Phân tích xung đột chính yêu trong vở kịch hồn Trương Ba da hàng thịt

Phân tích đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 1

Hồn Trương Da, da hàng thịt là một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc đó – thời điểm những năm tám mươi của thế kỉ XX. Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lại một tích truyện dân gian cũ để đan cài vào đó những suy nghĩ, quan niệm, triết lí nhân văn mới mẻ và sâu sắc.

Câu truyện bắt đầu từ khi cuộc sống của Trương Ba bắt đầu tái sinh dưới thân xác anh hàng thịt. Với truyện cổ tích, đó là một kết thúc có hậu và Trương Ba tiếp tục hạnh phúc với hình hài và thân xác mới. Tuy vậy, dưới con mắt của Lưu Quang Vũ, hiện thực cuộc đời được tái hiện theo đúng cách mà nó tồn tại. Vì thế mới nảy sinh một bi kịch mới, đó là bi kịch của một tâm hồn thanh cao, trong sáng lại phải sống chật chội trong thân xác một anh hàng thịt phàm phu tục tử, thô lỗ, bản năng. Tuy vậy, sau ba tháng trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt, với những lí lẽ đầy cám dỗ của thân xác, tâm hồn thanh cao của Trương Ba cũng có lúc bị tha hóa, phải làm những điều trái với tư tưởng, đạo lí của mình để thỏa mãn thân xác. Đó chính là bi kịch nội tại của nhân vật.

Sống trong xác anh hàng thịt, Trương Ba nhận thấy mình ngày càng bị tha hóa và đau khổ hơn là hồn Trương Ba không thể giải quyết được mâu thuẫn đó. Bi kịch được đào sâu, tạo xung đột qua các đoạn đối thoại.

Đầu tiên là cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác.

Xác – bằng những lí lẽ đầy cám dỗ và những chứng cứ xác thực đã làm cho hồn thấy ràng sự tồn tại của nó cũng có cái thú vị. Đó là cảm giác khát thèm xác thịt, cảm giác khát thèm miếng ăn, sự đắc thắng trước bạo lực. Xác anh hàng thịt cũng sắc sảo không kém khi chỉ ra: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống phải vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác”. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập: “Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn; Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo; Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc”… cứ dội về lòng người đọc về những ước nguyện khắc khoải của hồn Trương Ba. Những ước nguyện “được là mình” ấy của hồn Trương Ba đang dần rơi vào tuyệt vọng. Hồn ra sức bảo vệ sự trong sáng của bản thân một cách yếu ớt. Xác đắc thắng dồn ép hồn thoả hiệp với mình và chấp nhận sống trong cùng thân xác ấy, bởi chúng ta tuy hai mà là một. 

Bi kịch ấy vẫn chưa dừng lại. Tuy nhiên, qua lí lẽ của anh hàng thịt, tác giả cũng hàm ý rằng, thể xác cũng có tiếng nói riêng. Đó là tiếng nói của bản năng, của đam mê, dục vọng đời thường. Vì thế, con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi cái xác vật chất đời thường. Đó cũng chính là sự mâu thuẫn giữa khát vọng và bản năng con người.

Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân. Đó là bi kịch của một người không được thừa nhận. Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không còn nhận ông, thậm chí còn xua đuổi ông. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không thể chấp nhận sự hoán đổi thân xác như thế. Gái một mực từ tình thân: “Tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi”. “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút di!”. Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, cảm thông với ông trước tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bâm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ -có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thấy một đổi khác dần. Mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ đần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”.

Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Và hồn đã quyết không thể khuất phục xác được nữa. Hồn Trương Ba đã phản kháng quyết liệt: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời đối thoại có tính chất quyết định dẫn đến hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Đối thoại với Đế Thích chính là lớp xung đột cuối cùng trong bi kịch của hồn Trương Ba.

Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Đế Thích đã cố khuyên hồn Trương Ba thỏa hiệp với cuộc sống theo cách của anh hàng thịt. Nhưng Trương Ba đã thẳng thán chỉ ra rằng: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn…”. Bởi Trương Ba đã ý thức được vấn đề là sống như thế nào: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sông nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng Sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”.

