Phân tích khái niệm an ninh mạng trong luật an ninh mạng

Thứ nhất, quy định các khái niệm cơ bản và chính sách của Nhà nước về an ninh mạng; nguyên tắc và biện pháp bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ không gian mạng quốc gia; hợp tác quốc tế về an ninh mạng; các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng; xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng. Đây là cơ sở để xác định phạm vi đấu tranh, biện pháp áp dụng, các hành vi vi phạm và cách thức phòng ngừa, xử lý các hành vi này cũng như triển khai công tác nghiên cứu, hoàn thiện lý luận về an ninh mạng.

Thứ hai, quy định đầy đủ các hoạt động bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Với các quy định về thẩm định, kiểm tra, đánh giá điều kiện, ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng được quy định tại Chương II, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ chặt chẽ từ bên trong. Với các biện pháp bảo vệ an ninh mạng, xử lý các hành vi tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chiếm đoạt thông tin thuộc bí mật nhà nước, các hành vi chống, phá Nhà nước được quy định tại Chương I, Chương III, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ từ bên ngoài. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, thể hiện sự bảo vệ tương xứng với vai trò của hệ thống thông tin an ninh quốc gia.

Thứ ba, đưa ra các quy định nhằm tạo nền tảng pháp lý trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức cá nhân trên không gian mạng, như soạn thảo, đăng tải thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng, làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; sử dụng không gian mạng để tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chiếm đoạt bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên không gian mạng; sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự; tấn công mạng... Đây là hành lang pháp lý vững chắc để người dân có thể yên tâm kết bạn, trao đổi, buôn bán, kinh doanh hay hoạt động trên không gian mạng.

Thứ tư, tập trung quy định về triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng một cách đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương, trọng tâm là các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị, quy định rõ các nội dung triển khai, hoạt động kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức này. Kết cấu hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế cũng là một trong những đối tượng được bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt chẽ cùng sự tham gia đồng bộ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân, việc sử dụng thông tin để vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác sẽ bị xử lý nghiêm minh; hành vi xâm phạm an ninh mạng sẽ được phát hiện, cảnh báo kịp thời. Các hoạt động nghiên cứu, phát triển an ninh mạng, phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an ninh mạng, nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng và bảo vệ trẻ em trên không gian mạng cũng được quy định chi tiết, là nền tảng pháp lý quan trọng triển khai công tác an ninh mạng hiện tại và tương lai.

Thứ năm, tạo cơ sở pháp lý quan trọng thực thi chính sách của Nhà nước về bảo vệ dữ liệu cá nhân, dữ liệu quốc gia trên không gian mạng. Để quản lý chặt chẽ, bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu của nước ta trên không gian mạng, Luật An ninh mạng đã quy định các doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính phủ Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đấu tranh phòng, chống tội phạm trước các diễn biến phức tạp của hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, thương mại điện tử, kinh doanh tiền ảo, tiền điện tử thời gian qua.

Thứ sáu, tạo cơ sở pháp lý cho công tác bảo đảm triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng, xây dựng và hình thành lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng chất lượng cao. Chú trọng giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về an ninh mạng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân với mục tiêu tham gia không gian mạng an toàn, lành mạnh, hạn chế tối đa nguy cơ, tác động tiêu cực, phát huy tối đa hiệu quả.

Thứ bảy, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động trên không gian mạng, tập trung vào việc xác định trách nhiệm của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng được bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.


 

Tóm tắt: Luật An ninh mạng được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa XIV) thông qua tại kỳ họp thứ 5, ngày 12/6/2018 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019. Trong bài viết tác giả sẽ phân tích các quy địnhcủa Luật an ninh mạng liên quan đến việc bảo vệ quyền con người, cũng như đưa ra các ý kiếnphản báclại quan điểm của một số đối tượng thù địch, phản động, chống đối xuyên tạc cho rằng hoạt động xử lý tin giả, thông tin sai sự thật, thông tin xấu độc là vi phạm quyền con người, quyền tự do ngôn luận.

