Phương pháp lập luận của bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt

Câu 3 => 4

Trả lời câu 3 (trang 37, SGK Ngữ văn 7, tập 2)

- Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, cái đẹp trước hết ở mặt ngữ âm.

- Ý kiến của người nước ngoài: Ấn tượng của họ khi nghe người Việt nói nhận xét của những người am hiểu tiếng Việt như các giáo sĩ nước ngoài.

- Hệ thống nguyên âm và phụ âm phong phú, giàu thanh điệu (6 thanh)

- Uyển chuyển, cân đối, nhịp nhàng về mặt cú pháp.

- Từ vựng dồi dào giá trị thơ, nhạc, họa.

- Tiếng Việt là một thứ tiếng hay.

- Có khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ và hình thức diễn đạt và ngữ pháp. Cấu tạo và khả năng thích ứng với sự phát triển là một biểu hiện về sức sống dồi dào của tiếng Việt.

Trả lời câu 4 (trang 37, SGK Ngữ văn 7, tập 2)

Sự giàu có và khả năng phong phú của tiếng Việt được thể hiện ở những phương diện:

- Tiếng Việt có hệ thống nguyên âm phụ âm phong phú, giàu thanh điệu (6 thanh).

- Uyển chuyển, cân đối, nhịp nhàng về mặt cú pháp.

- Từ vựng dồi dào giá trị thơ, nhạc, hoạ.

- Có khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ và hình thức diễn đạt.

- Có sự phát triển qua các thời kì lịch sử về cả hai mặt từ vựng và ngữ pháp. Có khả năng thích ứng với sự phát triển liên tục của thời đại và cuộc sống.

Câu 5

Trả lời câu 5 (trang 37, SGK Ngữ văn 7, tập 2)

Điểm nổi bật trong nghệ thuật lập luận ở bài văn này là phép lập luận chứng minh chặt chẽ, giàu sức thuyết phục:

- Lập luận chặt chẽ: đưa nhận định ngay ở phần mở bài, tiếp đó giải thích và mở rộng nhận định ấy, sau đó dùng các chứng cứ để chứng minh.

- Các dẫn chứng được dẫn khá toàn diện, bao quát, không sa vào những dẫn chứng quá cụ thể, tỉ mỉ. Nhưng chính vì thế người đọc phải có những hiểu biết cụ thể để minh họa cho chứng cứ.

Luyện tập

Trả lời câu 1 (trang 37, SGK Ngữ văn 7, tập 2)

Sưu tầm, ghi lại những ý kiến nói về sự giàu đẹp, phong phú của tiếng Việt và nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Trả lời: 

- “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu, tiếng ta giàu bởi đời sống của chúng ta muôn màu, đời sống tư tưởng và tình cảm dồi dào của dân tộc ta... Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp; đẹp như thế nào, đó là điều khó nói...”

(Phạm Văn Đồng - Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt).

- “Hai nguồn giàu đẹp của tiếng Việt là tiếng nói của quần chúng nhân dân và ngôn ngữ văn học mà các nhà thơ lớn đã nâng lên đến mức cao. Tiếng nói hằng ngày của quần chúng nhân dân lao động, trong chiến đấu, trong quan hệ xã hội, cụ thể, sinh động, có hình ảnh, màu sắc và nhạc điệu: Tiếng nói ấy kết đọng lại rất hay, rất đẹp trong tục ngữ và ca dao...”

(Xuân Diệu - Tâm sự với các em về tiếng Việt).

Trả lời câu 2 (trang 37, SGK Ngữ văn 7, tập 2)

Tìm 5 dẫn chứng thế hiện sự giàu đẹp của tiếng Việt về ngữ âm, từ vựng trong các bài văn, thơ đã học hoặc đọc thêm ở các lớp 6, 7.

Trả lời: 

- Về mặt ngữ âm, từ vựng ta thường bắt gặp trong chương trình Ngữ văn 6, 7 những câu thơ, đoạn văn giàu chất thơ, chất nhạc và mang đậm chất hội họa:

+ Chú bé loắt choắt

     Cái xắc xinh xinh

          Cái chân thoăn thoắt

              Cái đầu nghênh nghêng

Ca nô đội lệch

       Mồm huýt sáo vang

       Như con chim chích

          Nhảy trên đường vàng

Ấy là những câu thơ đầy chất nhạc trong bài thơ Lượm của Tố Hữu.