Qua bi kịch của hồn Trương Ba, nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến những thông điệp đến người đọc. Đó là con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rằng, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi Sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.

Màn kết, Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch, hóa thân vào các sự vật thân thương và tồn tại vĩnh cửu bên người thân. Cuộc Sống trở lại quy luật tuần hoàn của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan, đồng thời gửi đến cho người đọc thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp và sự sống đích thực.

Từ tích truyện cổ dân gian, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một thông điệp sâu sắc về triết lí sống. Tính đa tầng, đa nghĩa, đa thanh trong vở kịch này là một sáng tạo mới của Lưu Quang Vũ. Chính sự đa điệu ấy đã làm nên sức hấp dẫn và nguồn sống dạt dào cho vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt.

Phân tích đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 2

A. MỞ BÀI:

“Được sống làm người là vô cùng quý giá. Nhưng được sống là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình có, sống trong sự hài hoà tự nhiên còn quý giá hơn”. Bằng trái tim nhạy cảm của một thi sĩ, bằng trí tuệ sắc sảo của một triết gia, Lưu Quang Vũ qua đoạn trích vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” đã làm nổi bật được một triết lí nhân sinh rất giàu ý nghĩa nhân bản “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

B. THÂN BÀI:

 I. Gới thiệu vài nét về tác giả.

Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia đình trí thức (bố là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận) nên thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của tác giả đã bộc lộ từ nhỏ. Ông đã từng phục vụ trong quân đội và từng làm đủ mọi nghề để kiếm sống. Từ 1978 đến 1988, ông là biên tập viên cho tạp chí “Sân Khấu” và bắt đầu sáng tác kịch nói – vở kịch đầu tay “Sống mãi tuổi 17”. Sau đó, một nguồn lực sáng tạo đột khởi, mạnh mẽ, dồi dào đã bùng cháy dưới ngòi bút của Lưu Quang Vũ. Với những vở kịch gây chấn động dư luận như “Lời nói dối cuối cùng”, “Nàng Xi ta”, “Nếu anh không đốt lửa”, “Khoảnh khắc vô tận”… Lưu Quang Vũ không chỉ trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch những năm 80 của thế kỉ XX mà còn được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Ông qua đời khi tài năng đang nở rộ (29/8/1988. trong một tai nạn giao thông thảm khốc trên quốc lộ 5 đã cướp mất một tài năng kiệt xuất cùng với người bạn đời là nữ thi sĩ tài danh Xuân Quỳnh).

Xem thêm:  Phân tích vẻ đẹp những con sông Việt Nam qua Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông

Trước khi là một kịch gia nổi tiếng, ông cũng đã từng làm thơ, đã sáng tác một số truyện ngắn có phong cách riêng. Năm 2000, ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

“Hồn Trương Ba da hàng thịt” (viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng) là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra những vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng triết lí và nhân văn sâu sắc.    

 II. Phân tích Tác Phẩm:

   1. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác anh hàng thịt.