Từ khóa: Không gian mạng, An ninh mạng, quyền con người…

Abstract: The Cyber Security Law was passed by the National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam (Session XIV) at the 5th session, June 12, 2018 and takes effect from January 1, 2019. In this article, the author will analyze the provisions of the Law on cyber security related to the protection of human rights, as well as give opinions against the views of some hostile, reactionary, anti – Misrepresenting that the handling of take news, false information, malicious information is a violation of human rights and freedom of speech. 

Keyworlds: Cyberspace, network security, human rights…

1. Không gian mạng và những tác động tới an ninh trật tự

Trong Luật An ninh mạng năm 2018 có đưa ra khái niệm về không gian mạng. Theo đó, “Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian”.(1)[1]

Như vậy, Không gian mạng là khái niệm rộng hơn Internet. Nó là mạng lưới kết nối toàn cầu của các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm Internet, các mạng viễn thông, các hệ thống máy tính và các hệ thống xử lý và điều khiển trong các ngành công nghiệp trọng yếu, là môi trường đặc biệt “môi trường ảo”, nơi mà con người có thể trao đổi thông tin và tương tác với nhau, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian.

Từ đầu thế kỷ thứ XXI, thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư. Đây là cuộc cách mạng gắn liền với sự phát triển của không gian mạng, hợp nhất công nghệ vật lý, kỹ thuật số và sinh học, kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể, làm thay đổi căn bản cách thức con người tạo ra sản phẩm, từ đó tạo nên “cuộc cách mạng” về tổ chức các chuỗi sản xuất – giá trị.Sự kết nối và tương tác thông qua Internet đã mở ra một kỷ nguyên mới thúc đẩy tiến trình phát triển xã hội của nhân loại. Không gian mạng đã trở thành một bộ phận cấu thành và đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Do vậy, phát triển và làm chủ không gian mạng là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của các nước trên thế giới.

Những lợi ích mà Internet, mạng xã hội mang lại cho cuộc sống của con người là điều không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, trong thế giới ảo - hệ sinh thái số ấy lại đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và hơn thế nữa là đối với toàn nhân loại, nhất là việc đánh giá tính chân thực của thông tin mạng, như: Chuyện quan hệ nam - nữ… hôn nhân, gia đình; tình hình kinh tế - xã hội cho đến những vấn đề liên quan đến An ninh quốc gianhư:Tình hình Biển Đông, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc - Hoa Kỳ…; đều khó xác định, khó kiểm chứng tính chân thực của thông tin mà mình nhận được hoặc quan tâm. Điều này dẫn tới việc kẻ xấu có thể lợi dụng Internet, mạng xã hội vì những mục tiêu xấu xa, như: Đưa thông tin giật gân nhằm câu view, câu like; đưa thông tin về đời tư do hẹp hòi, ích kỷ... Nguy hiểm hơn, không gian mạng còn là môi trường thuận lợi để kích hoạt các vũ khí mạng trong việc lật đổ thể chế chính trị của một số quốc gia mà sự kiện “Mùa xuân Ả rập” hay “cách mạng hoa Lài”… là những minh chứng cụ thể. Hoạt động sử dụng không gian mạng để hoạt động khủng bố, truyền bá chủ nghĩa khủng bố, cực đoan, tuyển quân ngày càng đe dọa nghiêm trọng đến an ninh các quốc gia, nổi lên là hoạt động của tổ chức “Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS”.

Từ đó để thấy rằng, trong thời đại ngày nay, vấn đề An ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và quyền con người đang đứng trước những thách thức mới. Nếu như trước đây An ninh quốc gia là bảo vệ chủ quyền vùng đất, vùng biển, vùng trời, chế độ xã hội... thì ngày nay, đó còn là bảo vệ an ninh không gian mạng. Cựu Tổng thống Mỹ ông Barack Obama đã nói rằng: “Đe dọa về an ninh mạng trở thành một trong các thách thức về kinh tế và an ninh quốc gia nguy hiểm nhất đối với nước Mỹ” và “Internet hiện trở thành vũ khí hủy diệt hàng loạt”(2)[2].