+ “Thường thường vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí vài con ong siêng năng bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám, chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột”.

Ấy là những câu văn đầy chất thơ trích trong văn bản Mùa xuân của tôi của tác giả Vũ Bằng.

+ Tiếng suối trong như tiếng hát xa

     Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

         Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Ấy là những câu thơ đầy chất họa trong bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh.

TƯ LIỆU THAM KHẢO

VỀ TIẾNG TA

Nghĩ về sự đầy đủ, trong trẻo, đẹp đẽ, sáng sủa, và sang giàu của tiếng nói Việt Nam, có những lúc tôi ngừng lại đó câu viết chưa xuống dòng... mà nhìn trân trân tờ giấy bỏ dở. Tôi nhìn trân trân vào giữa khoảng không ngoài cửa sổ lộng trời xanh, mà lòng thấy dào dạt lên những lời cám ơn. Tôi lặng cúi xuống mặt giấy trắng tinh đang om sòm những lời biết ơn đối với đất nước ông bà tiên tổ. Thấy chịu ơn rất nhiều đối với quê hương ông bà đã truyền cho tôi thứ tiếng nói đậm đà tôi hằng nói từ những ngày mới ra đời. Mà rồi cho đến cái phút cuối cùng không được sống nữa, thì câu cuối đời của tôi vẫn cứ lại nói lên vẫn chỉ bằng cái thứ tiếng nói ruột thịt tủy xương đó mà thôi. Tôi biết rằng, cái ngôn ngữ thừa tự tôi đang nói đang diễn viết ra đây, chính nó là kết tinh bởi nhiều trăm nghìn năm công sức lao động của tổ tiên lưu truyền lại. Trong hương thừa hưởng đây, lẫn vào với vô số thanh âm từ điệu, thấy như hiển hiện lên không biết bao nhiêu là mồ hôi và máu huyết của đời đời ông hà khai rừng, vỉ ruộng, mở cõi, giữ nước, chống giặc, tiến lên tới đâu là xây dựng ngôn ngữ tới đó. Nay mỗi lần đụng tới di sản nhiệm màu ấy, thấy bổi hổi bồi hồi, như vấn vương với một cái gì thiệt là thiêng liêng vô giá, mà tất cả trữ kim ngân của tất cả ngân hàng thế gian cũng không sao đánh đổi được. Có những lúc lại lẩn thẩn nghĩ dại dột rằng bây giờ tự nhiên mình lại mất trí, mà quen hết mà bay hết khỏi đầu mình chỗ kho tàng tiếng nói Việt Nam này, thì có lẽ mình... mình sẽ phải chết mất. Nhưng không, không thể nào quên được cái tiếng Việt Nam hữu cơ, cái tiếng nói Việt Nam linh diệu ấy được. Có đến chết cũng không quên được. Có chết, càng vẫn nhớ. [...]

(Theo Nguyễn Tuân, Tạp chí Văn học, số 3 – 1966)

Soạn văn 7 tập 2 bài 21 (trang 34)

Download.vn sẽ cung cấp tài liệu Soạn văn 7: Sự giàu đẹp của Tiếng Việt, vô cùng hữu ích dành cho các bạn học sinh.

Phương pháp lập luận của bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt
Soạn bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt

Hy vọng với tài liệu này, các bạn học sinh lớp 7 sẽ có thể chuẩn bị bài một cách nhanh chóng và đầy đủ.

Soạn văn 7: Sự giàu đẹp của Tiếng Việt

- Đặng Thai Mai (1902 - 1984) quê ở làng Lương Điền, xã Thanh Xuân, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

- Ông là nhà văn, nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng, nhà hoạt động xã hội có uy tín.

- Trước Cách mạng, ông vừa dạy học vừa sáng tác và nghiên cứu văn học.

