổ chức ấy mang giá trị riêng, tạo nên sức lôi cuốn, tránh nhàm chán cho người đọc.
  • 6. thực tiễn Với vai trò là một giáo viên THPT giảng dạy bộ môn Ngữ văn, việc đi sâu tìm hiểu bút pháp tả cảnh ngụ tình trong thể loại ngâm khúc và truyện thơ Nôm sẽ giúp tôi có thêm những điều kiện tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong việc đánh giá tác phẩm, đồng thời có thêm kiến thức, kinh nghiệm trong việc nghiên cứu và dạy học trong nhà trường. Từ mong muốn được nhìn nhận rõ hơn các vấn đề về thi pháp văn học trung đại Việt Nam nói chung và bút pháp tả cảnh ngụ tình trong các tác phẩm tiêu biểu kể trên nói riêng, thông qua đó thấy được sự vận động, phát triển và tiếp biến cuả các thể loại ngâm khúc và truyện thơ, đồng thời phục vụ tốt cho công tác giảng dạy trong trường THPT, chúng tôi lựa chọn đề tài: Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc (bản diễn Nôm) đến Truyện Kiều (Nguyễn Du) 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong phần này, chúng tôi điểm qua một số ý kiến có bàn trực tiếp đến bút pháp tả cảnh ngụ tình trong hai tác phẩm là đối tượng khảo sát của đề tài. Đây sẽ là những gợi ý quan trọng mang tính gợi mở để chúng tôi nghiên cứu đề tài. 2.1. Trong Chinh phụ ngâm (bản diễn Nôm) Trong cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập II, giáo sư Lê Trí Viễn khẳng định: “Chinh phụ ngâm không phải là một cuốn tiểu thuyết nên không có những trạng thái phức tạp thể hiện thành những hành động phức tạp. Chinh phụ ngâm chỉ trình bày có một tâm trạng gần như không có diễn biến, một số trạng thái gần gũi nhau của một tâm tình buồn rầu, đau khổ. Tác giả đã vận dụng đủ cách, từ phân tích trực tiếp đến mượn ngoại cảnh để diễn tả nội tâm” [32; tr. 69]. Từ nhận định này, giáo sư Lê Trí Viễn một mặt đã chỉ ra đặc trưng thể loại trong Chinh phụ ngâm, mặt khác ông cũng chỉ ra bút pháp tả cảnh ngụ tình được tác giả khúc ngâm vận dụng để diễn tả những trạng huống cảm xúc của người chinh phụ.
  • 7. tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc, giáo sư Đặng Thai Mai đã nhận xét trên tổng thể toàn tác phẩm là tâm trạng của người chinh phụ đã chi phối tới toàn bộ không gian, cảnh vật trong tác phẩm. Trong cuốn Giảng văn Chinh phụ ngâm khúc, ông viết: “Từ lúc đầu, người chinh phụ đã than vãn cùng số phận, đã muốn vạch trời mà hỏi nỗi oan khiên. Sầu của người chinh phụ đã từ cửa phòng tản mạn lên miền quan tái. Tâm lý của nàng là tâm ý phổ biến của mọi người. Nỗi sầu của nàng đã tràn trề khắp không gian: trên cầu, dưới nước, giữa nội cỏ xanh, bên đường dương liễu...” [26; tr. 37]. Khi nghiên cứu vấn đề về con người cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng thống nhất cho rằng trong Chinh phụ ngâm, “Cá nhân rõ ràng chưa ý thức mình như một nhân tố của xã hội người. Nó chỉ mong được tồn tại như mọi vật chất của tạo hóa, như chim muông, côn trùng, cây cỏ... Nho giáo chủ trương một lí tưởng lập thân để được bất hủ, không cùng nát với cỏ cây. Nay con người tự thấy mình cùng một chất với cỏ cây, muốn hưởng cuộc đời vốn dễ hư nát, tàn lụi ấy...” [40; tr. 167].Từ nhận định này, thiên nhiên, phong cảnh không đơn thuần là thứ ngôn ngữ để diễn tả tâm trạng con người. Ở một mức độ nào đó, hình ảnh thiên nhiên, cảnh vật còn là một thực thể để người nghệ sĩ đối sánh với cuộc sống của nhân vật trữ tình để từ đó làm toát lên một ý niệm hiện sinh về tồn tại kiếp người. Trong Giáo trình Văn học Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỷ XIX, giáo sư Nguyễn Lộc cũng đề cập đến bút pháp tả cảnh ngụ tình mà cụ thể làqua tính ước lệ tượng trưng trong khúc ngâm này: “Ở đây không nên hiểu tất cả các chi tiết theo nghĩa xác thực, mà phải hiểu trong tính chất ước lệ, tượng trưng của nó... Miêu tả con người, miêu tả hoạt động hay miêu tả thiên nhiên đều như thế cả. Thiên nhiên ở đây cũng được vẽ lên với những nét chấm phá, thường là hình thức biểu hiện ẩn dụ của tâm trạng, nhà thơ không cần chi tiết cụ thể, xác thực, sẵn sàng sử dụng những chi tiết ước lệ và miêu tả thiên nhiên thường đủ cả bốn hướng đông, tây, nam, bắc” [23; tr. 176 – 177]. Như vậy, giáo sư Nguyễn Lộc đã khẳng định những
  • 8. nhiên, những không gian địa lí trong Chinh phụ ngâm khúc đều mang tính nghệ thuật. Bản thân chúng đều hoặc là tấm gương để soi tỏ hoặc là một hình thức ẩn dụ để diễn tả tâm tình của chủ thể trữ tình. Từ những ý kiến trên đã cho thấy thiên nhiên, cảnh vật giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc cụ thể hóa và diễn tả sinh động đời sống nội tâm của chủ thể trữ tình trong tác phẩm. 2.2. Trong Truyện Kiều Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trường hợp đặc biệt trong văn học Việt Nam thời trung đại. Từ khi ra đời, Truyện Kiều đã khiến các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tốn không ít giấy mực với những góc độ tiếp cận nghiên cứu khác nhau. Nói như giáo sư Trần Đình Sử: “Truyện Kiều nói mãi không cùng”[45; tr. 6]. Đương nhiên yếu tố thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng không nằm ngoài sự quan sát của các nhà nghiên cứu. Bản thân Nguyễn Du cũng từng khẳng định như một quan niệm sáng tác của mình khi hướng ngòi bút vào miêu tả thiên nhiên, cảnh vật: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Có thể kể đến một số ý kiến có đề cập đến vấn đề thiên nhiên, cảnh vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình trong Truyện Kiều như: Các tác giả cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập II, khi bàn về Truyện Kiều của Nguyễn Du có đoạn viết: “Phương pháp tả cảnh của Nguyễn Du cũng là phương pháp tả cảnh chung của các văn sĩ cổ điển ở Trung Quốc và ở ta: lồng tình vào cảnh, tả cảnh mà thực ra tả tả tình” [32; tr. 154]. Đây chính là bút pháp tả cảnh ngụ tình được Nguyễn Du vận dụng trong tác phẩm. Từ nhận định này, các nhà nghiên cứu còn dẫn ra một số ví dụ như cảnh khu vườn tan hoang trong tâm trạng ngổn ngang của Kim Trọng trở lại vườn Thúy hay khi Kiều trốn khỏi lầu xanh để chạy theo Sở Khanh. Đáng chú ý hơn, cũng trong công trình này, các nhà nghiên cứu còn chỉ ra bên cạnh những hình ảnh thiên nhiên cảnh vật mang tính ước lệ, Nguyễn Du còn dành những câu thơ để miêu tả thiên nhiên một cách đơn thuần để làm nền cho nhân vật xuất hiện, tức là họ Nguyễn “miêu tả cảnh có thực và không
  • 9. hồn của nhân vật” [32; tr. 154].Từ nhận định này có thể thấy các tác giả đã chỉ ra sự đa dạng hóa của ngòi bút Nguyễn Du trong việc tả cảnh với những ý đồ nghệ thuật khác nhau. Giáo sư Lê Đình Kỵ cũng khẳng định nét đặc sắc trong bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du. Trong công trình nổi tiếng Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, ông viết: “Nguyễn Du không ngại sử dụng điển cố, những hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng đã đi vào kho tàng chung của văn chương bác học... Nguyễn Du thường dùng những ẩn dụ lấy từ cỏ cây cầm thú được xem như là tượng trưng cho những hạng người nhất định” [19; tr. 406 – 407]. Như vậy, giáo sư Lê Đình Kỵ đã chỉ ra những biểu hiện của bút pháp tả cảnh ngụ tình trong việc mở rộng đời sống tâm lí trong dòng ý thức của nhân vật. Vấn đề này cũng được giáo sư Trần Đình Sử trình bày một cách chi tiết trong cuốn Thi pháp Truyện Kiều. Trong công trình này ông cho rằng việc Nguyễn Du thể hiện thành công “không gian lưu lạc” của Thúy Kiều chính là nhờ vào sự hỗ trợ đắc lực của bối cảnh thiên nhiên. Nói khác đi, thiên nhiên đã trở thành những biểu tượng diễn tả những trạng huống tâm lí khác nhau của nhân vật trong Truyện Kiều. Trên đây là một số ý kiến có bàn đến sự tác động, ảnh hưởng và kế thừa từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều. Nhiều ý kiến cũng bàn đến vấn đề bút pháp tả cảnh, tả thiên nhiên để cụ thể hóa những suy tư đang vang lên trong tâm tưởng của nhân vật. Tuy nhiên, phần nhiều là các nhà nghiên cứu mới chỉ nhắc đến hoặc lưu ý mà không chỉ ra ngọn nguồn, những biểu hiện cụ thể, cũng như những kỹ xảo của thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu này. Trân trọng những ý kiến đi trước, chúng tôi tiến hành nghiên cứu vấn đề bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1.Mục đích Thấy được sự tiếp thu và vận dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình trong các khúc ngâm và truyện thơ Nôm, cụ thể qua hai tác phẩm tiêu biểu là Chinh phụ ngâm
  • 10. Kiều, thấy được bút pháp tả cảnh ngụ tình trong truyện thơ Nôm là kết quả của việc tiếp thu thành tựu từ thể ngâm khúc và một số thể loại truyền thống khác, nhận thức rõ được cơ sở hình thành và quá trình phát triển, quá trình chuyển tiếp từ thể loại này sang thể loại khác. Qua đó có thể thấy được tài năng và tư tưởng của từng tác giả trong việc vận dụng, sáng tạo các giá trị truyền thống và cũng thấy được sự vận động và phát triển của thi pháp văn học trungđại Việt Nam trong đó có bút pháp tả cảnh ngụ tình. 3.2. Nhiệm vụ -Chỉ ra những khái niệm và thuật ngữ đặc thù, quan niệm thiên nhân hợp nhất, bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn học Việt Nam trước thế kỷ XVIII. -Khảo sát và phân tích những biểu hiện của bút pháp tả cảnh ngụ tình trong tác phẩm Chinh phụ ngâm (bản diễn Nôm) và Truyện Kiều (Nguyễn Du). -Chứng minh sự ảnh hưởng của bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm (bản diễn Nôm)đến Truyện Kiều (Nguyễn Du) và vai trò của bút pháp này trong sự vận động và phát triển của văn học Việt Nam trung đại. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc tìm hiểu bút pháp tả cảnh ngụ tình trong thể loại ngâm khúc và truyện thơ Nôm qua các tác phẩm tiêu biểu:Chinh phụ ngâm khúc (bản diễn Nôm) và Truyện Kiều (Nguyễn Du). 4.2.Phạm vinghiên cứu 4.2.1. Phạm vi tư liệu: luận văn tiến hành khảo sát: - Các tác phẩm văn học dân gian và văn học viết trước Chinh phụ ngâm khúc và Truyện Kiều có biểu hiện của bút pháp tả cảnh ngụ tình. - Khảo sát tập trung vào hai tác phẩm mà đề tài nghiên cứu là: Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, bản diễn Nôm được cho là của Đoàn Thị Điểm in trong Những khúc ngâm chọn lọc, do nhóm tác giả Lương Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc giới thiệu, biên khảo và chú giải, Nhà xuất bản Đại học và
  • 11. nghiệp ấn hành năm 1987 và Truyện Kiều của Nguyễn Du do Hà Huy Giáp giới thiệu, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích do Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp ấn hành năm 1976. - Các công trình nghiên cứu về Chinh phụ ngâm khúc và Truyện Kiều. 4.2.2. Phạm vi vấn đề nghiên cứu -Khảo sát sự xuất hiện của bút pháp tả cảnh ngụ tình trong một số tác phẩm văn học dân gian và văn học viết trước Chinh phụ ngâm khúc và Truyện Kiều. -Khảo sát bút pháp tả cảnh trong hai tác phẩmChinh phụ ngâm khúc và Truyện Kiều. -Chỉ ra sự ảnh hưởng của bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều để thấy được sự vận động và kế thừa thành tựu trong văn học Việt Nam thời trung đại. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp nghiên cứu thể loại: Thấy được sự hiện diện của bút pháp tả cảnh ngụ tình gắn với những đặc điểm riêng của từng thể loại. - Phương pháp so sánh văn học: Được áp dụng ở nhiều cấp độ như: so sánh các tác phẩm ra đời trong cùng một thời kỳ hay các thời kỳ khác nhau, so sánh Chinh phụ ngâm khúc với Truyện Kiều. - Phương pháp văn học sử:nhằm mục đích chỉ ra sự hiện diện của bút pháp tả cảnh ngụ tình cũng như sự vận động, phát triển của nó trong đời sống văn học Việt Nam thời trung đại. - Nghiên cứu văn học dưới góc độ Thi pháp học: được sử dụng trong quá trình phân tích những biểu hiện của bút pháp tả cảnh ngụ tình để thấy được đóng góp của bút pháp này trong cả nội dung và hình thức của tác phẩm văn học.