Nhiều quốc gia đã nhận thức rõ về những mối đe dọa đối với an ninh mạng, coi đây là thách thức mới, mối đe dọa mới có tầm quan trọng và nguy hiểm cao nên đã cụ thể hóa thành các chính sách, Luật hoặc văn bản dưới luật, thành lập lực lượng chuyên trách về an ninh mạng, tình báo mạng, chiến tranh mạng, phòng chống khủng bố mạng và tội phạm mạng tại hơn 80 quốc gia, tổ chức, liên minh quốc tế như: Mỹ, Anh, Đức, Hà Lan, Pháp, Canada, Hàn Quốc, NATO… nhằm tạo ra các thiết chế, cơ sở pháp lý chống lại các nguy cơ đe dọa đến an ninh quốc gia từ không gian mạng.(3)[3]

Tại Việt Nam, việc ứng dụng và phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin trong các lĩnh vực của đời sống xã hội đã góp phần to lớn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục, phát huy sức sáng tạo và quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững an ninh, quốc phòng. Tuy nhiên, dưới góc độ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội thì chính sự phát triển đó lại gây ra nhiều vấn đề tiêu cực, những kẻ xấu, các thế lực thù địch dễ dàng sử dụng mạng viễn thông, Internet để tuyên truyền, phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, kích động biểu tình, gây rối, bạo loạn nhằm lật đổ chính quyền, thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Xuất hiện hàng nghìn trang thông tin điện tử, blog, trang mạng xã hội như Zalo, Viber, Twitter… đặc biệt là Facebook, có nội dung xấu, đăng tải ấn phẩm đồi trụy, bạo lực, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hoạt động tình báo mạng, tội phạm mạng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, gây hậu quả ngày càng nghiêm trọng…(4)[4]. Chúng đã sử dụng hacker (tin tặc) tấn công mạng, gây ra những tổn hại về kinh tế, xã hội; điển hình là vụ tin tặc tấn công hàng loạt Website của các sân bay trong nước (tháng 3-2017)[5], khiến cho nhiều chuyến bay bị gián đoạn, hủy bỏ, gây thiệt hại lớn về kinh tế.

Trong thời gian từ ngày 10 đến 11/6/2018, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã câu kết với nhau, lợi dụng Internet, mạng xã hội kích động quần chúng nhân dân biểu tình, gây rối ở một số tỉnh, thành phố như: Đà Nẵng, Nha Trang, Bình Thuận, Thành phố Hồ Chí Minh… khi Quốc hội thảo luận Dự thảo Luật Đặc khu,[6] thông qua Luật An ninh mạng.

Chính vì lẽ đó, việc ban hành Luật An ninh mạng là cần thiết để tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc xác định và xử lý các hành vi xâm phạm đến An ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là những hành vi xâm phạm đến các quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.

2. Các quy định củaLuật An ninh mạng liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền con người trên không gian mạng

Theo giải trình của Ban soạn thảo, nội dung của Luật An ninh mạng phù hợp với tinh thần của Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn về quyền con người của Đại hội đồng Liên hợp quốc (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966,[7] và các văn bản khác có liên quan, phù hợp với Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự Việt Nam. Các quy định của Luật An ninh mạng trực tiếp bảo vệ 05 quyền con người, cụ thể:

Quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ; Quyền không bị can thiệp vào đời tư, gia đình, chỗ ở hoặc thư tín; Quyền không bị xâm hại danh dự hay uy tín cá nhân; Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo của công dân; Quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt của công dân. Đồng thời, những quy định của Luật An ninh mạng còn tạo cơ sở để giúp các cơ quan chức năng thực hiện các hoạt động phòng ngừa và xử lý các hành vi sử dụng không gian mạng xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Điều 8 Luật an ninh mạng đã liệt kê cụ thể, rõ ràng các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng, trong đó có những hành vi xâm phạm đến quyền con người, bao gồm một số hành vi sau:

Một là, sử dụng không gian mạng để thực hiện hành vi: Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc;Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.

Hai là,Sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử của người khác.

Ba là, Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi.

