Có bao nhiêu bộ lạc hợp thành nước văn lang

Sự giải thể của công xã thị tộc và sự ra đời của công xã nông thôn. Công xã nông thôn là một hình thái xã hội xuất hiện phổ biến vào giai đoạn tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ và quá độ sang xã hội có giai cấp. Căn cứ vào các di tích khảo cổ thời Hùng Vương từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn ta thấy không những về mặt không gian có sự mở rộng dần và tập trung ở những vùng đồng bằng ven các con sông lớn Bắc bộ, Bắc Trung bộ mà các khu cư trú thường rộng lớn từ hàng nghìn mét vuông cho đến một vài vạn mét vuông và tầng văn hóa khá dày, nhất là giai đoạn Đông Sơn, khu cư trú được mở rộng hơn, có những khu cư trú rộng tới 250.000 m2. Những khu vực cư trú rộng lớn đó là những xóm làng định cư trong đó có một dòng họ chính và còn có một số dòng họ khác cùng sinh sống. Những xóm làng đó dựa trên cơ sở công xã nông thôn (bấy giờ gọi là kẻ, chiềng, chạ). Một công xã bao gồm một số gia đình sống trên cùng một khu vực, trong đó quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn trong công xã bên cạnh quan hệ địa vực (láng giềng). Sự ra đời của công xã nông thôn là một trong những tiền đề cho sự hình thành quốc gia và nhà nước. Nhân tố thuỷ lợi và tự vệ cũng đã đóng vai trò rất quan trọng đưa đến sự hình thành lãnh thổ chung và tổ chức nhà nước đầu tiên vào thời Đông Sơn. Từ trong cuộc đấu tranh để khắc phục những trở ngại của thiên nhiên (mưa nguồn, nước lũ, bão tố, phong ba, hạn hán) đòi hỏi mọi thành viên không phải chỉ có trong từng công xã, mà nhiều công xã phải liên kết với nhau để tiến hành các công trình tưới, tiêu nước, đảm bảo cho sự phát triển một nền kinh tế mà nông nghiệp trồng lúa nước là chủ đạo. Nước ta lại ở vào vị trí chiến lược của vùng Đông Nam Á, nằm trên các đầu mối giao thông thuỷ bộ quan trọng từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây như một đầu cầu từ biển cả tiến vào đất liền. Đây cũng là nơi giao lưu kinh tế, văn hóa thuận lợi và cũng là nơi xảy ra nhiều đụng độ và nhiều mối đe doạ ngoại xâm. Yêu cầu liên kết, thống nhất lực lượng để tự vệ cũng không kém phần cấp thiết như yêu cầu liên kết để đấu tranh chống những trở ngại của thiên nhiên. Sự tăng nhanh về tỷ lệ vũ khí so với hiện vật trong các di tích từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, đã chứng tỏ một hiện tượng nổi lên ở cuối thời Hùng Vương là xã hội có nhiều mối đe doạ và xung đột. Trong hoàn cảnh như vậy, những yêu cầu nói trên đã có tác động đẩy mạnh sự quần tụ thống nhất cư dân sống trong các địa vực khác nhau có cùng tiếng nói và phong tục thành một cộng đồng cư dân thống nhất. Từ thực tế lịch sử đó, trải qua các thế hệ nối tiếp, ý thức xây dựng và củng cố mối quan hệ gắn bó họ hàng, làng, nước được tăng cường. Điều đó, đã đưa đến sự liên minh giữa nhiều bộ lạc lớn với nhau (mà sử cũ gọi là 15 bộ) thành một lãnh thổ chung do bộ lạc Văn Lang làm trung tâm. Liên minh bộ lạc Văn Lang là ngưỡng cửa của một quốc gia đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Căn cứ vào phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn, chúng ta thấy trùng khớp với cương vực của Văn Lang thời Hùng Vương. Cương vực đó có 15 bộ lạc lớn, bên cạnh những bộ lạc nhỏ khác sinh sống, có mối quan hệ láng giềng chặt chẽ do có quá trình cùng chung sống bên nhau, có chung một số phận lịch sử, một nhu cầu để tồn tại và phát triển, đã dần dần tạo nên cho cả cộng đồng cư dân một lối sống chung, văn hóa chung. Và như vậy, từ các đơn vị cộng cư của một xã hội nguyên thuỷ, bộ lạc đã hình thành các đơn vị hành chính (bộ) của một quốc gia cùng với sự hình thành lãnh thổ chung và một tổ chức chung để quản lý và điều hành xã hội.