- Sau Cách mạng, ông giữ nhiều trọng trách trong bộ máy chính quyền, các cơ quan văn nghệ, và viết một số công trình nghiên cứu văn học có giá trị lớn.

- Năm 1966, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

- Một số tác phẩm: Văn học khái luận (1944), Tập văn trong Văn học Trung Quốc ngày nay (1945), Lỗ Tấn thân thế và văn nghệ (1958), Tuyển tập Đặng Thai Mai - tác phẩm (gồm 2 tập)...

II. Tác phẩm

1. Xuất xứ

- Bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt là đoạn trích ở phần đầu của bài nghiên cứu “Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc”, in lần đầu vào năm 1967, được bổ sung và đưa vào Tuyển tập Đặng Thai Mai, tập II.

- Tên bài do người biên soạn SGK đặt.

2. Bố cục

Gồm 2 phần:

  • Phần 1. Từ đầu đến “ qua các thời kỳ lịch sử ”: Nhận định chung về sự giàu đẹp của tiếng Việt.
  • Phần 2. Còn lại. Chứng minh cái đẹp, khẳng định cái đẹp và cái hay của tiếng Việt.

3. Tóm tắt

Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Nó là một thứ tiếng “đẹp” bởi “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kép, rất ngon lành trong những câu tục ngữ”. Nó có một hệ thống nguyên âm, phụ âm phong phú và giàu về thanh điệu. Tiếng Việt có những khả năng dồi dào về phần cấu tạo từ ngữ, cũng như hình thức diễn đạt. Từ vựng qua thời gian cũng tăng lên và ngữ pháp trở nên uyển chuyển, chính xác hơn.

III. Đọc - hiểu văn bản

1. Nhận định chung về sự giàu đẹp của tiếng Việt

- Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay

  • Tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu.
  • Tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kỳ lịch sử.

=> Cách lập luận rành mạch, ngắn gọn, có sức khái quát cao, đi từ khái quát đến cụ thể

2. Biểu hiện sự giàu đẹp của tiếng Việt

a. Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp

- Tiếng Việt là một thứ tiếng giàu chất nhạc:

  • Nhận xét của những người ngoại quốc sang thăm nước ta và có dịp nghe tiếng nói của quần chúng nhân dân ta.
  • Một giáo sĩ nước ngoài đã nói đến tiếng Việt như là một thứ tiếng “đẹp” và “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ”.
  • Gồm hệ thống nguyên âm và phụ âm khá phong phú.
  • Giàu về thanh điệu, giàu ngữ âm như những âm giai trong một bản nhạc trầm bổng.

b. Tiếng Việt là một thứ tiếng hay

- Thỏa mãn nhu cầu trao đổi tình cảm, ý nghĩ giữa con người với con người.

- Thỏa mãn nhu cầu ngày của đời sống ngày một phức tạp về mọi mặt:

  • Dồi dào về cấu tạo từ ngữ, hình thức diễn đạt.
  • Từ vựng: tăng lên qua các thời kỳ.
  • Ngữ pháp: dần dần trở nên uyển chuyển, chính xác hơn.
  • Ngữ âm: không ngừng đặt ra những từ mới, những cách nói mới hoặc Việt hóa những từ và cách nói của các dân tộc anh em và các dân tộc láng giềng.

=> Mối quan hệ giữa cái hay và cái đẹp của tiếng Việt: cái đẹp và cái hay có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau tạo nên sức sống cho tiếng Việt

Tổng kết:

  • Nội dung: Bài văn đã chứng minh sự giàu có và đẹp đẽ của tiếng Việt trên nhiều phương diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.
  • Nghệ thuật: lập luận chặt chẽ, kết hợp nhiều thao tác lập luận, chứng cứ chặt chẽ và toàn diện…

Soạn văn Sự giàu đẹp của Tiếng Việt ngắn gọn

I. Trả lời câu hỏi

Câu 1. Tìm bố cục của bài và nêu ý chính của mỗi đoạn.