  • 12. lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn sơ bộ hệ thống hóa sự hiện diện của bút pháp tả cảnh ngụ tình trong sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam, xác định vai trò, vị trí của bút pháp tả cảnh ngụ tình trong thi pháp của một số thể loại văn học trung đại Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Lần đầu tiên luận văn khảo sát một cách hệ thống sự hiện diện của bút pháp tả cảnh ngụ tình trong hai tác phẩmChinh phụ ngâm khúc và Truyện Kiều cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn đầy đủ về biểu hiện cũng như vai trò của bút pháp được xem là đặc trưng nhất trong văn học trung đại trong hai tác phẩm và thấy được sự phát triển của nó trong tiến trình văn học sử Việt Nam thời trung đại. Đồng thời luận văn cung cấp những phân tích sâu, chi tiết về một khía cạnh nghệ thuật trong hai tác phẩm. Luận văn còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho nhưng người làm công tác giảng dạy trong nhà trường phổ thông và những ai yêu mến hai kiệt tác Chinh phụ ngâm khúc và Truyện Kiều. 7. Cơ cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có nội dung chính là 3 chương. Trong đó: Chương 1: Cơ sở lý luận và những vấn đề chung về bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn học trung đại Việt Nam Chương 2: Bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn học trước thế kỷ XVIII và trong Chinh phụ ngâm khúc Chương 3: Bút pháp tả cảnh ngụ tình trong Truyện Kiều
  • 13. LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÚT PHÁP TẢ CẢNH NGỤ TÌNH TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM 1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ: 1.1.1. Bút pháp nghệ thuật 1.1.1.1. Trong Từ điển Hán – Việt, học giả Đào Duy Anh đã đề cập đến những nét nghĩa khác nhau của hai từ “bút”, “pháp”. Hiểu một cách sơ lược gần gũi nhất “bút” là biên chép, “pháp” là phép tắc nhất định [1; tr. 15]. 1.1.1.2. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “bút pháp là cách viết văn, cách hành văn. Bút pháp nghệ thuật là cách dùng chữ, cách bố cục, cách sử dụng các phương tiện biểu hiện để tạo thành một hình thức nghệ thuật hoàn chỉnh trong tác phẩm. Do trực tiếp gắn với lối viết, cách viết nên khái niệm bút pháp có phần tương đồng với khái niệm phong cách, văn phong, tuy nhiên nó chỉ là yếu tố của phong cách” [10; tr. 20]. Như vậy, nghĩa đen của bút pháp nghệ thuật là cách nói, cách viết. Nói một cách khái quát hơn đó là cách dùng chữ, cách hành văn. 1.1.1.3. Theo tác giả Hoàng Phê trong Từ điển tiếng Việt: “Bút pháp là cách dùng ngôn ngữ hoặc đường nét, màu sắc, hình khối, ánh sáng để biểu hiện hiện thực, thể hiện tư tưởng trong tác phẩm nghệ thuật” [36; tr. 34]. Ở đây, bút pháp nghệ thuật là cách sử dụng chất liệu ngôn từ để biểu hiện hiện thực và tư tưởng. Tóm lại, khái niệm bút pháp nghệ thuật có thể hiểu là cách dùng chữ, cách hành văn, cách bố cục, cách sử dụng các phương tiện biểu hiện để tạo thành một hình thức nghệ thuật hoàn chỉnh phản ánh, biểu đạt nội dung tư tưởng của tác phẩm.
  • 14. ngụ tình Trước hết chúng ta cần phải hiểu “cảnh” là gì? Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà Nẵng, 2009), cảnh là “toàn bộ sự vật, hiện tượng bày ra trước mắt ở một nơi, một lúc nào đó”. Cảnh là một không gian, nên nó được coi là không gian tự nhiên hoặc không gian nhân tạo. Cảnh là một tổng thể các sự vật, hiện tượng cùng tồn tại trong một khoảng không – thời gian xác định. Một cảnh được hội tụ bởi các yếu tố: không – thời gian và người quan sát. Bởi vì cùng một không – thời gian xác định, người quan sát khác nhau sẽ có những cảnh không giống nhau. Cũng trong Từ điển tiếng Việt, tác giả Hoàng Phê đã nêu ra 18 trường hợp xuất hiện từ cảnh, trong đó có 4 trường hợp từ “cảnh” chỉ yếu tố thiên nhiên. Chẳng hạn “cảnh sắc” được hiểu là “cảnh thiên nhiên với những nét riêng đặc sắc của nó” và “cảnh tượng” được hiểu là “cảnh bày ra trước mắt và gây những ấn tượng nhất định” [36; tr. 150 – 151]. Như vậy, cảnh được hiểu là những yếu tố thiên nhiên tồn tại bên ngoài đời sống của con người. Con người có thể quan sát, mô tả lại theo sự hình dung và tưởng tượng của mình. Thứ hai là “tình”. Cũng theo tác giả Từ điển tiếng Việt, “tình” cũng có khoảng 35 trường hợp xuất hiện. “Tình” vừa có vai trò là tính từ vừa có vai trò là động từ. Trong trường hợp này “tình” đóng vai trò là tính từ. Theo ông Hoàng Phê, “tình” mang nghĩa tính từ chỉ “tình cảm, hoàn cảnh” [36; tr. 1279] của con người. Đây chính là những trạng thái nhận thức thuộc về tâm lí và điều kiện tồn tại của con người trong một trạng thái nhất định. Tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh vật để gửi gắm (ngụ) tâm trạng, cảnh không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Cảnh chỉ là phương tiện còn miêu tả tâm trạng là mục đích chính. Tả cảnh ngụ tình là một thủ pháp nghệ thuật của tác giả xưa nay. Tuy nhiên, trong một bài thơ, đoạn thơ, không phải đoạn tả cảnh nào cũng ngụ tình, cũng có những đoạn thuần túy tả cảnh.