Vì sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào mà Trương Ba đã chết một cách vô lý. Nhưng nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba, theo lời khuyên của Đế Thích, Nam Tào và Bắc Đẩu đã cho Trương Ba sống lại bằng cách để hồn Trương Ba trú nhờ trong thể xác của anh hàng thịt. Thế là Trương Ba bị đẩy vào một nghịch cảnh đầy éo le, trớ trêu: linh hồn mình phải trú nhờ trong thể xác của kẻ khác. Do phải sống nhờ thể xác anh hàng thịt “một thể xác kềnh càng, thô lỗ”, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu “tự nhiên” của xác thịt. Linh hồn vốn nhân hậu, trong sạch, thanh cao, thông minh, sắc sảo và bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia nay vì phải sống mượn, gá lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc, bị tha hoá bởi những cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể như “thèm ăn ngon, thèm rượu thịt, thèm cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi”. Thậm chí, đã có lúc hồn Trương Ba sắp ngã vào tay chị vợ anh hàng thịt “khi ông ở bên nhà tôi… khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại…Đêm hôm đó suýt nữa thì… cơn giận của ông lại có thêm sức mạnh của tôi nên đã làm cho ông tát thằng con ông toé máu mồm, máu mũi”. Ý thức được điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt đau khổ, quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác anh hàng thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích nên đã cười nhạo báng hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u đui mù ghê gớm của mình và ranh mãnh dồn hồn Trương Ba vào thế đuối lý; hơn nữa còn ve vãn hồn Trương Ba thoả hiệp, vì theo lý lẽ của xác thịt là “chẳng còn cách nào khác đâu” vì “cả hai đã hoà vào nhau làm một rồi!”. Trước những lý lẽ “ti tiện” không thể chấp nhận được của xác thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, đã mắng mỏ xác anh hàng thịt là hèn hạ, nhưng đồng thời cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cảnh mà mình đã lâm vào, đành nhập trở lại vào xác hàng thịt trong tuyệt vọng để từ đó đi đến giải pháp tồn tại “chung sống hoà bình” mang tên “hồn Trương Ba da hàng thịt” bằng “trò chơi tâm hồn”. Luật chơi là hồn cứ việc nghĩ mình cao khiết, thánh thiện, thẳng thắn, làm điều gì xấu thì cứ việc đổ tội cho xác để được thanh thản. Bù lại, hồn sẽ làm đủ mọi việc để thoả mãn những thèm khát tầm thường của xác.

Màn đối thoại cho thấy:

   a1: Tuy Trương Ba được trả lại cuộc sống, nhưng là cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục tầm thường đồng hoá.

   b1: Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và dần dần sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.

   c1 Từ đấy dẫn đến một triết lí sâu xa mà Lưu Quang Vũ muốn nhắn gửi tới độc giả: đã là con người thì phải có hai phương diện linh hồn và thể xác hài hoà thống nhất với nhau. Có lẽ nào “tôi muốn được là tôi toàn vẹn” mà lại “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Vả lại, đời sống con người đâu chỉ gói gọn trong những nhu cầu bản năng thuần tuý? Và cũng đừng bỏ bê thân xác “mãi khổ sở, nhếch nhác” để chỉ biết đến một thứ linh hồn chung chung trừu tượng không thuộc về một ai cả trên cõi thế gian này. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng, hoài bão cao cả với dục vọng; ham muốn tầm thường, giữa phần “người” và phần “con” luôn luôn diễn ra hàng ngày, hàng giờ trong mỗi con người. “Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ. Một bên đại diện cho sự trong sạch, nhân hậu, thẳng thắn và khát vọng sống thanh cao xứng đáng với danh nghĩa con người và một bên là sự tầm thường, dung tục” (sách giáo viên).

2. Màn đối thoại giữa Trương Ba và người thân.

Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với những người thân (vợ, con dâu, cháu gái) càng làm cho ông đau khổ hơn.

   a. Đây là câu trả lời đẫm nước mắt vì yêu thương, đau đớn, hờn dỗi và bế tắc của người vợ: “tôi biết ông là người vốn hết lòng thương yêu vợ con… chỉ tại bây giờ… ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa… ông bây giờ còn biết đến ai nữa?”.

   b. Còn đây là đứa cháu gái vốn hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng giờ đây rất bực tức, giận dữ đã trả lời ông qua tiếng khóc nức nở: “Nếu ông nội tôi về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông! Từ nay, ông không được động vào cây cối trong vườn tôi nữa! Ông mà quý cây à?… bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt chồi non, chân ông to bè bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm! Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy… Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể cút đi!”.

   c. Cô con dâu Trương Ba vốn là người hiếu thảo thấu hiểu được hoàn cảnh trớ trêu, éo le của bố chồng, nhưng cũng chỉ biết thương cảm, xót đau mà thôi: “Thầy bảo con: cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng con sợ lắm, bởi con đau đớn cảm thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần… đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”.