Nhà nước Văn Lang ra đời

Dựa vào tài liệu khảo cổ học, tài liệu thành văn (sử cũ của Trung Quốc và của nước ta) có thể sơ bộ phác hoạ cấu trúc của nhà nước thời Hùng Vương theo hệ thống 3 cấp của bộ máy cai trị tương ứng với 3 cấp quan chức. Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Ngôi Hùng Vương cha truyền con nối. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương và giúp việc cho Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Nước Văn Lang có 15 bộ (trước là 15 bộ lạc). Lạc tướng (trước đó là tù trưởng) cũng thế tập cha truyền con nối, còn gọi là phụ đạo, bố tướng. Dưới bộ là các công xã nông thôn (bấy giờ có tên ghi là kẻ, chạ, chiềng). Đứng đầu kẻ, chạ, chiềng là các bồ chính (có nghĩa là già làng). Bên cạnh bồ chính có lẽ còn có một nhóm người hình thành một tổ chức có chức năng như một hội đồng công xã để tham gia điều hành công việc của công xã nông thôn. Mỗi công xã có nơi trung tâm hội họp, sinh hoạt cộng đồng, thường là một ngôi nhà công cộng. Căn cứ vào lời tâu của Mã Viện lên vua nhà Hán về tình hình Âu Lạc trước khi nhà Hán xâm lược và đô hộ nước ta, có thể nghĩ rằng, bấy giờ nhà nước Văn Lang đã có pháp luật để điều hành xã hội. Sách Hậu Hán thư viết “luật Việt” khác luật Hán hơn mười việc”. Có lẽ “luật Việt” mà Mã Viện dùng là một thứ luật tục. Sử sách thường ghi cư dân nước ta bấy giờ là người Lạc Việt và quốc hiệu là Văn Lang do vua Hùng đặt. Đại việt sử lược ghi rằng: Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 tr.CN) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu nước là Văn Lang. Việt Vương Câu Tiễn (505-462 tr.CN) cho người đến dụ hàng nhưng Hùng Vương không theo. Dựa vào các tài liệu và những thành tựu nghiên cứu về thời đại Hùng Vương hiện nay, có thể đoán định có cơ sở rằng thời điểm ra đời của nước Văn Lang với tư cách là một nhà nước sơ khai là vào khoảng thế kỷ VII-VI tr.CN (ở giai đoạn Đông Sơn). Sự ra đời của nước Văn Lang dù còn sơ khai và có phần sớm khi trong xã hội phân hóa chưa sâu sắc (như do tác động mạnh mẽ của yêu cầu thuỷ lợi và chống ngoại xâm thúc đẩy cho sự ra đời sớm) nhưng đã đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ có ý nghĩa thời đại của lịch sử Việt Nam- mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.

(Còn tiếp)

Nếu như bạn đang muốn nghiên cứu và tìm hiểu các tài liệu về lịch sử dân tộc. Bài viết này sẽ cung cấp các thông tin giúp bạn có thêm kiến thức về sự ra đời của nhà nước Văn Lang Âu Lạc

1. Sự giải thể của công xã thị tộc và sự ra đời của công xã nông thôn

Công xã nông thôn là một hình thái xã hội xuất hiện phổ biến vào giai đoạn tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ và quá độ sang xã hội có giai cấp.

Vào khoảng các thế kỉ VIII – VII TCN, ở vùng đồng bằng ven các sông lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, đã dần dần hình thành những bộ lạc lớn, gần gũi nhau về tiếng nói và phương thức hoạt động kinh tế, sản xuất phát triển.

Trong các chiềng, chạ, một số người giàu lên, được bầu làm người đứng đầu để trông coi mọi việc; một số ít nghèo khổ, phải rơi vào cảnh nô tì. Mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo đã nảy sinh và ngày càng tăng thêm.

Những xóm làng đó dựa trên cơ sở công xã nông thôn. Một công xã bao gồm một số gia đình sống trên cùng một khu vực, trong đó quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn trong công xã bên cạnh quan hệ địa vực [láng giềng].
Sự ra đời của công xã nông thôn là một trong những tiền đề cho sự hình thành quốc gia và nhà nước.