  • 15. miêu tả tâm trạng, các tác giả còn bộc lộ tư tưởng, cảm xúc và suy nghĩ của mình về các vấn đề xã hội. Đây là biện pháp thường thấy của những tác phẩm thơ ca thời trung đại. 1.1.3. Bút pháp tả cảnh ngụ tình Bút pháp tả cảnh ngụ tình là cách dùng chữ, cách hành văn, cách bố cục, cách sử dụng phương tiện biểu hiện là cảnh vật thiên nhiên để tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật phản ánh tâm trạng nhân vật hoặc tâm trạng tác giả. Đồng thời còn bộc lộ cảm xúc của các tác giả về các vấn đề trong xã hội. Qua đó làm nổi bật nội dung tư tưởng cũng như bức thông điệp của tác giả trước cuộc đời. Tác dụng: tình ý trong văn bản hàm súc, sâu sắc, kín đáo mà vẫn chứa sức gợi và tạo liên tưởng cho người đọc. 1.1.4. Thể loại ngâm khúc và truyện thơ Nôm 1.1.4.1. Tìm hiểu khái niệm Khúc ngâm là một thể loại văn học lớn, độc đáo trong văn học trung đại Việt Nam. Khúc ngâm biểu hiện sâu sắc tư tưởng, tình cảm của con người Việt Nam. Đặc biệt, khúc ngâm diễn tả từng nếp gấp, chiều sâu trong tâm trạng con người, nhất là khi con người phải trải qua những biến cố dữ dội của cuộc đời, phải đối mặt với những đau thương, mất mát của số phận. Ngay từ khi mới xuất hiện, ngâm khúc đã được quan tâm đánh giá và tìm hiểu. Kể từ đó đến nay, các nhà nghiên cứu văn học vẫn không ngừng tìm hiểu ở những cấp độ khác nhau, đã đem lại cho người đọc nhiều lý thú và bổ ích về thể loại độc đáo này. Gần đây nhất, trong luận án Tiến sỹ Khúc ngâm song thất lục bát những chặng đường phát triển của nghệ thuật, Đào Thu Thủy đã có cái nhìn khái quát quá trình nghiên cứu khúc ngâm từ khi xuất hiện đến năm 2008. Luận án trình bày: Ngâm khúc ra đời trên cơ sở kết tinh nỗi buồn sâu đậm với thân phận khổ đau của người phụ nữ. Đồng thời công trình cũng đã tái hiện lại diện mạo và chỉ ra đặc điểm của thể loại ngâm khúc trên tiến trình phát triển từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XX. Như vậy, ngâm khúc là “thể thơ trữ tình dài hơi, thường được làm theo thể song thất lục bát để ngâm nga, than vãn nhằm bộc lộ những tâm trạng, tình
  • 16. đau xót triền miên day dứt. Vì thế thể ngâm khúc còn được gọi là khúc, vãn hay thán”[10; tr. 198]. Truyện thơ Nôm là thể loại tiêu biểu trong văn học Việt Nam thời kì trung đại. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều định nghĩa về thể loại truyện thơ Nôm. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu định nghĩa của tác giả Đinh Thị Khang trong cuốn Văn học Việt Nam trung đạivề truyện Nôm: “Truyện Nôm là loại hình tự sự bằng thơ dùng văn tự Nôm, có tác phẩm được viết bằng thể thơ Đường luật. Nhưng phổ biến là các tác phẩm được viết bằng thơ lục bát được gọi là truyện Nôm… Truyện Nôm là loại hình tác phẩm tự sự, phản ánh cuộc sống xã hội thông qua sự trình bày, miêu tả có tính chất hoàn chỉnh vận mệnh, tính cách nhân vật bằng một cốt truyện với hệ thống biến cố sự kiện”. Có thể nói, đặc điểm nổi bật của thể loại truyện thơ Nôm “ là có cốt truyện, là tính tự sự và tính có vần” [30; tr. 52 ]. Chủ đề của ngâm khúc và truyện Nôm lấy số phận người phụ nữ là cảm hứng sáng tác chính. Qua đó, các tác giả cảm thông với khát vọng yêu đương tự do, nhu cầu giải phóng tình cảm, giải phóng cá nhân, đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc...Một trong các phương tiện nghệ thuật thể hiện nội dung, tư tưởng của ngâm khúc và truyện Nôm chính là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Với đặc trưng riêng, bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc biệt thành công trong việc thể hiện nỗi sầu muộn, triền miên, thống thiết và ý thức, khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ. Thông qua đó, các tác giả đặt ra những vấn đề mang tính xã hội rộng lớn. Vì vậy, việc tìm hiểu bút pháp tả cảnh ngụ tình trong trong các khúc ngâm và truyện thơ là vấn đề cần thiết, giúp ta có điều kiện hiểu thêm về nội dung tư tưởng cũng như đặc trưng của hai thể loại tiêu biểu và độc đáo này. 1.1.4.2. Cơ sở hình thành Từ khi chế độ phong kiến Việt Nam hình thành cho đến thế kỉ XV là khoảng thời gian nhà nước phong kiến phát triển hưng thịnh. Nhưng từ thế kỉ XVI – XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng, khởi nghĩa nông dân nổ ra liên miên, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Chưa bao giờ giai cấp phong kiến Việt Nam lại bộc lộ bản chất tàn bạo, phản động sâu sắc và toàn diện như ở cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Tình hình chính trị nhiều biến động đã kéo theo sự phá sản của ý thức hệ phong kiến. Xã hội đương thời xuất hiện một luồng tư
  • 17. là tư tưởng nhân đạo, tinh thần dân chủ, ý thức cá nhân phát triển mạnh mẽ chi phối tinh thần thời đại. Con người bắt đầu có ý thức về bản thân và có những khát vọng chính đáng: tình yêu đôi lứa, quyền mưu cầu hạnh phúc, thoát khỏi những ràng buộc về tinh thần... Bên cạnh sự phát triển tư tưởng mới của thời đại trong văn học là sự thay đổi về quan niệm thẩm mĩ. Trước thế kỉ XVI, hình tượng trung tâm của văn học là người anh hùng cứu nước, người quân tử và liệt nữ. Đến thế kỉ XVII- XVIII đã xuất hiện hình tượng người phụ nữ với tâm trạng buồn thương, sầu nhớ và chịu nhiều thiệt thòi, song song với hình tượng các nhà nho ẩn dật, nhà nho tài tử. Sang đến thế kỉ XVIII, tư tưởng nhân văn trong văn học được biểu hiện sâu sắc qua các tác phẩm tiêu biểu như Chinh phụ ngâm khúc(bản diễn Nôm), Đoạn trường tân thanh(Nguyễn Du)... Đáp ứng yêu cầu của thời đại, văn học thế kỉ XVIII đã lựa chọn những hình thức thể nghiệm mới thể hiện tiếng nói của thời đại, trong đó có truyện Nôm và khúc ngâm. Tiểu loại của truyện Nôm là truyện Nôm tài tử giai nhân xoay quanh cảm hứng ngợi ca tình yêu tự do giữa tài tử và giai nhân. Thông qua số phận các nhân vật, tác giả muốn ca ngợi tình yêu tự do và đòi lại quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc cho con người, đặc biệt là người phụ nữ. Khúc ngâm ghi lại nỗi đau của người phụ nữ với rất nhiều cảnh ngộ bi thương của số phận, không có được tình yêu, hạnh phúc, bị đối xử không công bằng, không được hưởng những quyền tự do tối thiểu . 1.1.4.3. Đặc điểm nội dung Truyện Nôm tài tử giai nhân xoay quanh truyện tình yêu nam nữ vượt ra ngoài ràng buộc của lễ giáo, quan niệm đạo đức xã hội. Truyện xây dựng theo khuynh hướng ca ngợi tình yêu tự do của đôi trai tài gái sắc với cảm hứng lãng mạn. Các khúc ngâm viết về người phụ nữ với tâm trạng buồn đau, sầu muộn triền miên. Họ tiếc hạnh phúc đã mất, tiếc những giá trị của con người như nhan sắc, tuổi trẻ, tài năng, đức hạnh...Họ thương mình mất mát, thiệt thòi, vất vả, thương mình cô đơn. Nỗi tiếc thương trong khúc ngâm chính là tiếng nói khát khao hạnh phúc, đòi quyền sống chính đáng của con người.
  • 18. biểu:Truyện Hoa Tiên, Truyện Kiều (Nguyễn Du), Chinhphụ ngâm (Đặng Trần Côn), Cung oán ngâm (Nguyễn Gia Thiều), Ai tư vãn, Bần nữ thán... 1.1.4.4. Đặc điểm nghệ thuật Đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong truyện Nôm tài tử giai nhân là kết cấu cốt truyện và nghệ thuật xây dựng nhân vật. Đó là kết cấu đơn tuyến và theo trình tự trước sau. Công thức của cốt truyện truyện thơ Nôm thường là: gặp gỡ- tai biến- đoàn tụ. Hai yếu tố đó nhằm đi sâu tìm hiểu thế giới bên trong của con người. Bút pháp được sử dụng phổ biến là bút pháp ước lệ, tượng trưng. Ngôn ngữ trong truyện Nôm bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật. Các phương tiện nghệ thuật thể hiện trong các khúc ngâm là nghệ thuật trùng điêp: điệp từ, điệp ngữ, điệp khổ thơ. Ngôn ngữ nghệ thuật với hệ thống từ ngữ trực tiếp chỉ tâm trạng và các từ láy chỉ tâm trạng đã làm nên thành công của các khúc ngâm. Thể thơ song thất lục bát cùng với sự đặc biệt trong cách gieo vần đã tạo nên giá trị thẩm mĩ của việc liên kết các khổ thơ. Đó cũng là thành tựu rực rỡ của các các khúc ngâm song thất lục bát. Tiêu biểu cho thể loại truyện thơ Nôm và ngâm khúc của văn học trung đại Việt Nam là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Bút pháp này đã chứng minh được khả năng to lớn trong việc thể hiện tâm trạng con người và biểu đạt khát vọng đòi quyền sống, quyền tự do yêu đương, quyền được hưởng hạnh phúc... Tóm lại, cùng là thể loại văn học được sáng tạo từ thể thơ dân gian, nhưng truyện Nôm thuộc loại hình tự sự, phản ánh cuộc sống thông qua cốt truyện, tính cách nhân vật, sự việc...Còn ngâm khúc thuộc loại hình trữ tình phản ánh cuộc sống thông qua tâm trạng nhân vật trữ tình. Đây đều là hai thể loại độc đáo và tiêu biểu của văn học Việt Nam thời trung đại. 1.2. Từ tƣ tƣởng Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đến quan niệm “thiên nhân hợp nhất” trong văn học trung đại 1.2.1. Quan niệm của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo về quan hệ giữa tự nhiên và con người
  • 19. hoang của loài người, để tìm chỗ dựa và niềm ai ủi cho những hiểu biết còn rất ít ỏi của mình, con người thường có tâm lý thần thánh hóa sức mạnh của thiên nhiên. Sự thần hóa của phương Tây có tính chất hướng ngoại, còn phương Đông dần theo chiều hướng nội - ông Trời (thiên) có sự cảm thông qua lại với con người (thiên nhân tương cảm). Chữ“Thiên” thường được hiểu theo ba nghĩa chính là “Thần linh chi thiên”, “Tự nhiên chi thiên” và “Đạo lý chi thiên”. Dù mang nghĩa nào cũng thể hiện sự gắn bó với con người. Trong sách Thượng thư có ghi Trời đã bày cho Đại Vũ các phép trị nước. Đây là bước đầu tiên của quan niệm “thiên nhân hợp nhất”. Hàng thiên niên kỷ sau, trong sách Kinh Dịch đã phản ánh sự dần dần thoát khỏi quan niệm “Thần linh chi thiên” chuyển sang quan niệm “Tự nhiên chi thiên” và khẳng định con người là một bộ phận của thiên nhiên. Nhưng hiểu theo nghĩa nào thì Kinh Dịch vẫn thể hiện quan niệm “thiên nhân hợp nhất”. Đến thời Chiến quốc, Kinh Dịch là di sản tư tưởng đối với cả Nho gia và Đạo gia. Mạnh Tử cho rằng “tính bản thiện” do “thiên phú”, Trang Tử cho rằng “ta cùng sinh ra với trời đất, vạn vật với ta là một” (Tề vật luận). Nếu Nho gia nhân hóa ông Trời thì Đạo gia lại tự nhiên hóa con người, nhưng đều là biểu hiện của “thiên nhân hợp nhất”. Đến đời Hán với Đổng Trọng Thư, “thiên nhân hợp nhất” lại biến thành “thiên nhân tương cảm”. Đời Tống, Trương Tải cho rằng “khí” là cơ sở của “thiên nhân hợp nhất”- Trời tự nhiên, song Trình Di Hạo lại cho là “lý” có trước khí, là cơ sở của “thiên nhân hợp nhất”- Trời đạo lý. Đến đời Thanh, Vương Phu Chi khôi phục lại quan niệm của Trương Tải. Có thể thấy, trải qua mấy thiên niên kỷ, người Trung Hoa vẫn không thoát khỏi mô thức tư duy “thiên nhân hợp nhất”. Nho giáo nghiêng nhiều về “Đạo lý chi thiên” – ông Trời đạo lý. Khổng Tử dạy rằng: “Trời sinh ra đạo đức cho ta”, “Muốn biết người không thể không biết trời”. Vì thế văn của con người phải tìm đến gốc trong văn của đất trời. Trong tập đại thành của quan niệm văn học Nho gia, Văn tâm điêu long, ngoài Nguyên đạo còn có Trưng thánh và Tôn kinh. Theo Nho gia, từ Đạo của trời đến văn người phải trải qua trung giới là Thánh với Kinh. Vì vậy, thực chất của quan niệm văn học Nho gia là quán triệt “kinh thánh” với các công thức như “Văn dĩ tải đạo”, “Văn dĩ minh đạo”, “Văn dĩ quán đạo”... vẫn nằm chung trong mô thức “thiên nhân hợp nhất”.