Thế là trú ngụ trong thân thể anh hàng thịt, Trương Ba không còn là mình nữa, không còn giữ được đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, thanh cao… Trương Ba đang bị cái thể xác ấy xâm chiếm, lấn lướt và làm tha hoá, tàn phá dần. Biết mình như vậy trong mắt người thân, hồn Trương Ba vô cùng đau khổ. Tình huống kịch lên đến đỉnh điểm thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn và đi đến một phản kháng quyết liệt: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”.

3. Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích.

Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh trớ trêu đầy tính chất bi hài của mình “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” mà “tôi muốn là tôi toàn vẹn”. Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích bằng những lời phê phán, trách cứ gay gắt “sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết. Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá đắt quá, không thể trả được”. Đây quả là một bước ngoặt, một sự “bừng ngộ”, một cuộc cách mạng lớn lao trong nhận thức của hồn Trương Ba mà để đi được đến đó, Trương Ba đã trải qua những thử thách, những trải nghiệm đầy cam go, đau đớn.

Đế Thích định tiếp tục việc “sửa sai” của mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác mang tính chất thoả hiệp là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tỵ. Nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, chắp vá mà theo ông là “còn khổ hơn cái chết… Mình tôi sống giữa đám người hậu sinh, những gì chúng thích thì tôi ghét, những gì tôi thích thì chúng chẳng ưa. Tôi sẽ như ông khách ngồi dai ở nhà người ta… Tôi sẽ bơ vơ, lạc lõng hoặc trở nên thảm hại, đáng ghét như kẻ tham lam, một kẻ lí ra phải chết từ lâu rồi mà vẫn cứ sống, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi thứ lộc trời! Vô lý lắm! Không!”.

Cuối cùng Trương Ba kêu gọi Đế Thích hãy sửa sai bằng một việc làm đúng. Đó là trả lại linh hồn cho cu Tỵ. Qua màn đối thoại, ta thấy dường như Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ quyết liệt, vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Đặc biệt, qua đó toát lên vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống trọn vẹn hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách con người. Ý nghĩa nhân bản, chất thơ của Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.

Xem thêm:  Bình giảng Người tù thổi sáo trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh

4. Màn kết

Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch. Là con người, Trương Ba vẫn “rất ham sống” nhưng kiên quyết không nhập vào hình thù ai nữa: “Tôi đã chết rồi! Hãy để cho tôi chết hẳn!”. Hồn Trương Ba hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. “Tôi đây bà ạ!… Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu”. Rồi lại gieo hạt xuống “cho mọc thành cây, những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi… trong màu xanh bất tử, cuộc sống lại tiếp tục sinh sôi nảy nở theo quy luật tuần hoàn vĩnh hằng của sự sống”. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan, đồng thời vang lên bài ca về sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp của sự sống đích thực.

III. KẾT LUẬN

Tóm lại, qua đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc thông điệp với ý nghĩa sâu xa, giàu tính chất nhân bản: “được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý”.

Phân tích đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 3

Lưu Quang Vũ (1948 – 1988), quê gốc ở Đà Nẵng nhưng sinh tại Phú Thọ. Ông sinh ra trong một gia đình trí thức. Ông thừa hưởng được tài năng viết kịch của cha mình cho nên khi lớn lên Lưu Quang Vũ cũng là một nhà viết kịch nổi tiếng mà ai cũng biết đến. Ngoài kịch ra ông còn làm thơ thế nhưng thành công hơn cả vẫn là kịch. Tác phẩm kịch nổi tiếng của ông phải kể đến vở hồn Trương ba da hàng thịt. Qua vở kịch ấy tác giả gửi gắm đến độc giả những chủ ý giàu tính nhân văn trong cuộc sống của con người chúng ta.

Vở kịch được viết vào năm 1981 và công diễn lần đầu tiên năm 1984. Đoạn trích hồn trương ba da hàng thịt là phần cuối của vở kịch. Thuộc cảnh VII của đoạn kết. Đó cũng là đoạn xung đột kịch được đẩy lên đỉnh điểm và cuối cùng là giải quyết xung đột và có cái kết tốt đẹp đầy chủ ý nhân văn.