Như vậy, những hành vi mang tính xâm phạm đến các quyền con người như: Quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân; can thiệp vào đời tư, gia đình, chỗ ở hoặc thư tín; xâm hại danh dự hay uy tín cá nhân; xâm hại đến quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo của công dân… đều bị Luật An ninh mạng nghiêm cấm. Đồng thời, Luật An ninh mạng không có những quy định mang tính cấm đoán các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài như: Facebook, Google…; Không cấm công dân tham gia hoạt động trên không gian mạng hoặc truy cập, sử dụng thông tin trên không gian mạng… Tuy nhiên, trong trường hợp các cá nhân, tổ chức sử dụng không gian mạng để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ bị xử lý.

Việc xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng được thực hiện dựa trên quy định tại Điều 9 Luật An ninh mạng. Theo đó, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà người vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Xét về quyền con người, quyền và lợi ích cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, Luật An ninh mạng hoàn toàn không có bất cứ hạn chế, vi phạm nào đối với quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng này. Trái lại, Luật An ninh mạng là công cụ pháp lý hữu hiệu nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp để người dân và doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng bị “ô nhiễm” thông tin như bảo đảm không khí, nước uống và thực phẩm sạch cho sức khỏe con người.

Có thể nói, chưa có luật nào đưa ra nhiều quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng như Luật An ninh mạng và chưa bao giờ quyền trẻ em trên không gian mạng lại được bảo vệ như vậy.(1)[8]

Mặc dù lợi ích, sự cần thiết của việc ban hành Luật An ninh mạng tại Việt Nam là điều không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, chính sự ra đời và chế tài áp dụng của Luật An ninh mạng cũng chính là rào cản cho hoạt động lợi dụng không gian mạng chống Đảng, Nhà nước của nhiều phần tử chống đối. Bọn chúng xuyên tạc và cho rằng hoạt động xử lý tin giả, thông tin sai sự thật, thông tin xấu độc là vi phạm quyền con người, quyền tự do ngôn luận. Vì vậy, chúng bày ra nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để vu khống, xuyên tạc tính chất ưu việt của Luật An ninh mạng, kích động, kêu gọi người dân xuống đường biểu tình phản đối Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng với các luận điệu bịa đặt như: Luật An ninh mạng đang “chống lại loài người”, “bịt miệng dân chủ”, “đàn áp bất đồng chính kiến”, “tạo rào cản kinh doanh”, “tăng chi phí cho doanh nghiệp”, “thêm giấy phép con”, “lạm quyền”, “cấm sử dụng Facebook, Google”[9]… Khi nghiên cứu, nhận thức rõ về Luật An ninh mạng, có thể khẳng định: “Hoàn toàn không có chuyện Luật An ninh mạng xâm phạm quyền riêng tư, quyền tự do ngôn luận và quyền sử dụng Internet”. Chúng ta thấy rõ Luật An ninh mạng không có những quy định nêu trên, không tạo rào cản, không tăng thủ tục hành chính, không cấp giấy phép con và không cản trở hoạt động bình thường, đúng luật của các tổ chức, cá nhân mà trái lại Luật đang bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trên không gian mạng.[10]

Như vậy, những quy định hạn chế quyền nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng và quyền cá nhân được quy định trong Luật An ninh mạng là hoàn toàn tương thích với luật quốc tế về quyền con người.[11]Sự phản ứng tiêu cực về Luật An ninh mạng của những đối tượng xấu là điều dễ hiểu. Bởi vì, với các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị, chống chế độ, chống Nhà nước ta thì đây là công cụ pháp lý, tước đi vũ khí quan trọng mà chúng có thể sử dụng để thực hiện mục tiêu chống phá, lật đổ, chuyển hóa chế độ ta sang con đường “dân chủ”, “nhân quyền” ngoại nhập. Ngược lại, đối với Nhà nước và nhân dân ta, việc ban hành và thực hiện nghiêm Luật An ninh mạng là một trong những bảo đảm quan trọng và là biện pháp hữu hiệu để bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây chính là vũ khí pháp lý để ngăn chặn, xử lý những hành vi lợi dụng, xâm hại nhằm bảo vệ An ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội, quyền con người, quyền công dân.