Sự ra đời của nhà nước Văn Lang

Bên cạnh đó, nhân tố thủy lợi và tự vệ cũng đã đóng vai trò rất quan trọng đưa đến sự hình thành lãnh thổ chung và tổ chức nhà nước đầu tiên vào thời Đông Sơn. Từ trong cuộc đấu tranh để khắc phục những trở ngại của thiên nhiên [mưa nguồn, nước lũ, bão tố, phong ba, hạn hán] đòi hỏi mọi thành viên không phải chỉ có trong từng công xã, mà nhiều công xã phải liên kết với nhau để tiến hành các công trình tưới, tiêu nước, đảm bảo cho sự phát triển một nền kinh tế mà nông nghiệp trồng lúa nước là chủ đạo.

Nước ta lại ở vào vị trí chiến lược của vùng Đông Nam Á, nằm trên các đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây như một đầu cầu từ biển cả tiến vào đất liền. Đây cũng là nơi giao lưu kinh tế, văn hóa thuận lợi và cũng là nơi xảy ra nhiều đụng độ và nhiều mối đe dọa ngoại xâm. Yêu cầu liên kết, thống nhất lực lượng để tự vệ cũng không kém phần cấp thiết như yêu cầu liên kết để đấu tranh chống những trở ngại của thiên nhiên.

Đòi hỏi cần có người chỉ huy đứng ra tập hợp nhân dân quản lý kinh tế, giao thông, giúp dân làng làm ăn, chống lại lụt lội, bảo vệ mùa màng [làm thủy lợi].

Do đó cần đến sự liên minh và hợp nhất của nhiều bộ lạc lớn với nhau [mà sử cũ gọi là 15 bộ] thành một lãnh thổ chung do bộ lạc Văn Lang làm trung tâm. Liên minh bộ lạc Văn Lang là ngưỡng cửa của một quốc gia đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.

Từ các đơn vị cộng cư của một xã hội nguyên thủy, bộ lạc đã hình thành các đơn vị hành chính [bộ] của một quốc gia cùng với sự hình thành lãnh thổ chung và một tổ chức chung để quản lý và điều hành xã hội.

Sự ra đời nhà nước Văn Lang

➤ Xem thêm: Tìm hiểu sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam và ý nghĩa lịch sử của sự kiện này

2. Sự ra đời của nhà nước Văn Lang Âu Lạc

Sơ bộ phác hoạ cấu trúc của nhà nước thời Hùng Vương theo hệ thống 3 cấp của bộ máy cai trị tương ứng với 3 cấp quan chức. Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Ngôi Hùng Vương cha truyền con nối. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo.

Dưới Hùng Vương và giúp việc cho Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Nước Văn Lang có 15 bộ [trước là 15 bộ lạc]. Lạc tướng [trước đó là tù trưởng] cũng thế tập cha truyền con nối, còn gọi là phụ đạo, bố tướng. Dưới bộ là các công xã nông thôn [bấy giờ có tên ghi là kẻ, chạ, chiềng]. Đứng đầu kẻ, chạ, chiềng là các bồ chính [có nghĩa là già làng]. Bên cạnh bồ chính có lẽ còn có một nhóm người hình thành một tổ chức có chức năng như một hội đồng công xã để tham gia điều hành công việc của công xã nông thôn. Mỗi công xã có nơi trung tâm hội họp, sinh hoạt cộng đồng, thường là một ngôi nhà công cộng.

Căn cứ vào lời tâu của Mã Viện lên vua nhà Hán về tình hình Âu Lạc trước khi nhà Hán xâm lược và đô hộ nước ta, có thể nghĩ rằng, bấy giờ nhà nước Văn Lang đã có pháp luật để điều hành xã hội. Sách Hậu Hán thư viết “luật Việt” khác luật Hán hơn mười việc”. Có lẽ “luật Việt” mà Mã Viện dùng là một thứ luật tục. Sử sách thường ghi cư dân nước ta bấy giờ là người Lạc Việt và quốc hiệu là Văn Lang do vua Hùng đặt.

Sự ra đời của nhà nước Văn Lang

Đại việt sử lược ghi rằng: Đến đời Trang Vương nhà Chu [696-682 tr.CN] ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu nước là Văn Lang. Việt Vương Câu Tiễn [505-462 tr.CN] cho người đến dụ hàng nhưng Hùng Vương không theo.