  • 20. về “Tự nhiên chi thiên” – ông Trời tự nhiên. Lão Tử trong Đạo đức kinh nói: “Đạo thường không có tên, rất chất phác”, “Chất phác thì thiên hạ mới không ganh đẹp với mình”(Nam hoa kinh. Trang Tử) và “Tự nhiên, không thái quá thì cái đẹp sẽ theo về” (Nam hoa kinh. Trang Tử). Đạo gia dựa vào quan niệm “vô vi”, phát huy tinh thần độc thiện. Cả Lão Tử và Trang Tử cho rằng tinh thần “hữu vi” chỉ mang lại sự bó buộc cho con người. Với chủ trương “vô vi”, Đạo gia chọn phương thức sống “đạo pháp tự nhiên”, không làm trái với quy luật tự nhiên, không can thiệp vào tự nhiên. Để trở về trạng thái “chất phác”, “anh nhi”, con người phải “vô tư, vô dục”, “bất tranh”, không bộc lộ sắc sảo, chọn cuộc sống gần gũi với tự nhiên. Cho nên, tính chất “thiên nhân hợp nhất” trong lý luận thẩm mĩ và nghệ thuật thể hiện ngay trong “Đạo đức tự nhiên” (Học theo phép tắc của tự nhiên). Còn Thiền gia với tư cách là Phật giáo thường nói “Phạn nhân hợp nhất” (Đạo Phạn của trời đất hợp nhất với con người). Hiệu Năng, thủy tổ của Thiền gia từng nói: “Trời đất với ta cùng gốc rễ, vạn vật với ta là nhất thể” (Niết bànThiên đài tông).Đạo Thiền chứa đựng khả năng thu phục lòng người một cách vô biên: “Hàng trăm hàng ngàn pháp môn đều có thể thu về trong gang tấc, hằng hà sa số đạo đức kỳ diệu đều quy về lòng người” (Ngũ đăng hội nguyên). Cho nên không ngẫu nhiên người ta đưa Thiền vào thơ, dựa vào Thiền để bàn về thơ. Đó cũng là một dạng biểu hiện của “thiên nhân hợp nhất” trong văn học nghệ thuật. Như vậy, trong quan niệm của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên và con người. Quan niệm “thiên nhân hợp nhất” được thể hiện từ tư tưởng triết học đến mỹ học và thi học đã hình thành một loại “siêu triết học” – tinh thần văn hoá, văn học trong thời kì trung đại Việt Nam. 1.2.2. Quan niệm sống gần gũi với thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm hình mẫu cho con người của các nhà nho thời trung đại Trong thực tiễn sáng tác của các nhà nho thời trung đại, bộ phận thơ viết về đề tài thiên nhiên không những nhiều về số lượng mà còn khá đa dạng. Do chịu ảnh hưởng của tư tưởng “thiên nhân hợp nhất” nên giữa con người và thiên nhiên luôn có mối quan hệ tương giao, tương cảm. Dù là loại hình nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật hay nhà nho tài tử thì họ đều thể hiện tình cảm yêu mến phong cảnh thiên nhiên, ước vọng được chiêm ngưỡng cảnh non xanh nước biếc, sơn thủy hữu tình.
  • 21. “Trí giả nhạo sơn, nhân giả nhạo thủy” (bậc trí giả thích cảnh sông nước, bậc nhân giả thích cảnh núi non) (Luận ngữ). Các nhà nho luôn coi “thiên nhiên là trung tâm, là ngọn nguồn ban phát các phẩm chất của nó cho con người. Thiên nhiên là mẫu mực để hình dung ngoại hình con người. Bức tranh thiên nhiên được sử dụng để miêu tả tình cảm và nội tâm của con người” [46 tr. 371]. Nhà nho thưởng thức thiên nhiên luôn gắn liền với phương diện đạo đức. Khổng Tử nói: “Tuế nhàn nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã” (tiết lạnh đến mới hay cây tùng, cây bách là những cây điêu tàn sau nhất). Các nhà nho thời trung đại ảnh hưởng tư tưởng này, họ mượn cảnh thiên nhiên để gửi gắm phẩm chất đạo đức cao quý của mình. Từ thực tế sáng tác thơ thiên nhiên của các nhà Nho, nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc nhận xét: “Theo quan niệm của Nho giáo, cái mẫu mực thuộc về quá khứ, và cái trong sạch chủ yếu lại ở trong thiên nhiên. Các nhà nho theo quan niệm xuất xử của Nho giáo, gặp thời thịnh trị thì ra làm việc, phò vua giúp nước, gặp thời loạn thì lui về ở ẩn, lấy thiên nhiên để di dưỡng tính tình. Họ tìm thấy trong thiên nhiên những phẩm chất cao quý của con người theo quan niệm của Nho giáo: cây tùng là hình ảnh của người đại trượng phu, cây trúc là hình ảnh của người sĩ quân tử, cúc, mai là biểu hiện của sự trong trắng, tinh khiết; ngư, tiều, canh, mục là những nghề trong sạch; tuyết, nguyệt, phong, hoa là những cái thú thanh tao... Họ làm thơ vịnh thiên nhiên là vì vậy” [23; tr. 85]. Có thể thấy thơ vịnh cảnh xuất hiện khá nhiều trong văn học trung đại Việt Nam. Dường như nhà nho nào khi làm thơ cũng ít nhiều thử bút ở đề tài vịnh cảnh. Thơ vịnh cảnh vừa để thi nhân thi triển tài năng vừa trở thành mĩ tục của thi sĩ trung đại. Bởi lẽ, nhà nho bộc lộ cảm xúc của mình trước thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá nhưng không chỉ dừng lại ở việc vịnh cảnh thuần túy. Đằng sau cảnh ấy là bóng hình của một kẻ sĩ có khi thể hiện khát vọng kinh bang tế thế khi trí lớn gặp hội rồng mây. Chẳng hạn như khí thế ba quân của vua tôi nhà Trần lấn át cả sao Ngưu trong bài Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão. Hay như bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu cũng xuất hiện một nhân vật trữ tình với phong thái ung dung tự tại mà không kém vẻ lãng mạn trước mênh mang trời nước hùng vĩ:
  • 22. chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết …………………………………. Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo Mặc dù là cuộc thăm lại chiến trường nhưng Trương Hán Siêu vẫn làm sống dậy khí thế hừng hực của hào khí Đông A sát thát một thời. Thiên nhiên lúc đó cũng chao đảo bởi khí thế đánh giặc anh dũng: “Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/Bầu trời chừ sắp đổi”. Để rồi khép lại bài phú nhưng tác giả vẫn dùng hình ảnh dòng sông Bạch Đằng như một biểu tượng bất diệt để ca ngợi chiến thắng của vua tôi nhà Trần vừa khẳng định sự trường tồn của giang sơn: Sông Đằng một dải dài ghê, Sóng hồng cuồn cuộn trôi về bể Đông. Thiên nhiên còn trở thành người bạn tri kỉ, thành biểu tượng thiêng liêng trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. Ông đối thoại với cây tùng, cây mai mà thực chất là đang độc thoại với chính mình: “Thu đến cây nào chẳng lạ lùng/Một mình lạt thủa ba đông/Lâm tuyền ai dặng già làm khách/Tài đống lương cao, ắt cả dùng” (Tùng, bài 1). Và“…Càng thủa già càng cốt cách/Một phen giá một tinh thần/ Người cười rằng kém tài lương đống/Thủa việc điều canh, bội mấy phần” (Mai). Thi nhân Nguyễn Trãi đã nhìn thấy ở cây tùng, cây mai những phẩm chất của người quân tử, của kẻ tôi trung. Đó là sự cứng cỏi không bị thay đổi trước hoàn cảnh, luôn vươn lên trong khó khăn để cống hiến lợi ích cho đời. Hình ảnh tùng, mai trở thành tấm gương nhắc nhở kẻsĩ về sự rèn luyện, cống hiến. Người quân tử lấy đó là gương để nhắc nhở bản thân, coi đó là những phẩm chất đáng quý cần được bảo toàn. Theo giáo sư Bùi Văn Nguyên, đây là lối thơ tả cảnh ngụ tình mà các nhân sĩ xưa thường thông qua sự vật để nói lên nỗi lòng của mình. Một số cây với một số đặc tính của nó được chọn làm đối tượng nghệ thuật như: tùng, trúc, mai. Các nghệ sĩ ghép ba cây đó vào một bộ để làm thơ hay để vẽ tranh, gọi là tuế hàn tam hữu
  • 23. tam hữu (ba người bạn mùa rét)… “Có thể người ta cho rằng tùng, được tôn là đại phu tùng có tính chất cứng rắn, thẳng thắn, trúc được tôn là quân tử trúc, vốn ruột trống nên rộng lượng bao dung; còn mai, được tôn là ngự sử mai lại giống như người học giỏi nhất thiên hạ và làm công việc thanh tra, giám sát rất bao quát” [29; tr. 323]. Có khi thi nhânlại soi ngắm lại mình trước thiên nhiên, tìm về chốn thiên nhiên để vui thú điền viên, phó mặc sự đời. Thiên nhiên trong thơ Trần Nguyên Đán cũng mang nặng bầu tâm sự của một vị trọng thần trong buổi triều đình suy vong: “Thân ta cùng đám mây cô đơn mãi mãi lưu luyến hốc núi,/Lòng giống như mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng./Mùi khói thông sắp hết, khói trà đã tắt,/ Một tiếng chim bên suối làm tỉnh mộng xuân” (Xuân đán). Ẩn dật còn là thái độ lánh đời, tìm về thiên nhiên để nhà nho di dưỡng tính tình, bảo toàn khí tiết. Đó có thể là một Côn Sơn với mây ngàn hạc nội, phách suối đàn thông, là nơi mà Nguyễn Trãi được trở về với chính mình, về với đời sống thanh cao để thả hồn vào thiên nhiên. Như vậy, các nhà nho thời trung đại, do ảnh hưởng của tư tưởng “thiên nhân hợp nhất” nên giữa con người và thiên nhiên luôn có sự tương thông, gặp gỡ. Trạng thái hợp nhất giữa con người và thiên nhiên chính là trạng thái hợp nhất giữa thiên nhiên và phạm trù đạo đức của con người Nho giáo. Cho nên, có thể khẳng định các nhà nho thời trung đại lấy thiên nhiên làm hình mẫu cho con người trong các sáng tác văn chương của mình. 1.2.3. Bút pháp tả cảnh ngụ tình như một biểu hiện của tư tưởng người và cảnh tương cảm Để biểu hiện tư tưởng người và cảnh tương cảm có thể sử dụng nhiều bút pháp nghệ thuật như bút pháp ước lệ, bút pháp tả thực, bút pháp tả cảnh ngụ tình... Trong đó bút pháp tả cảnh ngụ tình là một phương tiện biểu hiện rõ nét và sâu sắc cho tư tưởng người và cảnh tương cảm. Bút pháp tả cảnh ngụ tình đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời đưa tâm hồn con người đến với cảnh, tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều
  • 24. người, giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai. Điều này khác hẳn với những thi sĩ phương Tây vốn rất thiện nghệ trong lối tả cảnh ngụ tình. Tư duy “thiên nhân hợp nhất” dường như đã ăn sâu vào đời sống tinh thần con người. Bởi lẽ con người bên cạnh sự tồn tại với những mối quan hệ xã hội, với tam cương, ngũ thường trong xã hội Nho giáo thì cũng tồn tại song hành và gần gũi với thiên nhiên. Thiên nhiên vừa cung cấp những nhu cầu vật chất cho con người vừa mang chứa những giá trị thẩm mĩ nhất định mà con người cảm nhận được từ đó. Bởi ngoài mục đích tồn tại, con người còn có vô số nhu cầu về tình cảm. Ngao sơn ngoạn thủy, lên ngàn xuống biển cũng là một trong những thú vui tinh thần để con người đạt đến sự cân bằng trong đời sống tinh thần. Không chỉ có vậy, trong những hoàn cảnh nhất định với những trạng thái tâm lí khác nhau cũng ảnh hưởng đến cái nhìn của con người với thiên nhiên. Hay những hiện tượng tự nhiên vô tình đã trở thành nguyên nhân khơi gợi và tô đậm thêm trạng thái tình cảm của con người. Với Nguyễn Phi Khanh, sự lận đận trên đường hoạn lộ ít nhiều đã gây lên tâm trạng vừa buồn, vừa băn khoăn, háo hức của một chàng trai trẻ. Có thể thấy sự hòa lẫn cảnh và tình, giữa con người và thiên nhiên trong bài Xuân hàn: “Mây đọng ùn ùn, mù sa nặng trĩu/Trận rét cuối mùa, mấy ngày âm u/Tơ liễu dính trên cây, đeo chuỗi nước mưa thành vệt/Chim đậu bên hoa, thường xuân lặng tiếng/ Thư phòng vắng vẻ, chỉ có việc cao gối/Việc đời dằng dặc, chính lúc ôm chăn/ Mong sao thân này được như cái ống bễ/Thổi ngọn gió hòa vào khắp lòng người chín châu”. Nếu mùa xuân thường gợi đến vẻ ấm áp, triển nở vui tươi thì với ông, mùa xuân vẫn là sự rét mướt, lạnh lùng. Chính khung cảnh u ám, buồn tẻ này đã khiến thi nhân liên tưởng đến con đường hoạn lộ gập ghềnh của mình. Gánh nặng công danh vẫn canh cánh trong lòng, chí làm trai vẫn hăm hở thi thố tài năng để giúp đời nhưng vận số chưa đến nên thân tuy nhàn nhưng lòng người không an lạc. Hoàn cảnh ấy khiến thi sĩ liên tưởng đến hình ảnh chú chim đậu bên nhành hoa mà vẫn im lặng chưa cất lên tiếng hót bởi còn đợi ánh dương ấm áp của mùa xuân.
  • 25. còn mang tính kí hiệu, mang tính quy ước. Nhà thơ thường chủ động tìm đến và lựa chọn những khung cảnh thích hợp để diễn tả tâm trạng. Chẳng hạn như nói đến sự chia li thường chọn những nơi biên ải, nơi bến sông và thường diễn ra vào mùa thu. Một ví dụ tiêu biểu: khi Kiều từ biệt Thúc Sinh, Nguyễn Du đã để cho hai nhân vật này chia tay nhau trong khung cảnh: Người lên ngựa, kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Sự lựa chọn bối cảnh không gian nơi biên ải vừa gợi sự cách trở, vừa gợi sự chia li và cảm giác xa xôi. Thời gian mùa thu cũng mang đến cho tâm hồn con người một nỗi buồn man mác. So với các mùa quanh năm, mùa thu không gợi cảm giác ấm áp như mùa xuân, không quá mạnh mẽ như mùa hè và không khắc nghiệt như mùa đông. Bản thân mùa thu vừa êm ả, đất trời có vẻ tĩnh mịch. Đặc biệt những hiện tượng cỏ cây vào mùa thu thường thay lá với màu vàng gợi sự tàn phai, mỏng manh nên dễ đi vào tâm hồn con người. Cảnh đó đem đến cho tâm hồn con người một nỗi buồn khó diễn tả. Cảm giác đó được Nguyễn Du miêu tả rất tài tình trong Văn tế thập loại chúng sinh: “Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,/Toát hơi may lạnh buốt sương khô./Não người thay cảnh chiều thu,/Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng…/Lòng nào lòng chẳng thiết tha/Cõi dương còn thế nữa là cõi âm”. Chính những hiện tượng tự nhiên này đã khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ sự đồng cảm đến những thân phận con người “mảnh thân chiếc lá”. Dù xuất thân từ đâu, dù công hầu khanh tướng, mũ cao áo dài nhưng tất cả họ đều không thoát khỏi giới hạn của cái chết. Đặc biệt những cái chết đều mang tính bất ngờ, tức tưởi và oan khiên do “một phen thay đổi sơn hà”. Chính mùa thu và tục cúng chúng sinh ngày rằm tháng bảy đã khơi dậy ở Nguyễn Du cảm hứng nhân văn và triết lí hiện sinh về tồn tại kiếp người. Cùng là cảnh ấy, nhưng với sự nhạy cảm của tâm hồn nguyễn Du, ông đã bắt được cái thần của cảnh, thấy được trong những hiện tượng tự nhiên (heo may, mưa dầm, lá ngô vàng…) sự tương cảm cùng với mình. Bởi bản thân ông vốn xuất thân công hầu nhưng cuộc sống của ông cũng chìm nổi theo cơn
  • 26. cuồng của thời đại. Hơn ai hết, Nguyễn Du cảm thấy một cách sâu sắc nhất về sự ngẫu nhiên, bất tất của cuộc sống và tồn tại kiếp người. Cũng là mùa thu nhưng với nhà nho ẩn dật Nguyễn Khuyến, cảnh ấy lại mang đầy tâm trạng của một nhà nho ưu thời. Trong chùm thơ thu: Thu điếu, Thu ẩm nổi bật trong bức tranh thiên nhiên mùa thu là tâm trạng của nhân vật trữ tình đang mải suy tư về thời thế: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt/Ngõ trúc quanh co khách vắng teo/Tựa gối ôm cần lâu chẳng được/Cá đâu đớp động dưới chân bèo”(Thu điếu). Hay: “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt/Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe” (Thu ẩm). Thiên nhiên dường như trở thành những bức tranh được đóng khung lại bởi vẻ đẹp đặc trưng của mùa thu. Cảnh đẹp mà buồn. Cảnh đó đã nhuốm màu tâm trạng của nhân vật trữ tình nên màu thu vừa vắng vẻ, quạnh hiu dưới cái nhìn của một nhà nho về quê ở ẩn. Nhưng cảnh đó như gợi thêm nỗi sầu đang thường trực, ẩn chứa sau đôi mắt “không vầy cũng đỏ hoe” của ông lão câu cá Nguyễn Khuyến. Con người và cảnh vật thực sự trở thành đôi bạn tri kỉ trong thơ của các nhà nho Việt Nam thời trung đại. Cảnh vật vừa là nơi nhà thơ tìm đến như một người bạn tâm giao, vừa là nguồn cảm hứng để nhà thơ diễn tả tâm trạng mình. Mối quan hệ giữa thi nhân với cảnh vật, thiên nhiên vì thế không đơn thuần là mối quan hệ giữa hai yếu tố độc lập Thiên – Nhân trong vũ trụ. Trên hết đây chính là mối quan hệ tình cảm của con người trước thiên nhiên và thiên nhiên luôn mang tới những xúc cảm thẩm mĩ cho tâm hồn con người. Cảm hứng sáng tác của nhà thơ vì thế mà dồi dào, phong phú. Tiểu kết Chương 1 Có thể thấy, bút pháp tả cảnh ngụ tình như một biểu hiện của người và cảnh tương cảm. Khúc ngâm và truyện Nôm là hai sản phẩm của thời đại phong kiến suy thoái. Với sự ra đời của hai thể loại này đã tạo nên đời sống văn học vừa phong phú về quy mô tác phẩm, vừa khẳng định sự đổi mới trong nội dung phản ánh của văn chương.
  • 27. Thiên – Nhân hợp nhất vốn được các tôn giáo trình bày, thiên nhiên, cảnh vật từ chỗ là những sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan với tư duy con người đã trở thành phương tiện để người nghệ sĩ trung đại gửi gắm những ý đồ nghệ thuật của mình vào đó. Cảnh vật đã trở thành đối tượng để người nghệ sĩ chiếm lĩnh và đưa vào thế giới nghệ thuật của mình. Các yếu tố tự nhiên từ chỗ là vật vô tri đã trở thành đối tượng để người nghệ sĩ gửi gắm những mĩ cảm nghệ thuật của mình. Thiên nhiên, cảnh vật trong văn học trung đại vì thế đã mang yếu tố chủ quan của người nghệ sĩ. Sự tồn tại của thiên nhiên, cảnh vật trong tác phẩm văn học đã trở thành những tín hiệu thẩm mĩ, những hình tượng nghệ thuật độc đáo. Tả cảnh ngụ tình trở thành một biện pháp nghệ thuật, một nguyên tắc thẩm mĩ trong văn học trung đại. Tuy nhiên, với mỗi nhà văn, mỗi thể loại khác nhau thủ pháp này lại được vận dụng theo cách riêng của từng phong cách nhà văn.
