So sánh bài thơ sóng và vội vàng

Bài làm

“Qua tiếng hát anh nhận ra người hát.

Qua nét khắc anh nhân ra người thợ bạc”

(“Dagestan của tôi”)

Như những dấu vân tay duy nhất, mỗi người nghệ sĩ đều có cho mình một “vân chữ” độc nhất, không giống bất cứ ai. Vì thế, dẫu cùng dưới một bầu trời, hít một bầu không khí, dẫu chung một đề tài thì cuộc sống dưới con mắt của những người nghệ sĩ cũng không bao giờ là trùng lặp. Có thể thấy điều đó trong cái nhìn về tình yêu qua con mắt của Xuân Quỳnh:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ”

(“Sóng”)

Vơi Xuân Diệu lại là:

“Tôi muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Thơ ca, với Xuân Quỳnh, gắn liền với sự sống, tình yêu; làm thơ là nữ sĩ được sống với chính mình, sống đủ đầy trọn vẹn là mình. Mỗi bài thơ đều là tiếng nói chân thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967, được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). “Sóng” với “em”, hai mà như một, một trong hai, song hành cùng nhau để thể hiện sâu sắc nhất cảm xúc của chủ thể trữ tình.

Trong tình yêu, người con gái cũng có lúc âu lo: “Cuộc đời tuy dài thế/ Mây vẫn bay về xa” nhưng cuối cùng vẫn chọn cách tin tưởng:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ”

“Tan ra”- đó là khát vọng được hóa thân vào sóng để được tồn tại trong không gian rộng lớn của biển cả và cái vĩnh hằng của thời gian. Đó là khát vọng vĩnh vieenc hóa tình yêu, dùng tình yêu để nối dài cuộc đời ngắn ngủi của con người. Khát vọng ấy lại làm ta nhớ tới câu chuyện nàng tiên cá hóa thân làm bọt biển để người mình yêu được hạnh phúc trọn vẹn. Câu hỏi “Làm sao…” như mộ sự khắc khoải khôn nguôi trong lòng người phụ nữ. Đến hai câu thơ sau, từ con sông buổi nào, người phụ nữ đã tìm được biển lớn của đời mình. Nhưng phải làm sao để giữa biển lớn tình yêu ấy, em vẫn có thể thấy được con sóng tính yêu của chúng ta? Ước vọng được hóa thân, được níu giữ vĩnh viễn tình yêu tươi đẹp càng trở nên thiết tha. Phải chăng đó là bản tính hi sinh và dâng hiến của người phụ nữ?

Xem thêm:  Cảm nhận về hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu

Mở đầu bài thơ là sự mãnh mẽ, chủ động tìm đến hạnh phúc, kết thúc lại bằng sự hi sinh, yêu thương vô bờ. Mở đầu bài thơ là khát vọng được làm rõ mình, kết thúc lại bằng khát vọng được hòa mình của người phụ nữ. Mở đầu bài thơ là ước vọng về hạnh phúc đến cuối bài thơ chính là hành động để tạo dựng và gìn giữ hạnh phúc ấy. Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành. Đó là một quá trình biến đổi hết sức tự nhiên và cũng đầy can đảm, cao đẹp trong phẩm chất, vẻ đẹp của người phụ nữ. Từ đó, cũng tạo nên sự khác biệt trong giọng điệu: từ những câu thơ ngắt nhịp nhanh, giọng thơ tự tin, dứt khoát đến những câu thơ nhẹ nhàng, du dương như tiếng đại dương rì rào sóng vỗ, không nghe rõ thanh âm nhưng vang vọng đến mãi về sau. Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ. Nếu nói thơ là chuyện “rút ruột rút gan mình” mà viết, Xuân Quỳnh chính là người như thế. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ.

Với Xuân Diệu, lại là:

“Tôi muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Đoạn thơ tám chữ bỗng gây chú ý, độc đáo với câu thơ ba chữ: “Tôi muốn ôm” khiến cho giọng thơ trở nên đanh lại, mạnh mẽ, biểu đạt mong muốn, yêu cầu được thực hiện hành động. Từ cái “tôi” cô đơn mà cũng kiêu hãnh ở dòng trên đã chuyển thành cái “ta”. Trong cái “ta” vẫn là cái “tôi” kiêu hùng của nhà thơ nhưng còn là biết bao cái “tôi” của mỗi độc giả. Đúng thế. Đừng trước “sự sống mới bắt đầu mơn mởn” nhưng lại nhận thức được “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua”, “Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” sao khỏi những nuối tiếc, xót xa. Tuổi trẻ phải là yêu, là sống hết mình để níu giữ thời gian, để tận hưởng sự sống tràn đầy này. Cấu trúc “Ta muốn” cùng với một loạt những động từ mạnh: “ôm, say, thâu, cắn” đã thể hiện được ước muốn, sự tận hưởng trọn vẹn ấy. Giọng thơ nhanh để theo kịp với những ước muốn kia với một loạt các biện pháp liệt kê. Tưởng như ta càng tận hưởng, càng tiếp nhận ta lại càng cảm thấy được cuộc sống càng tươi đẹp và ý nghĩa hơn. Đến cuối cùng là câu cảm thán: “- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Lần đầu tiên, xuân hồng lại được hữu hình hóa để có thể “cắn” được. Động từ “cắn” đã thể hiện cao nhất ước muốn được giao hòa với thiên nhiên của Xuân Diệu. Với Xuân Diệu, tất cả không được mơ hồ, phải là cảm giác chân thực. Bởi thế, Thế Lữ mới viết về ông là “Con người của trần thế. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Trong câu thơ, ông Tây tân kì Xuân Diệu cũng đã vận dụng phép tương giao giữa các giác quan- thủ pháp tiêu biểu của các nhà thơ Tượng trưng Pháp.

Xem thêm:  Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt

Với Xuân Diệu, cuộc sống thực tại mới là tươi đẹp và đáng sống nhất. Ông đón nhận cuộc sống bằng tất cả tình yêu, sự nồng nhiệt nhất. Nhưng nhận ra quy luật nghiệt ngã của thời gian, ông sống tận hưởng hết mình, yêu hết mình. Đó mới chính là Xuân Diệu, luôn thiết tha, rạo rực, băn khoăn.

Đồi với tình yêu, cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu luôn chân thành và nồng thắm nhất, có khát vọng được vĩnh viễn hóa tình yêu. Nhưng hướng tới tình yêu đôi lứa, Xuân Quỳnh lựa chọn dâng hiến hết mình, hòa mình để có thể vĩnh hằng tình yêu đẹp ấy. Đó chính là đức tính hy sinh, là thiên tính nữ trong thơ nữ sĩ, là vẻ đẹp muôn đời của những áng thơ nữ Việt Nam. Còn với tình yêu cuộc sống, Xuân Diệu chọn cách tận hưởng hết mình để vĩnh viễn hóa tuổi trẻ tươi đẹp một đi không trở lại. Đó chính là cách ứng xử của phương Tây dành cho cuộc sống, cho tình yêu. Mỗi cách ứng xử khác nhau với tình yêu, chúng ta lại thêm được những cảm nhận và tình cảm khác nhau.

Đến với mỗi trang viết là một thế giới mở ra, không lặp lại, không giản đơn. Điều đó làm cho văn học dẫu ra đời từ thời của Homere, Kinh thi nhưng sẽ tồn tại với ta đến ngày tận thế, dù là vật không thể mua cũng chẳng thể bán nhưng lại là thứ không thể thiếu trong đời sống con người để ta sống tốt, sống đẹp hơn.

Tình yêu, đối với mỗi tâm hồn, chưa bao giờ là chung một màu sắc, một hình dạng cả. Vì thể, đều thể hiện ước nguyện trong tình yêu, nhưng Xuân Quỳnh trong bài thơ "Sóng" ước nguyện: "Làm sao được tan ra ...Để ngàn năm còn vỗ" còn Xuân Diệu lại khẳng định: "Ta muốn ôm ... Cho no nê thanh sắc của thời tươi.” (“Vội vàng”) Nhà phê bình Nguyễn Thanh Hùng từng khẳng định: Người nghệ sĩ chính là một “nhân cách xấc xược” dám tranh quyền với tạo hóa. Anh ta sống trong thế giới này nhưng luôn khao khát tạo ra một thế giới mới và của riêng mình. Có lẽ vì thế mà M.Proust mới viết: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Thế giới tình yêu trong thơ văn cũng vậy. Đó là ước vọng xa xôi, huyền ảo mà càng với tới lại càng xa cách trong cảm nhận của Hàn Mặc Tử, là tình cảm gắn liền với tình quê hương, với dân tộc trong quan điểm của Tố Hữu, là những giây phút sống hết mình, yêu hết lòng với tuổi trẻ, với tình yêu của Xuân Diệu, là khát vọng hướng tới tự do, tới tình yêu chân chính và dâng hiến hết mình vì tình yêu ấy của Xuân Quỳnh. Những nguyện ước đối với tình yêu của Xuân Diệu và Xuân Quỳnh- những con người đều khát yêu, khát sống ấy lại có những điểm gặp gỡ và nét độc đáo rất riêng. Hôm nay, qua hai đoạn thơ: "Làm sao được tan ra ...Để ngàn năm còn vỗ" (trích “Sóng”) và "Ta muốn ôm ... Cho no nê thanh sắc của thời tươi.” (trích “Vội vàng”), chúng ta cùng so sánh để thấy được nét tương đồng và sự khác biệt nhé. Sau đây là một số bài văn mẫu các bạn có thể tham khảo. Chúc mọi người học tập tốt!