Đoạn mở đầu là cuộc đối thoại đầy căng go giữa hồn và xác. Thoạt đầu Trương Ba ngồi vò đầu gãi tay và bức bối mong muốn thoát khỏi cái xác thịt xù xì kinh khủng này. Khi ấy hồn thoát ra khỏi xác và xảy ra cuộc cãi cọ lớn. Cả hai hồn và xác đều đưa ra những quan điểm lý lẽ của mình. Hồn nói rằng dù sống trong xác thịt đui mù u tối ấy thì ông vẫn có một đời sống nguyên vẹn trong sạch. Hồn phủ định tất cả những hành động như làm gãy diều của cu Tỵ hay vả người con trai của mình học máu mồm không phải xuất phát từ hành động suy nghĩ của bản thân mình. Không những thế hồn cho những cái mà xác nói là những cái ti tiện không thể nào chấp nhận được Thế nhưng chính hồn lại phải đuối lý trước những câu nói của xác. Xác như khẳng định sự quan trọng của bản thân mình trong việc chứa đựng linh hồn kia. Hai ta đã hòa làm một không thể tách rời nhau đâu. Xác còn chứng minh ảnh hưởng ghê gớm của bản thân mình khi nhiều khi lấn át của hồn chứ xác không hề đui mù như hồn nói. Chẳng phải là nhiều lúc hồn phải cho xác ăn uống thỏa thích với cái thói quen ăn uống của tên bán thịt lớn kia sao. Mặt khác khi ở gần vợ hắn hơi thở của hồn chẳng nóng lên nhanh hơn hay sao. Hồn cứ nghĩ mình thanh thiện, cao khiết làm việc gì xấu cũng đổ tội cho xác để được thoải mái nhưng bù lại phải làm thỏa mãn những gì xác muốn. Chính những lí lẽ mà ngay chính hồn cũng không thể chối cãi khiến cho hồn nhập lại vào xác một cách tuyệt vọng. Qua cuộc đối thoại ấy chúng ta nhận ra một chủ ý nhân văn rằng con người chúng ta phải sống hài hòa giữa thân xác và linh hồn. cái nào cũng quan trọng cho nên không thể quan trọng tinh thần mà bỏ bê thể xác và ngược lại. Hơn nữa thì phải sống đúng cái thân xác của mình thì mới phù hợp với tâm hồn của mình được. Và khi sống chung với sự dung tục thì dễ bị dung tục làm cho đồng hóa. Cuộc đấu tranh giữa hồn và xác giống như cuộc đấu tranh giữa khát vọng và duc vọng vậy. Chính vì thế mà chúng ta nên biết tự cân bằng giữa hồn và xác để không bị dung tục ngự trị. Còn Trương Ba ở đây tuy rằng được sống nhưng lại sống một cuộc đời đáng hổ thẹn, không được sống đúng với chính mình. Vậy nên sống phải là chính mình chứ không thể nào sống nhờ sống gửi được.

Có lẽ chính vì những hậu quả của việc ở nhờ ở đậu vào thân thể người khác cho nên cuộc đời Trương Ba gặp những bi kịch của cuộc đời với những người thân của mình.

Trước hết là người vợ của mình. Trương Ba yêu thương vợ thế nhưng khi nhập hồn vào xác anh hàng thịt thì thân xác ấy lại cứ đưa ông về bên người vợ của anh hàng thịt. là một người vợ thì làm sao có thể chấp nhận được việc ấy. Chính vì thế mà vợ Trương ba quyết ra đi để nhường ông lại cho vợ của anh hàng thịt.

Sau đó là cuộc đối thoại với người con dâu. Chị có vẻ là người hiểu Trương ba nhất, thông cảm cho những nỗi khổ của ông thế nhưng chị cũng không thể nào giúp gì cho ông được. Chị cũng nhận ra sự thay đổi không thể chấp nhận được của Trương Ba. Và khi ấy chị bật khóc trước tình cảnh gia đình tan nát.