Dựa vào các tài liệu và những thành tựu nghiên cứu về thời đại Hùng Vương hiện nay, có thể đoán định có cơ sở rằng thời điểm ra đời của nước Văn Lang với tư cách là một nhà nước sơ khai là vào khoảng thế kỷ VII-VI tr.CN [ở giai đoạn Đông Sơn].

Sự ra đời của nước Văn Lang dù còn sơ khai và có phần sớm khi trong xã hội phân hóa chưa sâu sắc [như do tác động mạnh mẽ của yêu cầu thuỷ lợi và chống ngoại xâm thúc đẩy cho sự ra đời sớm] nhưng đã đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ có ý nghĩa thời đại của lịch sử Việt Nam- mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.

Trên đây là sơ lược khát quát về sự ra đời của nhà nước Văn Lang Âu Lạc. Hy vọng rằng đã cung cấp những thông tin tham khảo hữu ích cho bạn đọc.

Sự ra đời của Nhà Nước là kết quả của một quá trình lịch sử lâu dài, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của xã hội loài người. Nhà nước xuất hiện trong điều kiện là sức sản xuất phát triển đến đỉnh cao xuất hiện sự phân hóa xã hội, dẫn đến những mâu thuẫn không thể điều hòa được.

Tuy nhiên, quy luật trên không hoàn toàn đúng với tất cả các nhà nước trên thế giới. Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc là một điển hình, sự ra đời của hai nhà nước này có những đặc thù riêng, tách biệt với các nhà nước khác. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Phân tích đặc thù trong quá trình ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc” 

Danh mục tài liệu tham khảo

  • Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam.

Quy luật hình thành Nhà nước trên thế giới theo lý luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác.

Theo lý luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, có hai yếu tố dẫn đến sự hình thành nhà nước đó là: xuất hiện chế độ tư hữu và có mẫu thuẫn xã hội gay gắt đến mức không thể tự dung hòa được.

Trong lịch sử phát triển của loài người đã trải qua ba lần phân công lao động: lần phân công thứ nhất, chăn nuôi đã trở thành một ngành kinh tế độc lập và tách ra khỏi trồng trọt; lần phân công thứ hai, thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp, lần phân công thứ ba; sản xuất tách bạch với trao đổi dẫn đến sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân.

Từ đây, lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến năng suất lao động tăng, của cải làm ra ngày càng nhiều, và dẫn đến có của cải dư thừa kèm theo đó là sự tích trữ, đồng thời xuất hiện một bộ phận chiến đoạt của cải dư thừa đó [do nắm quyền quản lý, cai quản] hoặc giàu lên nhờ tích trữ, đầu cơ từ đây đã có sự phân hóa giàu nghèo, giữa người có của và người không có của,

Sự phân hóa giàu nghèo này dẫn đến hiện tượng phân tầng xã hội, phân chia thành các tầng lớp khác nhau từ đó dẫn đến phân chia giai cấp đồng thời và kéo theo xuất hiện mâu thuẫn giai cấp và điều không tránh khỏi là đấu tranh giai cấp, lúc này nhà nước đã có tiền đề rõ ràng cho sự ra đời của mình.

Phân tích đặc thù trong quá trình ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc

Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội, tạo ra một tình trạng loạn lạc hỗn độn.

Xã hội lúc này đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy, hoặc cùng lắm là để làm cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp và để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời và đó chính là nhà nước.

Và như vậy là Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, nó là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, nó không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt và xã hội mà là một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự.

phân tích đặc thù trong quá trình ra đời nhà nước văn lang – âu lạc

Đặc thù trong quá trình ra đời của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc

Đặc thù trong tiền đề ra đời

Như đã nói ở trên, nhà nước xuất hiện trên cơ sở kinh tế – xã hội là xuất hiện chế độ tư hữu và mâu thuẫn xã hội gay gắt đến mức không thể tự mình điều hòa được. Tuy nhiên, trong sự ra đời của nhà nước Văn Lang, Âu lạc thì tiền đề kinh tế – xã hội cần thiết cho nhà nước ra đời đã xuất hiện nhưng chưa thực sự chín muồi. Cụ thể:

Về cơ sở kinh tế: thời kỳ này đã có sự biến đổi từ nền kinh tế tự nhiên nguyên thủy sang nền kinh tế sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, đồng thời xuất hiện nghề trồng lúa nước, chăn nuôi, nghề gốm, cũng như sự xuất hiện của nghề luyện kim đồng thau. Việc xuất hiện các nghề trồng trọt, chăn nuôi và các công cụ lao động bằng đồng, sắt đã tạo ra năng suất lao động cao, và tạo ra của cải dư thừa cho xã hội.

