Luật sư bào chữa là gì năm 2024

Vai trò của luật sư, luật sư giỏi trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tranh tụng tại phiên tòa nói riêng có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị can, bị cáo, giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật, tránh làm oan người vô tội nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được ban hành với nhiều quy định tiến bộ, khẳng định rõ và nâng cao vị thế, vai trò của luật sư luật sư giỏi trong hoạt động tố tụng, nhất là vai trò tranh tụng từ giai đoạn trước khi khởi tố vụ án (thường gọi là giai đoạn tiền tố tụng), khởi tố bị can (giai đoạn một người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố) đến giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can, điều tra, truy tố và xét xử. Bài viết này bàn luận về vai trò của luật sư, luật sư giỏi, luật sư tham gia tố tụng, luật sư bào chữa, đặc biệt là vai trò tranh tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như quyền tham gia tố tụng, quyền bình đẳng với những người tham gia tranh tụng tại phiên tòa, chức năng bào chữa cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị can, bị cáo trong vụ án hình sự….

Ở nước ta, trong một thời gian dài vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng chưa được quan tâm chú trọng. Kể từ khi Pháp lệnh về luật sư năm 1987, Luật Luật sư năm 2006 và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị bàn về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” được ban hành, vai trò của luật sư, luật sư giỏi trong vụ án hình sự mới thực sự được ghi nhận. Đây thực sự là những văn bản pháp lý quan trọng ghi nhận vai trò và địa vị pháp lý của luật sư giỏi trong hoạt động xét xử, đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm hoạt động của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...”; “việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa… để đề ra những bản án, quyết định đúng pháp luật”; “các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư giỏi tranh luận dân chủ tại phiên tòa”. Bị can, bị cáo hoặc thân nhân của bị can, bị cáo đã chủ động tìm đến luật sư, luật sư giỏi để được tư vấn, nhờ bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình và người thân của họ. Có thể nói, vai trò của luật sư, luật sư giỏi trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tranh tụng của luật sư, luật sư giỏi tại phiên tòa nói riêng có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo. Luật sư giỏi còn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách khách quan, đúng pháp luật, tránh những vụ án oan, sai, góp phần tích cực vào tiến trình cải cách tư pháp do Bộ Chính trị đề ra. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015, chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015, có nhiều quy định tiến bộ nhằm nâng cao vị thế, vai trò và quyền của luật sư trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tranh tụng nói riêng.

1.Luật sư tham gia tố tụng trong giai đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm.

Đây là một quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, chấm dứt việc cơ quan tiến hành tố tụng thường không cho luật sư tham gia trong giai đoạn này như trước đây. Giai đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm là giai đoạn trước khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Đây là giai đoạn một người bị tố giác phạm tội, bị kiến nghị khởi tố. Theo quy định tại Điều 83 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tại giai đoạn này luật sư tham gia với tên gọi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Điều luật này quy định cụ thể như sau:

1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố là người được người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

2. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có thể là:

  1. Luật sư;
  1. Bào chữa viên nhân dân;
  1. Người đại diện;
  1. Trợ giúp viên pháp lý.

3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền:

  1. Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  1. Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  1. Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  1. Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

4. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có nghĩa vụ:

  1. Sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án;
  1. Giúp người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

2. Luật sư tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử.

Trong các giai đoạn này, luật sư luật sư giỏi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Theo quy định tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật sư có quyền và nghĩa vụ như sau:

Điều 73. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa

1. Người bào chữa có quyền:

  1. Gặp, hỏi người bị buộc tội;
  1. Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;
  1. Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;
  1. Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

  1. Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;
  1. Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
  1. Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  1. Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  1. Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;
  1. Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;
  1. Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;
  1. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
  1. Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

2. Người bào chữa có nghĩa vụ:

  1. Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo;
  1. Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
  1. Không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan;
  1. Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;

đ) Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;

  1. Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
  1. Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.