Biện pháp nào để tránh nguy cơ cạn kiệt

Ngày 9/11, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và Hội thủy lợi Việt Nam tổ chức Hội thảo “Nâng cao hiệu quả thực hiện Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm An ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chưa nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045”.

Nguồn nước đang đối mặt tình trạng sụt giảm trữ lượng

Phát biểu tại hội thảo, TSKH Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cho biết: Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn tài nguyên nước khá phong phú, dồi dào. Tổng lượng nước mặt trung bình khoảng 840 tỷ m3/năm; với hơn 7.500 đập, hồ chứa đã tạo nên dung tích trữ nước chủ động trên 70 tỷ m3.

Tuy nhiên, nguồn nước của Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng sụt giảm về trữ lượng do tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng; thay đổi chế độ dòng chảy; sự phụ thuộc nhiều vào nguồn nước sản sinh từ bên ngoài lãnh thổ; thoái hóa rừng làm giảm khả năng giữ nước, điều hòa nguồn nước. Bên cạnh đó, quá trình phát triển kinh tế - xã hội; quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa; sự gia tăng của dân số và nhu cầu sử dụng nước phục vụ dân sinh và sản xuất, kinh doanh ngày càng tăng nhanh; tình trạng ô nhiễm nguồn nước chưa được giải quyết triệt để đã làm suy giảm chất lượng nước.

TSKH Phan Xuân Dũng cũng cho biết, thời gian qua, Nhà nước đã bố trí gần 16.000 tỷ đồng để sửa chữa, nâng cấp đảm bảo an toàn cho hơn 800 hồ chứa. Tuy nhiên, vẫn còn đến 1.200 hồ chứa bị hư hỏng xuống cấp, chưa được sửa chữa, nâng cấp, trong đó có 200 hồ chứa hư hỏng nghiêm trọng cần xử lý cấp bách.

“Như vậy, trong thời gian tới, nếu không có giải pháp đột phá, Việt Nam sẽ đứng trước nguy cơ mất an ninh nguồn nước và mất an toàn đập, hồ chứa nước, điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống Nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội”, TSKH Phan Xuân Dũng cho biết.

Theo Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, nhận diện được vấn đề trên, từ đầu năm 2020, lãnh đạo Quốc hội đã chỉ đạo Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường triển khai Giám sát chuyên đề “An ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt và quản lý an toàn hồ, đập” báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Do tính chất và tầm quan trọng của vấn đề an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đối với sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đề nghị Ban cán sự đảng Chính phủ báo cáo và xin ý kiến của Bộ Chính trị về nội dung này. Sau khi xem xét kỹ lưỡng Đề án, ngày 23/6/2022 Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 36-KL/TW về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tại Kết luận số 36 KL/TW, Bộ Chính trị đã đề ra mục tiêu tổng quát, các mục tiêu cụ thể cho các thời điểm đến năm 2025, 2030 và đến năm 2045, đi kèm với 09 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.

Hiện Kết luận số 36-KL/TW đã được phổ biến quán triệt sâu nay, rộng đến các cấp, các ngành, đến từng đảng viên. Thủ tướng Chính phủ đang xem xét phê duyệt Kế hoạch hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận số 36-KL/TW trong thời gian tới. Một số tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương đã ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Kết luận số 36-KL/TW trên địa bàn. Tuy nhiên, một số địa phương còn lúng túng trong triển khai thực hiện Kết luận số 36-KL/TW.

Khai thác, sử dụng hiệu quả, đảm an toàn đập, hồ chứa nước

Theo Hội Thủy lợi Việt Nam, bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước trong thời gian qua luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đạt được nhiều kết quả tích cực, cơ bản đáp ứng yêu cầu cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đời sống, sinh hoạt của người dân.

Hệ thống pháp luật, chính sách về bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước tiếp tục được hoàn thiện, nguồn lực để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ngành nước được tăng cường. Công tác điều tra cơ bản, quy hoạch liên quan đến nguồn nước được quan tâm. Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước, chấp hành pháp luật về tài nguyên nước, thủy lợi, phòng chống thiên tai được thực hiện thường xuyên…Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước vẫn còn nhiều hạn chế như: Công tác quản trị nguồn nước còn yếu, chưa hiệu quả, ý thức, trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, địa phương và người dân trong việc quản lý, khai thác, sử dụng nước chưa cao, ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng; Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước còn thiếu, chưa đồng bộ…

Tại Kết luận 36-KL/TW, Bộ chính trị chỉ ra 3 nhóm nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế yếu kém trong công tác bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước: Nhận thức của người dân về bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước, bảo vệ và sử dụng nước chưa đầy đủ; công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, thiếu thống nhất; thể chế, chính sách chậm được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện; chưa chú trọng đến quản trị nguồn nước, kinh tế nguồn nước; nguồn lực đầu tư cho bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước chủ yếu là từ ngân sách nhà nước, huy động nguồn lực xã hội còn hạn chế; chế tài xử lý các hành vi vi phạm chưa nghiêm…

Để bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước trong thời gian tới, Bộ Chính trị yêu cầu thực hiện mục tiêu tổng thể: Bảo đảm số lượng, chất lượng nước phục vụ dân sinh trong mọi tình huống; đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất, kinh doanh của các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là các ngành kinh tế quan trọng, thiết yếu; mọi người dân, mọi đối tượng được tiếp cận, sử dụng nước công bằng, hợp lý.

Đồng thời, chủ động tích trữ, điều hoà nguồn nước, khai thác, sử dụng hiệu quả đi đôi với bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước; ứng phó hiệu quả với các thảm hoạ, thiên tai liên quan đến nước, thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo vệ môi trường, khắc phục tình trạng suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước.

GS.TS. Đào Xuân Học - Chủ tịch Hội Thuỷ lợi Việt Nam cho rằng, muốn bảo vệ, khai thác và phát triển nguồn nước phải nghiên cứu quy hoạch lưu vực sông, tính toán cân bằng nước trên cả một vùng rộng lớn thì từ đó mới đề ra chiến lược, xây dựng quy hoạch và kế hoạch đúng đắn.

Đại diện Viện Quy hoạch thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) cũng cho rằng, cần có giải pháp phi công trình và công trình. Trong đó, cần phải lập mới, điều chỉnh quy hoạch đô thị theo hướng lợi dụng ưu thế tự nhiên để tăng mức độ thích nghi; phân lưu vực tiêu thoát nước hợp lý có tính đến yếu tố liên kết vùng; nâng cao năng lực của chính quyền đô thị; rà soát các dự án thoát nước tại các thành phố, đô thị; ưu tiên vốn để cải tạo, sửa chữa hệ thống thoát nước cũ;...

Hội thảo đã ghi nhận các ý kiến đóng góp, các giải pháp được các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu, tư vấn chính sách về chuyên ngành đưa ra. Đây sẽ là những luận cứ khoa học góp phần nâng cao hiệu quả thực thi Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị trong thời gian tới./.