Từ đây, mầm mống của chế độ tư hữu đã xuất hiện, tuy nhiên, tư liệu sản xuất chính là ruộng đất vẫn thuộc sở hữu chung của công xã nông thôn. Sở hữu tư nhân xuất hiện nhưng phát triển chậm, chủ yếu là sở hữu với sản phẩm lao đông, đất ở, cồn cụ lao động.

Về cơ sở xã hội: Những gia đình nhỏ trở thành những đơn vị kinh tế độc lập. Chế độ mẫu hệ dần dần chuyển sang chế độ phụ hệ. Công xã thị tộc dần dần tan rã và nhường chỗ cho công xã nông thôn, kết hợp cả 3 quan hệ láng giềng, địa lý và huyết thống. Xã hội có sự phân hóa rõ nét ở cả sự phân hóa giàu nghèo và sự phân hóa về địa vị xã hội nhưng chưa sâu sắc, chưa mang tính đối kháng.

Trên cơ sở kinh tế – xã hội thực sự chín muồi như vậy, nhà nước Văn Lang – Âu Lạc vẫn xuất hiện do có sự tác động của các yếu tố bên ngoài:

Thứ nhất, do sự tác động của nhu cầu trị thủy, thủy lợi. Thiên nhiên nước ta có nhiều thuận lợi đối với cuộc sống con người. Cuối thời Hùng Vương, dân cư đã tràn xuống chinh phục vùng đồng bằng châu thổ của các con sông lớn và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước nên công cuộc trị thủy – thủy lợi đóng vai trò rất quan trọng. Chính điều này đã đặt ra nhu cầu gắn kết cộng đồng lại bởi một người hay một nhóm người không thể làm được công việc đó.

Thứ hai, do tác động của yếu tố chiến tranh. Vị trí địa lý nước ta nằm trên những luồng giao thông tự nhiên nên yếu tố tự vệ chống lại các nối đe dọa từ bên ngoài ngày càng trở nên cấp thiết. Các tư liệu khảo cổ đã ghi nhận được rằng trong giai đoạn Phùng Nguyên, tỷ lệ vú khí so với toàn tộ hiện vật rất nhỏ như ở di tích Văn Điển là 0,28%, di tích Phùng Nguyên là 0,84%.

Tuy nhiên, đến giai đoạn Đông Sơn, tỷ lệ vũ khí tăng vọt lên trên trên 50%. Như vậy, thời bấy giờ chiến tranh đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội, đòi hỏi các cộng cộng đồng, thị tộc, bộ lạc phải gắn kết với nhau để bảo vệ lợi ích chung.

Như vậy, dù cơ sở kinh tế – xã hội chưa thực sự chín muồi nhưng do các yếu tố khác thúc đẩy nên nhà nước Việt cổ đã được hình thành sớm.

Phân tích quá trình ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc

Trong chế độ công xã nguyên thủy ở nước ta lúc đầu chưa có quyền lực nhà nước, mà chỉ có quyền lực xã hội do cộng đồng giao cho một người hoặc một nhóm người để thực hiện chức năng quản lý xã hội. Ban đầu, quyền lực này được trao cho những người có uy tín trong xã hội, thứ quyền lực này xuất phát từ trong xã hội và đại diện cho lợi ích của toàn xã hội.

Người đừng đầu có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong xã hội, do đó họ cũng đồng thời được trao cho quyền lực rất lớn. Và dần dần, họ nhận ra ưu thế khi sử dụng thứ quyền lực này, vì vậy, thay vì được trao cho những người có uy tín, kinh nghiệm quản lý trong xã hội thì thứ quyền lực này đã trở thành một “thứ tài sản” đặc biệt để thừa kế cho các thế hệ tiếp sau.