  • 28. TẢ CẢNH NGỤ TÌNH TRONGVĂN HỌC TRƢỚCTHẾ KỶ XVIII VÀ TRONG CHINH PHỤ NGÂM KHÚC 2.1. Bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn học dân gian và văn học Việt Nam trung đại 2.1.1. Trong ca dao, dân ca “Thiên nhân hợp nhất” – tư tưởng Chu Dịch đã trở thành tiền đề cơ bản trong cách ứng xử, nguồn cảm hứng vô tận của văn học dân gian Việt Nam. Điều đó khẳng định sự thống nhất giữa con người và tự nhiên, con người là một phần của tự nhiên, giữa con người và tự nhiên có mối liên quan, dung hòa, tương cảm. Có thể nói, muốn hiểu biết tình cảm của con người Việt Nam thắm thiết, dạt dào và sâu sắc đến mức nào thì không thể không bàn luận đến ca dao, dân ca. Ca dao là những bài tình tứ, là khuôn mẫu cho lối thơ trữ tình. “Ở ca dao có bài đã thành khúc điệu và có bài chưa thành khúc điệu. Còn dân ca là câu hát đã thành khúc điệu” [50; tr. 4]. Thế giới tâm hồn của người Việt Nam được biểu hiện nhiều mặt trong ca dao, dân ca như: tình yêu nam nữ, yêu gia đình, yêu thiên nhiên, đất nước, tư tưởng đấu tranh của nhân dân trong cuộc sống xã hội... Một trong những bút pháp nghệ thuật chuyển tải vẻ đẹp tâm hồn người Việt là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Qua đó, bạn đọc không chỉ thấy được sự phong phú, tinh tế đời sống tinh thần con người Việt Nam mà còn thấy được phẩm chất của họ trong các cuộc đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh xã hội. Tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh vật để gửi gắm (ngụ) tâm trạng, cảnh không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Đó là tâm trạng ra ngẩn vào ngơ nhưng rất trong sáng của chàng trai: Hỡi cô gánh nước quang mây, Cho anh một gáo tưới cây ngô đồng. Cây ngô đồng cành cao cành thấp, Ngọn ngô đồng lá dọc lá ngang, Quả dưa gang ngoài xanh trong trắng, Quả mướp đắng ngoài trắng trong vàng.
  • 29. gặp được nàng, Lòng càng ngao ngán dạ càng ngẩn ngơ. [50; tr. 270] Khung cảnh lao động và bức tranh thôn dã xinh xắn đã làm nền thành công cho bức tranh tâm trạng. Cô gánh nước quang mây trẻ trung, khỏe khoắn làm chàng trai say sưa. Thiên nhiên như duyên cớ để chàng bày tỏ tình yêu tha thiết, chân thành và say đắm của mình đến mức “Lòng càng ngao ngán, dạ càng ngẩn ngơ”. Hay tâm trạng chờ trông của cô gái trước trùng điệp thiên nhiên: Ngày ngày em đứng em trông Trông non non ngất, trong sông sông dài. Trông mây mây kéo ngang trời, Trông trăng trăng khuyết, trông người người xa. Sự chờ đợi trong vô vọng, càng hy vọng càng thất vọng. Bức tranh thiên nhiên rộng lớn, choáng ngợp, mênh mông càng làm nổi bật sự cô đơn, trống vắng trong tâm trạng nhân vật trữ tình. Sông dài trời rộng gây ấn tượng về sự mênh mang, ngổn ngang trong lòng người. Một loạt điệp từ “trông” cùng thủ pháp liệt kê đặc tả bức tranh thiên nhiên hùng vĩ nhưng đằng sau nó là biển trời thương nhớ, là tiếng lòng thổn thức của trái tim yêu thương mãnh liệt của cô gái dành cho người thương. Như vậy, để biểu hiện tâm trạng phong phú, phức tạp mà tinh tế của nhân vật trữ tình, các tác giả dân gian đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, rất tự nhiên mà hợp lý. Qua đó thấy được sự gắn bó mật thiết giữa thiên nhiên và con người. 2.1.2. Trong thơ Nôm Đường luật Văn học Nôm chính thức có một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học từ thế kỉ XV. Tập thơ còn lại đầu tiên của văn học Nôm Việt Nam là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Truyền thống sáng tác thơ Nôm được nối tiếp bởi hàng loạt các tác giả cùng thời và sau đó như Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Giản Thanh... Cho đến nay tác phẩm tiêu biểu bậc nhất của thơ Nôm trữ tình trung đại thuộc về Quốc âm thi tập. Nguyễn Trãi sử dụng bút pháp tả cảnh thiên nhiên để
  • 30. sắc đời sống tâm hồn với nỗi lòng đau đớn, dằn vặt, cô độc, thất vọng của mình. Thiên nhiên trong thơ ông chứa đầy quan niệm luân lý Nho giáo. Cây tùng tượng trưng cho người quân tử dù hoàn cảnh đổi thay nhưng vẫn không thay lòng biến tiết. Hoa cúc màu sắc không sặc sỡ nhưng hương thơm ngào ngạt, tượng trưng cho kẻ ẩn dật. Hoa cúc đỏ còn tượng trưng cho tính cách trong sạch, thanh cao. Hoa mai vàng nho nhỏ với thân cành thanh thanh biểu trưng cho người quân tử thanh cao, trong sạch: Xuân đến hoa nào chẳng tốt tươi, Ưa mi vì tiết sạch hơn người. Gác đông ắt đã từng làm khách, Há những bô tiên kết bạn chơi. (Mai) Hoa sen cũng tượng trưng cho người quân tử dù ở hoàn cảnh xấu xa vẫn giữ tâm hồn trong sạch: Lòng nhơ chẳng biết tốt hòa thanh Quân tử ham, nhân được thuở danh. Gió đưa hương đêm nguyệt tĩnh, Trinh làm của có ai tranh. (Liên hoa) Trong thơ Nôm Lê Thánh Tông thiên nhiên cũng trở thành phương tiện thể hiện tư tưởng của thi nhân. Dưới triều đại Lê Thánh Tông, triều đình phong kiến được xem là phát triển đến cực thịnh, lối thơ vịnh cảnh, vịnh vật cũng xuất hiện với số lượng lớn. Thiên nhiên trong thơ Lê Thánh Tông cũng mang cảm hứng trong sáng và thể hiện niềm tự hào của một cái tôi thi nhân trước buổi thái bình và niềm tự hào truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc: “Lẻo lẻo doành xanh nước tựa dầu/Trăm ngòi, ngàn lạch chảy về đâu/Rửa không thay thảy thằng Ngô dại/Dịu một lâng lâng khách Việt hầu/Nọ đỉnh Thái sơn rành rạng đó/Nào hồn Ô Mã lạc loài đâu?/Bốn phương phẳng lặng kình bằng thóc/Thong thả dầu ta bủa lưới câu…” (Sông Bạch Đằng, Lê Thánh Tông). Cảnh trời nước mênh mông đã mở ra một không gian thoáng đãng. Dòng sông còn là chứng tích lịch sử vì thế nó trở nên thiêng liêng. Hai câu thơ cuối là sự ung dung tự tại và đầy tự hào của một ông vua
  • 31. bậc minh quân. Đất nước thanh bình, nhà vua - thi nhân được thả hồn mình về với tự nhiên với những thú chài lưới thong dong tự tại. Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của thế kỉ XVI. Ông thường dựa vào thiên nhiên để phát biểu quan niệm triết học hoặc quan niệm nhân sinh. Thơ ông thường thể hiện tình cảm ấm áp, tâm hồn trong trẻo trong sự gắn bó giữa con người và cảnh vật: “Trăng trong gió mát là tương thức,/Nước biếc non xanh ấy cố tri” (Thơ chữ Nôm: bài 90). Hay: “Giang sơn tám bức là tranh vẽ,/Hoa cỏ tư mùa ấy gấm thêu” (Thơ chữ Nôm: bài 3). Bức tranh nông thôn giản dị tươi đẹp tiêu biểu cho cuộc sống của nhà Nho ẩn dật Nguyễn Bỉnh Khiêm, lối sống NHÀN như một lựa chọn đúng đắn trong buổi nhiễu nhương đương thời. Như vậy, có thể thấy rằng trong thơ Nôm Đường luật, bút pháp tả cảnh ngụ tình cũng đã góp một phần không nhỏ trong việc biểu hiện quan niệm sống cũng như tư tưởng của các nhà thơ. 2.1.3. Trong phú Nôm Trong thời trung đại, phú từng là thể loại giữ địa vị quan trọng và sang trọng. Trong Thi pháp văn học trung đại Trần Đình Sử cho rằng: “Đáng chú ý nhất là phú từ một thể loại văn chương bác học cao siêu đã thế tục hóa thành phú chữ Nôm – “Nôm na mách qué” gần gũi và trở thành một thể loại bình dân với hàng loạt tác phẩm khuyết danh, ngang hàng với “thơ Hồ Xuân Hương” khuyết danh, với truyện Nôm khuyết danh. Đây là bước phát triển độc đáo, nó chứng tỏ phú Nôm là thể loại rất được ưa chuộng”. Theo Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long: “Phú có nghĩa là phô bày. Phô bày vẻ đẹp, viết thành văn chương, thể hiện sự vật, thuật tả tình ý”[11; tr. 46]. Phú vốn dĩ phục vụ cho hai nội dung lớn của Nho giáo: ca tụng vị trí tối thượng của vua và tỏ cái chí, cái tâm của kẻ sĩ. Cảnh và tình như hòa quyện với nhau để soi tỏ lý tưởng của kẻ sĩ: Ngàn cây phơi cánh phượng, vườn thượng uyển đóa tốt rờn rờn; Hang nước tưới hàm rồng, nhả ly châu hột săn mục mục Nhựa đông hổ phách, sáng khắp rừng thông Da điểm đồi mồi, giống hòa vườn trúc.
  • 32. bồ lao thốc, gió vật đoành đoành Đền ngọc phiến bối diệp che, mưa tuôn túc túc. (Vịnh Vân Yên tự phú, Huyền Quang) Trong “Đắc thú lâm thuyền thành đạo ca”, giữa thế giới nhộn nhịp, thiền sư biến niềm vui sôi nổi thành niềm vui trong suốt, vĩnh cửu tỏa ra từ nội tâm êm dịu, thanh tịnh đã lưu lại một vẻ đẹp mang phong cách Huyền Quang: Chim chóc bạn cắn hoa nâng cúng; Vượn bồng con kề cửa nghe kinh. Nương am vắng bụt hiện từ bi, gió hiu hiu, mây nhè nhẹ; Ghé song thưa thầy ngồi thiền định, trăng vằng vặc, núi xanh xanh Tìm về với vẻ đẹp mộc mạc của ruộng đồng của nhân vật trữ tình là khuynh hướng chung của phú Nôm. Nhờ ưu thế vốn có của thể loại ta còn thấy một tâm trạng vui tươi, náo nức khi chứng kiến bức tranh kinh thành tươi tắn, thanh lịch: Chợ Hòe đầm ấm; Phố ngọc tần vần. Trai lanh lẹ đá cầu vén áo; Gái éo le rủ yếm dôi quần. Khách Tràng An cưỡi ngựa xem hoa, rợp đường tử mạch; Chàng công tử ngự xe trương tán, rạng mực thanh vân. (Phụng thành xuân sắc phú, Nguyễn Giản Thanh) Rõ ràng, ở thể phú, người viết tự nhận thức mình như một đối tượng quan sát, tạo cơ sở cho cái tôi tự thuật dần hiện hình. Một trong bút pháp để biểu hiện cái tôi tự thuật rõ nét chính là bút pháp tả cảnh ngụ tình. 2.1.4. Trong truyện truyền kỳ Truyền kỳ là một loại truyện ngắn trung đại có nguồn gốc từ Trung Hoa, dùng yếu tố kỳ ảo làm phương thức nghệ thuật để phản ánh cuộc sống. Đây là một thể loại văn xuôi tự sự độc đáo, có sức sống mãnh liệt và lan tỏa ở nhiều quốc gia như Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản...