Có thể chắc chắn một điều rằng, điều kiện tiên quyết để quyền con người được bảo vệ là cần có một môi trường hòa bình, ổn định, tự do và bình đẳng. Nói cách khác đó phải là một đất nước không có chiến tranh, không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo và xung đột chính trị. Chúng ta thấy rất rõ hệ quả của các quốc gia chịu ảnh hưởng của phong trào “Mùa xuân Ả rập”, như: Tunisia, Ai Cập, Syria, Iraq, Libya… Cái mà họ mong muốn khi đó là dân chủ, nhân quyền và cuộc sống ấm no cho người dân. Nhưng kết cục thực tế lại là chiến tranh, sự đổ nát, nạn đói khát, cướp bóc, chết chóc và đau thương khiến hàng chục nghìn người phải rời bỏ quê hương đi lánh nạn, tạo thành làn sóng di cư ồ ạt sang các nước châu Âu và các quốc gia khác. Do đó, lực lượng Công an nói chung và lực lượng An ninh nói chung cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, giúp cho quần chúng nhân dân hiểu về vị trí, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của Luật An ninh mạng đối với việc bảo vệ An ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên không gian mạng. Từ đó có ý thức tỉnh táo, nhận diện đúng, để loại trừ những quan điểm thù địch, sai trái, ủng hộ để bảo đảm Luật An ninh mạng được thực thi có hiệu quả./.

Nguyễn Viết Tăng, Khoa Luật, T04

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Quốc hội nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam (2018), Luật An ninh mạng;
  2. Trần Đại Quang “Không gian mạng tương lai và hành động”(2017), Nxb Công an nhân dân;
  3. Trần Đại Quang (2017)“Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thời cơ phát triển và cách thách thức an ninh phi truyền thống”, Tạp chí An toàn An ninh mạng, Số 3;
  4. Cao Đức Thái - Vũ Trọng Lâm “Luật An ninh mạng - một bảo đảm quan trọng trong thực thi quyền con người”, Học viện Hậu Cần;
  5. Hoàng Phước Thuận (2018), chuyên đề“Cách mạng công nghiệp 4.0, chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, chiến lược an ninh mạng quốc gia & Luật an ninh mạng” Đại học An ninh nhân dân.

[1]Khoản 3 Điều 2, Luật An ninh mạng, Xem tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Cong-nghe-thong-tin/Luat-an-ninh-mang-2018-351416.aspxTruy cập ngày 7/3/2019;

[2] BBC,30/5/2009, “Mỹ thành lập Cục An ninh mạng Internet” xem tại Trần Đại Quang, “Không gian mạng tương lai và hành động”, Nxb Công an nhân dân năm 2017, Trang 22

[3] Trung tướng, PGS.TS Hoàng Phước Thuận, chuyên đề “Cách mạng công nghiệp 4.0, chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, chiến lược an ninh mạng quốc gia & Luật an ninh mạng” Đại học An ninh nhân dân, T.12/2018.

[4]Trần Đại Quang “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thời cơ phát triển và cách thách thức an ninh phi truyền thống”, Tạp chí An toàn An ninh mạng, Số 3 (T01/2017), Trang 5 - 11

[5] Website hàng loạt sân bay bị tấn công Xem tại https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/website-hang-loat-san-bay-bi-tan-cong-20170309223459403.htm truy cập ngày 25/3/2019

[6] Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt

[7]Việt Nam đã gia nhập năm 1982

[8] Điểu 29 Luật An ninh mạng năm 2018

[9] “Thế lực thù địch tìm thời điểm kích động”, BBC Việt Nam, https://www.bbc.com/vietnamese/media-44506102 truy cập ngày 5/4/2019

[10]Bộ Công an: Luật An ninh mạng không tạo rào cản, https://baomoi.com/bo-cong-an-luat-an-ninh-mang-khong-tao-rao-can/c/26543495.epi,truy cập ngày 21/10/2019

[11] Trong Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 tại Điều 19 khi đề cập tới quyền tự do thông tin đã nêu rất cụ thể tại khoản: “2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ.” Tuy nhiên cũng tại Điều này, tại khoản 3 nói rằng: “3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:

  1. a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,
  2. b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội.”