Bên cạnh các biện pháp dân chủ vốn đặc trưng trong công xã nguyên thủy, các biện pháp cưỡng chế để thực hiện quyền lực của cá nhân ngày càng phổ biến, trong xu hướng đó, quá trình chuyển hướng quyền lực diễn ra và quyền lực xã hội được trao nhằm để thực hiện chức năng xã hội dần dần biến thành quyền lực nhà nước. Những người thực hiện chức năng xã hội dần biến thành quan chức, những quan chức hợp thành bộ máy nhà nước. Đối với họ, quản lý xã hội trở thành một nghề chuyên nghiệp, họ là những người tách ra khỏi xã hội và tựa hồ đứng trên xã hội.

Như vậy, quá trình chuyển hóa từ quyền lực xã hội sang quyền lực nhà nước chính là một đặc thù của sự hình thành nhà nước Văn Lang – Âu Lạc.

Đặc thù trong thiết chế nhà nước và pháp luật

Thiết chế nhà nước và pháp luật thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc được tổ chức đơn giản, sơ khai, bảo tồn nhiều yếu tố của thị tộc.

Bộ máy nhà nước Văn Lang – Âu Lạc rất đơn giản, đứng đầu là vương, giúp việc cho Vương có Lạc hầu, Lạc tường [Các bộ] và cuối cùng là Bồ chính [Công xã nông thôn].

Trong hệ thống pháp luật của thời Văn Lang – Âu Lạc, tập quan giữ vai trò chủ đạo và phổ biến nhất. Đó là những tập quán vốn có từ thời nguyên thủy và được bảo đảm thực hiện không chỉ bằng sự tự nguyện mà bằng cả sức mạnh cưỡng chế của nhà nước; là những tập quán chính trị, được hình thành trong quá trình vận máy nhà nước và điều hành xã hội như tập quán truyền ngôi cho con, tập quán cống nạp… Ngoài ra còn có pháp luật kiểu khẩu truyền, là những mệnh lệnh của vua được sứ giả truyền đi các nơi.

Sở dĩ thiết chế nhà nước và pháp luật thời kỳ này còn sơ khai đơn giản là do được xây dựng trên một cơ sở nền tảng kinh tế – xã hội chưa chín muồi, khi mà chế độ tư hữu chưa thật sự rõ ràng, mâu thuần trong xã hội cũng không đến mức quá gay gắt do đó mà thiết chế nhà nước và pháp luật cũng không cần quá chặt chẽ.

Bên cạnh đó, do được hình thành sớm nên còn bảo lưu yếu tố của thi tộc, bộ lạc, đặc biệt là của công xã nông thôn với lối sống tự quản, tự trị. Ngoài ra do thời gian tồn tại ngắn nên cũng khó có thể hoàn thiện được bộ máy nhà nước và pháp luật một cách tối ưu.

Những ảnh hưởng của các đặc thù trên ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử của nhà nước Việt Nam

Thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc là thời kỳ dựng nước của dân tộc ta, đặt nền móng để từ đây viết nên nhiều trang sử chói lọi. Chính vì vậy, các di tồn của thời kỳ này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình xây dựng nhà nước và pháp luật Việt Nam trong tiến trình lịch sử:

Thứ nhất, những di tồn về nhà nước:

  • Nguyên tắc tổ chức: luôn tổ chức nhà nước dựa trên nguyên tắc tập quyền.
  • Bản chất của nhà nước: tính xã hội nổi trội hơn tính giai cấp.
  • Chức năng của nhà nước: hai yếu tố trị thủy – thủy lợi và chiến tranh tự vệ chi phối đến việc thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước.
  • Do tổ chức bộ máy nhà nước ban đầu sơ khai, đơn giản nên những yếu tố tự trị, tự quản làng xã được duy trì để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Từ đây, hình thành chế độ tự trị, tự quản làng xã có ảnh hưởng đến lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, những di tồn về pháp luật:

  • Pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng và duy trì những tập quán đã được hình thành và còn phù hợp.
  • Việc ban hành những quy định của pháp luật luôn đảm bảo phù hợp với truyền thống, văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Từ những phân tích trên đây, có thể thấy trong quá trình hình thành nhà nước Văn Lang – Âu Lạc có những nét đặc thù riêng, xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của đất nước thời bấy giờ. Những đặc thù trên không chỉ ảnh hưởng đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc mà những di tồn của nó còn ảnh hưởng đến nhà nước Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử.

Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Phân tích đặc thù trong quá trình ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn pháp luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

Trân trọng./.