Đến cả đứa cháu gái cũng không thể chấp nhận được ông mình. Nó không nhận ông nó tức ông mà dám mắng ông cút đi. Cái tiếng nói ấy của nó khiến cho Trương Ba đau xót lắm. Nó không thể chấp nhận được một người ông mà bàn chân to dẫm tiệt cái chồi non ông nó cố ươm cho được. Nó ghét cái bàn tay thô lỗ kia đã làm gãy diều của cu Tỵ.

Trước những thái độ của mọi người trong gia đình trương Ba đau khổ, ông nhận ra rằng “mày đã thắng cái xác thịt kia ạ”. Ông quyết định không cần đến đời sống mà xác thịt mang lại nữa. Cái tự nhận ra ấy khiến chúng ta thấy rằng cuộc sống nhờ sống gửi thì không bao giờ bền cả. nó khiến ta rơi vào bi kịch đau đớn.

Ông quyết định đốt hương gọi đế thích lên và bày tỏ cái ý muốn của mình. Vậy là cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích lại diễn ra. Trương Ba thể hiện quan điểm của mình không thể sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo dược. Đế Thích rất ngạc nhiên trước quyết định của Trương Ba. Ông khuyên Trương Ba nghĩ lại vì cuộc sống này vốn không trọn vẹn. Nhưng trước những bi kịch và những gì mắc phải thì Trương Ba vẫn quyết định đên cái chết thật sự chả thân xác cho anh hàng thịt chứ không thể nào sống cuộc sống như thế này nữa. Đế Thích muốn ông nhập vào xác cu Tỵ nhưng Trương ba tưởng tượng ra cái cảnh gọi mẹ nó là mẹ cho nên càng không thể được. Vậy là qua cuộc đố thoai ấy ta thấy được thái độ dứt khoát của Trương Ba. Sống mà phải như thế thì chẳng sống làm gì nữa. Qua đó ta thấy được giá trị nhân văn sâu sắc là phải sống đúng là mình, sống đúng nghĩa hài hòa giữa thể xác và linh hồn. Con người là một thể thống nhất bao gồm linh hồn và thể xác vì thế cho nên không thể sống chấp vá được.

Kết thúc câu chuyện Trương ba chết đi trả lại thân xác cho anh hàng thịt và hồn của Trương Ba thì vẫn ở đâu đó trong ngọn gió. Người thân của ông khi ấy biết là ông đã về, mọi người lại yêu mến ông như ngày nào. Có lẽ cái chết ấy khiến cho ông được sống đúng là chính mình. Tác phẩm không chỉ là một vở kịch giàu kịch tính mà còn mang những giá trị nhân văn mà chúng ta phải suy nghĩ.

Phân tích đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 4

Nhiều thập kỉ đã trôi qua, bạn đọc ngày nay được sống trong sự đổi mới toàn diện, trong vị thế vươn lên của đất nước và dân tộc, sẽ còn tìm thấy nhiều tầng ý nghĩa thú vị hàm ẩn trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Hồn Trương Ba đã và đang đánh thức chúng ta.

Những năm tám mươi của thế kỉ XX, kịch của Lưu Quang Vũ đã làm chấn động sân khấu kịch Việt Nam thời đổi mới. Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch đặc sắc nhất của ông, được sáng từ năm 1981. nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán giả. Vở kịch được sáng tạo từ một truyện cổ tích cùng tên, qua đó, tác giả nêu lên một vấn đề xã hội mang tính triết lí sâu sắc: mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn; con người ta không thể sống nhờ, sống gửi vào cuộc sống của người khác.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

Phần trích đoạn kịch là cuộc đối thoại giữa linh hồn và xác, giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình, giữa hồn Trương Ba và Đế Thích; cuối cùng là cái “chết” của hồn Trương Ba.

Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là một cuộc đối thoại sinh động, đầy ý nghĩa triết lí. Lớp kịch này có 25 lượt lời. Xác hàng thịt thì một điều “ông”, hai điều “ông”, nhưng hồn Trương Ba, sỉ nhục xác hàng thịt đủ điều: xác hàng thịt cho biết dù có “âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”; sao ông không nhớ “Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại…”; hoặc “Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?”.