  • 33. luôn có sự dung hợp thể loại, có sự đan xen giữa thơ, từ, biền văn với tản văn...Truyện truyền kỳ dùng văn xuôi để kể, đến chỗ tả cảnh thì dùng văn biền ngẫu hoặc thơ, từ để nhân vật bộc lộ cảm xúc. Qua đó, thể hiện thế thái nhân tình của đời sống và bộc lộ thái độ nhân sinh của tác giả. Có thể lấy Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ làm minh chứng cho việc dùng thơ tả cảnh để nhân vật bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình. Truyền kỳ mạn lục, một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán vào đầu và giữa thế kỷ XVI, một thời kỳ lịch sử đầy biến động. Truyện vạch trần những biểu hiện hủ bại của chế độ phong kiến, đả kích hôn quân bạo chúa, quan lại tham nhũng, hoặc cảnh ngộ lầm than và đáng thương của người dân lương thiện,hay hạnh phúc đôi lứa..., rõ nét hơn cả là cuộc sống của nho sĩ ở ẩn. Qua hình tượng người ẩn sĩ đã thể hiện lý tưởng của Nguyễn Dữ. Trong Truyện đối đáp của người tiều phu núi Nưa, tác giả mượn hình ảnh người tiều phu núi Nưa để thể hiện lý tưởng cũng như con đường hành xử của nhà Nho. Người tiều phu sống ở ngọn núi cao chót vót trong một cái động “dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hưu, bụi trần không bén tới, chân người không bước tới”. Ngày ngày, tiều phu kiếm củi đổi lấy cái ăn, sống thanh sạch, nhàn tảng “một mai, một cuốc, một cần câu” (Nguyễn Bỉnh Khiêm), không vướng sự đời. Người tiều phu thường hát: - Ngựa xe võng lọng thây ai Nước non riêng chiếm, bụi đời khôn vương... - Từ xưa khanh tướng ngôi cao, Đá mờ mây phủ đã bao nhiêu rồi. Sao bằng ta được thảnh thơi Giấc mai bừng tỉnh, mặt trời lưng không... Không chịu ra làm quan, người tiều phu đã chối từ: “Ta là kẻ dật dân trốn đời, ông lão già lánh bụi, gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng, ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục, bạn cùng ta là hươu nai tôm cá, quẩn bên ta là tuyết nguyệt phong hoa, chỉ biết đông kép mà
  • 34. mây mà ngủ khói, múc khe mà uống, bới núi mà ăn”. Một phong thái độc đáo lạ lùng, hòa với thiên nhiên, đằm mình với thiên nhiên để thưởng ngoạn cuộc sống của kẻ sĩ lánh đục về trong. Thiên nhiên và con người đan hòa, quấn quýt, bầu bạn sẻ chia nỗi niềm thời thế của nhà Nho ưu thời mẫn thế. Người tiều phu núi Nưa cũng như Từ Thức (Từ Thức lấy vợ tiên) luôn thể hiện sự cao đạo của bản thân khi lựa cho mình lối sống giản đơn “một chiếc giường mây”, “một túp lềutranh”, “một lá thuyền nan”, “một mái chèo về” trong cảnh non xanh nước biếc hữu tình thơ mộng của chốn Thiên thai. “Phải là con người có lương tri, quan tâm đến nhân tâm, thế sự, đến vận mệnh của đất nước và đời sống của dân tộc, của nhân dân, thì mới dựng lên được một tác phẩm gắn bó với cuộc đời và con người trong những ước mơ, hy vọng, xót xa, cảm giận... như thế” [16; tr. 328]. Và một trong bút pháp làm nổi bật tư tưởng, cảm xúc đó là bút pháp tả cảnh ngụ tình thể hiện qua văn biền ngẫu và thơ trong tác phẩm truyền kỳ. Như vậy bút pháp tả cảnh ngụ tình đã xuất hiện từ lâu trong văn học Việt Nam. Từ cách so sánh ví von tự nhiên dân dã trong ca dao đến bút pháp mượn cảnh để nói chí, tải đạo trong văn học bác học đã cho thấy sự phát triển trong tư duy người nghệ sĩ. Nếu trong văn học dân gian, cảnh vật hiện lên tự nhiên vốn có mang cái nhìn bình dị và chân thực thì đến văn học thành văn, người nghệ sĩ đã chủ động lựa chọn hình ảnh thiên nhiên phù hợp với ý đồ nghệ thuật của mình. Thiên nhiên vì thế mang cốt cách của nhân vật trữ tình, thể hiện quan niệm “thi dĩ ngôn chí” trong thơ Nôm, “văn dĩ tải đạo” trong văn xuôi và tạo điều kiện thể hiện cái tôi tự thuật trong thể phú. 2.2. Bút pháp tả cảnh ngụ tình trong Chinh phụ ngâm khúc 2.2.1. Sơ lược về tác giả, tác phẩm 2.2.1.1. Tác giả bản chữ Hán Đặng Trần Côn quê ở làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, phía Tây thành Thăng Long, sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII, hiện chưa rõ năm sinh, năm mất.
  • 35. Trần Côn rất chăm học. Trong Tang thương ngẫu lục, Phạm Đình Hổ viết: “Trong khoảng trường ốc, văn chương của ông tiếng lừng thiên hạ”. Ông thi Hương đậu Hương cống và hỏng kỳ thi Hội. Ông nhận chức Huấn đạo ở một trường phủ, sau đổi sang chính thức làm Tri huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Cuối cùng ông cũng chỉ làm đến chức Ngự sử đài chiếu khán rồi mất. Về sáng tác văn học, bên cạnh tác phẩm nổi tiếng Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn còn để loại hàng loạt bài thơ đề tranh tám cảnh đẹp ở Tiêu Tương và một số bài phú, nhưng không có nội dung thiết thực. Ngoài ra, truyện Bích Câukỳ ngộ, truyện Tùng bách thuyết thoại, Long hổ đấu kỳ và Khuyển miêu đốithoại cũng được coi là của Đặng Trần Côn. 2.2.1.2. Tác giả bản chữ Nôm Cho đến nay, những nghiên cứu đã khẳng định tác giả bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm là Đoàn Thị Điểm. Mặc dù cũng có một luồng ý kiến cho đây là của Phan Huy Ích, nhưng những nguồn tư liệu và các kết quả nghiên cứu của giới khoa học vẫn nghiêng về phía Đoàn Thị Điểm và xu hướng này được chấp nhận hơn cả. Đoàn Thị Điểm hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, sinh năm 1705 tại làng Giai Phạm (sau đổi tên thành Hiến Phạm), huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Lúc trẻ bà nổi danh là người có nhan sắc và tài văn chương. Bà được thượng thư Lê Anh Tuấn nhận làm con nuôi năm 16 tuổi. Quan Thượng thư định tiến bà vào phủ chúa Trịnh nhưng bà không bằng lòng và trở về quê cùng anh trai mở trường dạy học. Năm 25 tuổi, thân phụ mất và anh trai bà cũng mất sau đó. Bà về xã Chương Dương huyện Thường Tín mở trường dạy học và kết duyên với Nguyễn Kiều (một vị quan đỗ Tiến sĩ từ năm 21 tuổi) năm 1763. Sau đó một tháng chồng bà đi sứ nhà Thanh ba năm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là thời điểm bà Đoàn Thị Điểm diễn Nôm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Bà mất năm 1748, thọ 44 tuổi. Sinh thời, theo Đoàn Thị thực lục, bà thường xướng họa thơ văn với anh trai. Sau khi về nhà chồng, bà thường cùng chồng đối đáp thơ văn. Di cảo thơ văn của bà để lại không nhiều. Đến nay trước tác của bà còn để lại là tập Truyền kỳ tân phả và bản diễn NômChinh phụ ngâm.