Bố cục gồm 2 phần:

  • Phần 1. Từ đầu đến “ qua các thời kỳ lịch sử ”: Nhận định chung về sự giàu đẹp của tiếng Việt. b
  • Phần 2. Còn lại. Chứng minh cái đẹp, khẳng định cái đẹp và cái hay của tiếng Việt.

Câu 2. Hãy cho biết nhận định “tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay” đã được giải thích cụ thể trong đoạn đầu văn bản này như thế nào?

Nhận định “tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay” đã được giải thích cụ thể trong đoạn đầu văn bản:

  • Tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu.
  • Tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kỳ lịch sử.

=> Cách lập luận rành mạch, ngắn gọn, có sức khái quát cao, đi từ khái quát đến cụ thể

Câu 3. Để chứng minh cho vẻ đẹp của tiếng Việt, tác giả đưa ra những chứng cứ gì và sắp xếp chứng cứ như thế nào?

Để chứng minh cho vẻ đẹp của tiếng Việt, tác giả trình bày những ý kiến theo hai phương thức: trực tiếp, gián tiếp.

  • Trực tiếp: Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, cái đẹp ở mặt ngữ âm.
  • Ý kiến của một giáo sĩ nước ngoài đã nói đến tiếng Việt như là một thứ tiếng “đẹp” và “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ”.

Câu 4. Sự giàu có và khả năng phong phú của tiếng Việt được thể hiện ở những phương diện nào?

Em hãy tìm một số dẫn chứng cụ thể để làm rõ các nhận định của tác giả.

- Sự giàu có và khả năng phong phú của tiếng Việt được thể hiện qua ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp:

  • Ngữ âm: Hệ thống nguyên âm, phụ âm phong phú, giàu thanh điệu.
  • Từ vựng: dồi dào giá trị thơ, nhạc, họa, gợi hình, giàu nhạc điệu.
  • Ngữ pháp: tiếng Việt rất uyển chuyển, nhịp nhàng.

- Ví dụ: Trong truyện Kiều, Nguyễn Du đã cho thấy tài năng trong việc sử dụng từ vựng “Trăm năm trong cõi người ta/Chữ tài liền với chữ tai một vần”.

⇒ Tác giả làm nổi bật sự giàu có của tiếng Việt, chính là sự sáng tạo từ ngữ mới phù hợp với sự phát triển của xã hội.

Câu 5. Điểm nổi bật trong nghệ thuật nghị luận ở bài văn này là gì?

Điểm nổi bật trong nghệ thuật nghị luận ở bài văn này:

- Kết hợp hài hòa giữa giải thích, chứng minh với bình luận.

- Lập luận chặt chẽ: nhận định ngay phần mở bài, tiếp đó chứng minh.

- Sử dụng một hệ thống chặt chẽ: nêu nhận định khái quát, giải thích bằng nhiều phương thức linh hoạt.

- Sử dụng biện pháp mở rộng câu nhằm làm rõ nghĩa giống như vừa ghi chú, vừa bổ sung thêm nhiều khía cạnh mới hoặc mở rộng điều đang nói.nước ngoài: ấn tượng của họ khi nghe người Việt nói, nhận xét của những người am hiểu tiếng Việt như các giáo sĩ nước ngoài.

- Hệ thống nguyên âm và phụ âm giàu thanh điệu, phong phú.

II. Luyện tập

Câu 1. Sưu tầm, ghi lại những câu nói về sự giàu đẹp, phong phú của tiếng Việt và nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Phạm Văn Đồng: “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ta lâu đời và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ tiếng Việt là tiếng nói của nhân dân, đầy tình cảm, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa; đồng thời nó là ngôn ngữ của văn học mà những nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… và những nhà văn, nhà thơ ngày nay ở miền Bắc và miền Nam đã nâng lên đến trình độ rất cao về nghệ thuật…”

Câu 2. Tìm năm dẫn chứng thể hiện sự giàu đẹp của tiếng Việt về ngữ âm và từ vựng trong các bài văn, thơ đã học hoặc đã đọc thêm ở các lớp 6, 7.

Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

(Qua đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan)

Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

(Bánh trôi nước, Hồ Xuân Hương)

Cập nhật: 08/02/2022