Nghĩa là hồn Trương Ba đã bị sa sút, tha hóa. Khi hồn Trương Ba tự hào cho rằng mình có một đời sống riêng: “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn” thì xác hàng thịt châm biếm: “Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”.

Xác hàng thịt tỏ ra coi thường hồn Trương Ba, tự kiêu tự đại khẳng định vị thế. vai trò quan trọng của mình. Nào là “tôi đã cho ông sức mạnh”, hoặc “Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn”. Nào là “Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi…”.

Xác hàng thịt thì thầm: “Tôi rất biết cách chiều chuộng linh hồn”; “Tôi biết cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt”…, “chúng ta tuy hai mà một!”.

Cuộc đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thề xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau đế cùng sống, cùng tồn tại. Thể xác có tính độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động vào linh hồn, vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì linh hồn cũng mất. Khi linh hồn “bay đi” thì thể xác cũng trở về cát bụi. Nhờ có linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục vọng tầm thường của thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được trong sáng.

Câu nói của xác hàng thịt: “Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn” đã cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa thể xác và linh hồn, làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.

Từ khi sống nhờ xác hàng thịt, hồn Trương Ba bị tha hóa nhiều: tát con trai tóe máu mồm máu mũi (bằng bàn tay, bằng sức mạnh và sự tàn bạo của xác hàng thịt  Hồn Trương Ba khác hẳn ngày xưa, làm vườn thì thô vụng: đã làm “gãy tiệt cái chồi non” của cây cam, đã “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm”, đã “làm gãy cả nan. rách cả giấy, hỏng mất cả cái diều đẹp” của cu Tị.

Từ ngày mang xác hàng thịt, hồn Trương Ba sống trong bi kịch, trải qua nhiều dằn vặt, đau khổ: vợ muốn bỏ đi để “ông được thảnh thơi… với cô vợ người hàng
thịt”; cái Gái, đứa cháu nội thì khinh bỉ, xua đuổi: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Chị con dâu, người thông cảm và thương hồn Trương Ba hơn cả, giờ đây trước cảnh “tan hoang” của gia đình thì vô cùng lo sợ, đau đớn “thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả như lệch lạc, nhòa mờ dần đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”.

Trước lời than khóc của người con dâu, hồn Trương Ba tê tái, “mặt lạnh ngắt như tảng đá”. Ngồi một mình, như sực tỉnh, như bàng hoàng: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”.

Không thế sống gứi nằm nhờ mãi được, không thể bị lệ thuộc vào thể xác hàng thịt và tự đánh mất mình, hồn Trương Ba an úi, thức tỉnh, động viên mình: “Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày mà tự đánh mất mình?… Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”.

Sự do dự bị đẩy lùi, bị xua tan. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba tuy muộn màng nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Con đường tự giải thoát, linh hồn đã nhìn thấy ánh sáng.

Cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa linh hồn Trương Ba và Đế Thích đã đẩy xung đột kịch lên cao trào, đỉnh điểm. Phải tìm gặp ngay Đế Thích, Hồn Trương Ba “đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết, đến bên cột nhà, lẩy một nén hương châm lửa. thắp lên”. Gặp lại người bạn chơi cờ ở cõi trời, hồn Trương Ba thổ lộ bao nỗi niềm day dứt: “Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt nữa, không thể được!… Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