  • 36. Nguyễn Hồng Phong trong sách Lịch sử văn học Việt Nam - sơ giản thì vai trò của Đoàn Thị Điểm đối với Chinh phụ ngâm khúc không khác gì vai trò của Đặng Trần Côn. Vì lẽ Đặng Trần Côn đã sáng tác nên Chinh phụ ngâm bằng Hán văn theo thể thơ khác, còn Đoàn Thị Điểm thì lại dịch tác phẩm đó ra văn Nôm bằng một thể thơ dân tộc: song thất lục bát. “Hơn nữa so với nguyên tác Hán văn thì bản dịch của Đoàn Thị Điểm có rất nhiều sáng tạo. Đó là một sáng tác văn chương kiệt xuất của Đoàn Thị Điểm” [44; tr. 101]. 2.2.1.3. Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc Chinh phụ ngâm khúc là tác phẩm viết về chiến tranh, là khúc ngâm của người chinh phụ, là nỗi lòng ưu tư, sầu muộn của một phụ nữ có chồng ra chiến trận. Mâu thuẫn được nói đến từ đầu đến cuối tác phẩm là mâu thuẫn giữa chiến tranh với cuộc sống của con người, với hạnh phúc đôi lứa, là sự trôi qua một cách vô nghĩa của tuổi trẻ. Qua đó tác phẩm nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là thể hiện tâm trạng khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi vốn ít được thơ văn các thời kỳ trước chú ý. Trong Chinh phụ ngâm khúc, tất cả được nhìn nhận qua tâm trạng buồn đau, muộn phiền của người chinh phụ. Đồng thời đó cũng là cách nhìn nhận, thấu hiểu nhân tình thế thái của nhà thơ trước thực tại. Chiến tranh và hình ảnh của người chinh phu; chiến tranh và tâm sự của người chinh phụ được khắc họa rõ nét trong tác phẩm. “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt” được tác giả xây dựng với hình ảnh một anh hùng lý tưởng của giai cấp phong kiến. Nghe theo tiếng gọi của danh vọng, của triều đình, chàng xếp bút nghiên, giã từ vợ con, lên đường chiến đấu với ý chí lẫm liệt, sẵn sàng hy sinh nơi chiến địa nếu cần. Nhưng đáng buồn thay, sau giờ phút chia tay chồng, người chinh phụ tưởng tượng ra cảnh ghê rợn nơi chiến địa: Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua Hình khe thế núi gần xa, Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao. Còn chinh phu không còn đâu hình ảnh một chàng dũng sĩ có đủ sức mạnh xoay ngược thời thế, mà thê lương như kẻ chiến bại:
  • 37. người rầu mặt dạn, Dòng nước sâu ngựa nản chân bon Ôm yên gối trống đã chồn, Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh. Hiểu theo giáo sư Nguyễn Lộc thì “Ý hướng chủ đạo của nhà thơ toát lên từ việc xây dựng hình tượng người chinh phu là chứng minh sự tất yếu phải hủy diệt của những con người tham gia vào những cuộc chiến tranh như thế”[23. tr. 165]. Đối với chinh phụ, suốt từ đầu khúc ngâm cho đến Tràng Dương, Tiêu Tương, rồi tận cùng chiến địa và kết thúc là chốn cô phòng lẻ loi là tâm trạng buồn thương, não ruột. Chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã cướp đi hạnh phúc lứa đôi, tuổi trẻ, nhan sắc của nàng. Những công việc thường ngày bận rộn chẳng làm vơi đi nỗi nhớ mong, sầu thương dằng dặc: Nhớ chàng trải mấy sương sao Xuân từng đổi mới, đông nào có dư. Người chinh phụ lúc nào cùng thẫn thờ, uống rượu xem hoa chẳng làm nguôi những muộn phiền, nàng tìm vào thế giới mộng. Tiếc thay, giấc mộng ngắn ngủi, thế giới thực lại trở về choán hết tâm trí nàng: Khi mơ những tiếc khi tàn, Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không. Nàng cay đắng thốt lên: Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu, Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong. Có thể nói, nỗi lo sợ nhất của người chinh phụ là lo sợ tuổi trẻ tàn phai theo năm tháng đợi chồng. Đến tạo vật còn có đôi có lứa mà sao nàng phải tan vỡ hạnh phúc gia đình, nhan sắc tàn tạ vì chiến tranh: Thiếp xin chàng chớ bạc đầu Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung. Rõ ràng, Chinh phụ ngâm khúc là tác phẩm tố cáo chiến tranh bi thiết và thành thực nhất, nên nó rung động trái tim người đọc. Tuy nhiên, hạn chế của tác phẩm chính là tiếng nói tố cáo chỉ dừng lại ở những lời thở than ai oán não nùng và chưa thực sự là tiếng nói của đông đảo quần chúng nhân dân. Bản thân nhà thơ
  • 38. đã nhận thức triệt để và dứt khoát tính chất phi nghĩa của nó. Nhưng dù thế nào, Chinh phụ ngâm khúc vẫn là “một trong những tác phẩm không già cỗi với thời gian”[23; tr. 188]. 2.2.2. Biểu hiện của bút pháp tả cảnh ngụ tình trong Chinh phụ ngâm khúc 2.2.2.1. Vai trò của cảnh và tình trong kết cấu của khúc ngâm Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì kết cấu là “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm”. “Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm”[10; tr. 156] Kết cấu bao gồm bố cục, tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức không – thời gian nghệ thuật, nghệ thuật tổ chức các thành phần cốt truyện và ngoài cốt truyện, nghệ thuật trình bày... nhằm mục đích cuối cùng là trở thành chỉnh thể nghệ thuật có nội dung tư tưởng, có phong cách độc đáo... Trong Chinh phụ ngâm khúc, cảnh và tình đóng vai trò khá quan trọng tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ. Thành công của tác phẩm là ở chỗ nhà thơ biết cách khai thác tâm trạng, xây dựng hình tượng và cấu trúc tác phẩm. Từ cách tổ chức không gian, thời gian nghệ thuật đều có sự tham gia một cách đa dạng và phong phú của cảnh và tình. a. Đa dạng hóa không gian tâm trạng bằng cảnh vật Để hiện thực hóa trạng thái cảm xúc của người chinh phụ, tác giả đã xây dựng các kiểu không gian tâm trạng khác nhau. Mỗi không gian gắn với những yếu tố cảnh vật cụ thể tương ứng với trạng thái tâm lí của nhân vật trữ tình. Nổi bật trong khúc ngâm là không gian sống của người chinh phụ và không gian tưởng tượng của nàng về nơi người chồng đang tồn tại. Không gian sinh hoạt của người chinh phụ, cảnh vật thường mang tính so sánh, đối lập.Với kiểu không gian này, tác giả chủ yếu miêu tả môi trường sống của người chinh phụ. Đây là kiểu không gian thực mà nàng đang tồn tại. Tuy nhiên những hoạt động gắn với sinh hoạt đời thường xuất hiện khá ít, có thể là khung cảnh gia thất với những hình ảnh mẹ già và con thơ: “Tình gia thất nào ai chẳng
  • 39. khuê phụ nhớ thương./Mẹ già phơ phất mái sương,/Con thơ măng sữa, vả đương phù trì./Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,/Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm./Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,/Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân./Nay một thân nuôi già dạy trẻ,/Nỗi quan hoài mang mể biết bao!”. Không gian gia đình rất ảm đạm vắng vẻ khi thiếu đi vị trí của một người đàn ông trụ cột. Người vợ phải gánh thêm trách nhiệm của người cha, phải thay chồng chăm sóc mẹ già. Người chinh phụ không phải ngại gian nan vất vả mà kể lể. Ngược lại, những việc nàng phải làm những công việc thay chồng càng làm nàng nhớ chồng hơn. Nhưng khi đối mặt với chính mình cũng là lúc người chinh phụ trở về với nỗi sầu thương có thể xem là quen thuộc với nàng. Qua con mắt vò võ ngóng trông, không một tín hiệu cảnh vật nào có thể trở thành người bạn tâm giao, không một cành cây ngọn cỏ nào có thể đem đến cho nàng một chút an ủi để tạm quên đi, tạm thoát li hiện thực. Ngược lại, dường như mọi yếu tố thiên nhiên, muông thú lại trở thành “kẻ phá đám”, “kẻ trêu ngươi” người phụ nữ nhớ chồng trong khúc ngâm. Sự hiện diện của chúng càng khoét sâu những ẩn ức tinh thần của con người. Cảnh vật thiên nhiên có khi mang tính tương phản đối lập với thân phận con người: “Lá màn lay ngọn gió xuyên,/Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm./Hoa dãi nguyệt nguyệt in một tấm,/Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông./Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng,/Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau”.Cảnh vật dường như rất ăn ý với nhau, tìm đến nhau để hòa hợp thành đôi thành cặp. Người chinh phụ đối cảnh lại chạnh lòng cho hoàn cảnh của mình đang chăn đơn gối chiếc ngóng chồng. Có khi sự đối lập được đẩy lên đến đỉnh điểm khiến nàng chinh phụ không chỉ than thở mà còn cất lên tiếng lòng ai oán đến đắng cay: “Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,/Nọ loài chim chắp cánh cùng bay./Liễu, sen là thức cỏ cây,/ Đôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền./Ấy loài vật tình duyên còn thế,/Sao kiếp người nỡ để đấy đây?”. Nàng vừa thổn thức, vừa rối bời trước hàng loạt hình ảnh thiên nhiên có cặp có đôi hoàn toàn đối lập với mình. Trong không gian tràn đầy sức sống tình yêu người phụ nữ như bị chia tách khỏi cuộc hội ngộ của tự nhiên. Ý chí của nàng không còn vẻ cứng cỏi như những đấng nam nhi tiết tháo mà hoàn toàn bất lực. Thơ ngôn chí vốn chuộng cảnh thiên nhiên hùng vĩ, lấy cỏ cây để thể hiện vẻ cứng
  • 40. của con người. Nhưng ở đây ý nghĩa đó dường như đã bị loại bỏ. Thay vào đó, con người xếp mình ngang hàng, thậm chí thấp hơn cả cỏ cây. Sự thay đổi đó càng tô đậm khát vọng hạnh phúc đời thường và trần thế nhất của con người đang trỗi dậy ở thế kỷ đầy giông bão. Cảnh có khi trở thành đối tượng để so sánh với hiện trạng của người chinh phụ: “Hướng dương lòng thiếp như hoa,/Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương./ Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,/Hoa để vàng bởi tại bóng dương./Hoa vàng hoa rụng quanh vườn,/Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần”.Hay: “Cảnh buồn người thiết tha lòng,/Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun./ Sương như búa bổ mòn góc liễu,/Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô./Giọt sương phủ bụi chim gù,/Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi”. Đối mặt với hình thức không gian này, cảnh thường hiện lên qua những hình ảnh thiên nhiên đang trong trạng thái tàn phai, buồn tẻ không ăn nhập với nhau. Có khi yếu tố thiên nhiên còn đóng vai trò cộng hưởng với tâm trạng của nhân vật trữ tình để cụ thể hóa tâm trạng đồng thời làm cho cảm xúc của nhân vật được đẩy lên cao gợi cảm giác ảm đạm và thê lương. Chỉ bằng một vài nét chấm phá, thiên nhiên và con người trở lên cụ thể, sinh động. Cảnh đưa tiễn đầy quyến luyến, bịn rịn của đôi vợ chồng trẻ dồn nén lại ở cử chỉ xiết bao tha thiết, rưng rưng: Nhủ rồi tay lại cầm tay, Bước đi một bước giây giây lại dừng. Thứ hai là mô hình không gian giả tưởng. Đây là không gian không đồng hiện mà hoàn toàn xuất hiện trong sự hình dung gián tiếp của nhân vật trữ tình. Tồn tại trong không gian này chủ yếu người chinh phụ hướng về đối tượng tâm tình của nàng là người chinh phu. Hiện diện trong sự hình dung của người chinh phụ là không gian biên ải chiến địa mà người chồng của nàng đang tồn tại. Đối mặt với giới hạn địa lí “thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu” là tầm nhìn hiện thực. Ngược lại, với người ở lại phải đối mặt với nỗi cô đơn thì người đi cũng được hình dung với hàng loạt khó khăn. Hơn thế những cản trở hiểm nguy ấy càng gây nên nỗi lo lắng, thấp thỏm của người ở lại. Người vợ lo cho sự an nguy và sức khỏe của chồng. Bởi lẽ, vùng biên
  • 41. là: “Hình khe thế núi gần xa,/Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao./Sương đầu núi buổi chiều như gội,/Nước lòng khe nẻo lội còn sâu”. Hay: “Xưa nay chiến địa dường bao,/Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu./Hơi gió lạnh mặt rầu mày rạn,/Dòng nước sâu ngựa nản chân bon./Ôm yên gối trống đã chồn,/Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh”.Hay cảnh chiến trường ghê rợn cũng đọng lại chỉ bằng một chi tiết ám ảnh:“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,/Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi./Chinh phu tử sĩ mấy người,/Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”. Nỗi nuối tiếc, xót xa chinh phụ được tô đậm bằng sự hiện hữu của cuộc sống có đôi, có cặp: “Chàng chẳng thấy chim quyên ở nội,/Cũng dập dìu chẳng vội phân trương./Chẳng xem chim én trên rường,/Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau”. Dường như sự đan xen, giao hòa giữa cảnh và tình trở thành một điểm nhấn vô cùng quan trong tạo nên mạch ngầm của khúc ngâm, có những đoạn gây ấn tượng vô cùng sâu sắc nơi người đọc. Khi viết về cảnh ly biệt, tác giả đã khắc họa nên khoảng cách nghìn trùng của nỗi sầu qua ngàn dâu xanh ngắt: Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Tác giả khá chú ý việc lột tả nỗi niềm đơn côi của người trong cuộc, một “cõi xa mưa gió” đến day dứt, nao lòng: Lòng theo nhưng chưa thấy người, Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe. Khi nàng đối diện với không gian bốn bề, đối diện với chân mây, mặt đất thì cách tổ chức của tác giả khi đem cả cảnh và tình vào tác phẩm thật điêu luyện và tinh tế: Trông bến nam bãi che trước mặt, Cỏ biếc um dâu biếc màu xanh. Nhà thôn mấy xóm chông chênh, Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.