Mặc dù đã được Đế Thích cho biết cái lẽ trời, cái lẽ đời là từ Ngọc Hoàng đến người trần mắt thịt có ai được là “mình toàn vẹn”, mà “phải khuôn ép mình”… Vả lại, ông đã bị Nam Tào “gạch tên khỏi sổ”, thân thể của ông “đã tan rữa trong bùn đất” rồi. Nhưng hồn Trương Ba phân trần, nài nỉ, nói lên thân phận hèn kém, sống gửi nằm nhờ của mình: “Sống nhờ vào đổ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đàng này đến cái thân tôi cùng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ổng chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thể nào thì ông chẳng cần biết!”. Hồn Trương Ba không muốn được sống trong thân xác anh hàng thịt nữa, cũng không muốn được ‘‘nhập vào cu Tị” bởi lẽ nhiều  điều phiền toái, trớ trêu sẽ diễn ra, sâu xa hơn nữa sẽ “bơ vơ lạc lõng”, “đáng ghét như kẻ tham lam”. Thật vô lí, cực kì vô lí, bởi lẽ “một kẻ lí ra phải chết từ lâu mà vẫn cứ sống, cứ trẻ khỏe, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi thứ lộc trời!”. Xưa nay. như ta đã biết, những kẻ úy tử tham sinh, những ké tham quyền cỏ vị đều bị đồng loại coi khinh và chê cười!.

Hồn Trương Ba tuy có lúc tha hóa sa sút, nhưng giờ đây vẫn tỏ ra tỉnh táo, đáng trọng. Chỉ muốn Đế Thích hóa phép làm cho hồn hàng thịt được “sống lại” với thân xác anh ta; chỉ muốn vị tiên cờ hóa phép làm cho cu Tị được sống lại với mẹ nó, được chơi với bạn bè: “Ông Đế Thích, vì còn trẻ ông ạ, vì con trẻ. Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng”… Ý muốn ấy rất nhân bản và cao thượng.

Hồn Trương Ba càng nói càng cẩu khẩn tha thiết: “Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!… Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn ”.

Cái giá của sự sống và chết “đắt quá, không thể trả được”. Cho dù chết là hết, “khi được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì”, nhưng sống gửi nằm nhờ thì “còn khổ hơn dù cái chết”. Hồn Trương Ba đau đớn cảm thấy xót xa: “Mà không phải chỉ một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi!”. Cho dù có (được cuộc sống, để vui chơi thỏa thích, được chơi cờ với Đế Thích, nhưng hồn Trương Ba đã phủ định: “Nếu còn tiếp tục sống, tôi cũng chẳng thích đánh cờ với ông nữa!… Không có gì chán bằng đánh cờ vởi Tiên!’’.

Hồn Trương Ba đã bẻ gãy cả bó hương do Đế Thích tặng, hồn Trương Ba nhất quyết muốn nhảy xuống sóng tự tử hoặc đâm cổ tự sát để được chết, để tâm hồn minh đươc “trở lại thanh thản, trong sáng như xưa…”.

Ý tưởng của hồn Trương Ba thật cao thượng. Hành động của hồn Trương Ba thể hiện một quan niệm sống đúng đắn, tích cực: không thể sống gửi vào thân xác kẻ khác, không thể sống tha hóa, không được sống dai, cứ cố bám riết vào đời khi cái sống đã mất hết ý nghĩa. Không thể sống giả tạo để mang lợi lộc cho “bọn khốn kiếp”.

Hồn Trương Ba phủ định cái sống của mình, chịu cái chết để cho cu Tị được sống, thuận theo lẽ tự nhiên như lá vàng rụng xuống cho mầm non nhú mọc, tươi xanh. Nhân cách của hồn Trương Ba cao đẹp biết bao, đáng trọng biết bao! Bài học về ý nghĩa sự sống và cái chết, bài học về đạo lí và nhân cách được tác giả đặt ra một cách sâu sắc và thấm thía!

Đoạn kết vớ kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt gợi cho độc giả, khán giá nhiều bâng khuâng. Hồn Trường Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cứa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao., của vợ con thương yêu. Cho dù thân cát bụi lại trở về cát bụi, nhưng hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.

Nhiều thập kỉ đã trôi qua, bạn đọc ngày nay được sống trong sự đổi mới toàn diện, trong vị thế vươn lên của đất nước và dân tộc, sẽ còn tìm thấy nhiều tầng ý nghĩa thú vị hàm ẩn trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Hồn Trương Ba đã và đang đánh thức chúng ta.

Thanh Bình tổng hợp