So sánh bài thơ sóng và vội vàng


Sóng và Vội vàng có rất nhiều chi tiết hay và thú vị​


BÀI VĂN MẪU SỐ 1 SO SÁNH “SÓNG” VÀ “VỘI VÀNG” CỦA XUÂN DIỆU VÀ XUÂN QUỲNH
  • “Qua tiếng hát anh nhận ra người hát.
  • Qua nét khắc anh nhân ra người thợ bạc”
  • (“Dagestan của tôi”)
Như những dấu vân tay duy nhất, mỗi người nghệ sĩ đều có cho mình một “vân chữ” độc nhất, không giống bất cứ ai. Vì thế, dẫu cùng dưới một bầu trời, hít một bầu không khí, dẫu chung một đề tài thì cuộc sống dưới con mắt của những người nghệ sĩ cũng không bao giờ là trùng lặp. Có thể thấy điều đó trong cái nhìn về tình yêu qua con mắt của Xuân Quỳnh:
  • “Làm sao được tan ra
  • Thành trăm con sóng nhỏ
  • Giữa biển lớn tình yêu
  • Để ngàn năm còn vỗ”
  • (“Sóng”)
Vơi Xuân Diệu lại là:
  • “Tôi muốn ôm
  • Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
  • Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
  • Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
  • Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
  • Và non nước, và cây và cỏ rạng,
  • Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
  • Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
  • - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Thơ ca, với Xuân Quỳnh, gắn liền với sự sống, tình yêu; làm thơ là nữ sĩ được sống với chính mình, sống đủ đầy trọn vẹn là mình. Mỗi bài thơ đều là tiếng nói chân thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967, được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). “Sóng” với “em”, hai mà như một, một trong hai, song hành cùng nhau để thể hiện sâu sắc nhất cảm xúc của chủ thể trữ tình. Trong tình yêu, người con gái cũng có lúc âu lo: “Cuộc đời tuy dài thế/ Mây vẫn bay về xa” nhưng cuối cùng vẫn chọn cách tin tưởng:
  • “Làm sao được tan ra
  • Thành trăm con sóng nhỏ
  • Giữa biển lớn tình yêu
  • Để ngàn năm còn vỗ”
“Tan ra”- đó là khát vọng được hóa thân vào sóng để được tồn tại trong không gian rộng lớn của biển cả và cái vĩnh hằng của thời gian. Đó là khát vọng vĩnh vieenc hóa tình yêu, dùng tình yêu để nối dài cuộc đời ngắn ngủi của con người. Khát vọng ấy lại làm ta nhớ tới câu chuyện nàng tiên cá hóa thân làm bọt biển để người mình yêu được hạnh phúc trọn vẹn. Câu hỏi “Làm sao...” như mộ sự khắc khoải khôn nguôi trong lòng người phụ nữ. Đến hai câu thơ sau, từ con sông buổi nào, người phụ nữ đã tìm được biển lớn của đời mình. Nhưng phải làm sao để giữa biển lớn tình yêu ấy, em vẫn có thể thấy được con sóng tính yêu của chúng ta? Ước vọng được hóa thân, được níu giữ vĩnh viễn tình yêu tươi đẹp càng trở nên thiết tha. Phải chăng đó là bản tính hi sinh và dâng hiến của người phụ nữ? Mở đầu bài thơ là sự mãnh mẽ, chủ động tìm đến hạnh phúc, kết thúc lại bằng sự hi sinh, yêu thương vô bờ. Mở đầu bài thơ là khát vọng được làm rõ mình, kết thúc lại bằng khát vọng được hòa mình của người phụ nữ. Mở đầu bài thơ là ước vọng về hạnh phúc đến cuối bài thơ chính là hành động để tạo dựng và gìn giữ hạnh phúc ấy. Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành. Đó là một quá trình biến đổi hết sức tự nhiên và cũng đầy can đảm, cao đẹp trong phẩm chất, vẻ đẹp của người phụ nữ. Từ đó, cũng tạo nên sự khác biệt trong giọng điệu: từ những câu thơ ngắt nhịp nhanh, giọng thơ tự tin, dứt khoát đến những câu thơ nhẹ nhàng, du dương như tiếng đại dương rì rào sóng vỗ, không nghe rõ thanh âm nhưng vang vọng đến mãi về sau. Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ. Nếu nói thơ là chuyện “rút ruột rút gan mình” mà viết, Xuân Quỳnh chính là người như thế. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Với Xuân Diệu, lại là:
  • “Tôi muốn ôm
  • Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
  • Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
  • Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
  • Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
  • Và non nước, và cây và cỏ rạng,
  • Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
  • Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
  • - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Đoạn thơ tám chữ bỗng gây chú ý, độc đáo với câu thơ ba chữ: “Tôi muốn ôm” khiến cho giọng thơ trở nên đanh lại, mạnh mẽ, biểu đạt mong muốn, yêu cầu được thực hiện hành động. Từ cái “tôi” cô đơn mà cũng kiêu hãnh ở dòng trên đã chuyển thành cái “ta”. Trong cái “ta” vẫn là cái “tôi” kiêu hùng của nhà thơ nhưng còn là biết bao cái “tôi” của mỗi độc giả. Đúng thế. Đừng trước “sự sống mới bắt đầu mơn mởn” nhưng lại nhận thức được “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua”, “Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” sao khỏi những nuối tiếc, xót xa. Tuổi trẻ phải là yêu, là sống hết mình để níu giữ thời gian, để tận hưởng sự sống tràn đầy này. Cấu trúc “Ta muốn” cùng với một loạt những động từ mạnh: “ôm, say, thâu, cắn” đã thể hiện được ước muốn, sự tận hưởng trọn vẹn ấy. Giọng thơ nhanh để theo kịp với những ước muốn kia với một loạt các biện pháp liệt kê. Tưởng như ta càng tận hưởng, càng tiếp nhận ta lại càng cảm thấy được cuộc sống càng tươi đẹp và ý nghĩa hơn. Đến cuối cùng là câu cảm thán: “- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Lần đầu tiên, xuân hồng lại được hữu hình hóa để có thể “cắn” được. Động từ “cắn” đã thể hiện cao nhất ước muốn được giao hòa với thiên nhiên của Xuân Diệu. Với Xuân Diệu, tất cả không được mơ hồ, phải là cảm giác chân thực. Bởi thế, Thế Lữ mới viết về ông là “Con người của trần thế. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Trong câu thơ, ông Tây tân kì Xuân Diệu cũng đã vận dụng phép tương giao giữa các giác quan- thủ pháp tiêu biểu của các nhà thơ Tượng trưng Pháp. Với Xuân Diệu, cuộc sống thực tại mới là tươi đẹp và đáng sống nhất. Ông đón nhận cuộc sống bằng tất cả tình yêu, sự nồng nhiệt nhất. Nhưng nhận ra quy luật nghiệt ngã của thời gian, ông sống tận hưởng hết mình, yêu hết mình. Đó mới chính là Xuân Diệu, luôn thiết tha, rạo rực, băn khoăn. Đồi với tình yêu, cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu luôn chân thành và nồng thắm nhất, có khát vọng được vĩnh viễn hóa tình yêu. Nhưng hướng tới tình yêu đôi lứa, Xuân Quỳnh lựa chọn dâng hiến hết mình, hòa mình để có thể vĩnh hằng tình yêu đẹp ấy. Đó chính là đức tính hy sinh, là thiên tính nữ trong thơ nữ sĩ, là vẻ đẹp muôn đời của những áng thơ nữ Việt Nam. Còn với tình yêu cuộc sống, Xuân Diệu chọn cách tận hưởng hết mình để vĩnh viễn hóa tuổi trẻ tươi đẹp một đi không trở lại. Đó chính là cách ứng xử của phương Tây dành cho cuộc sống, cho tình yêu. Mỗi cách ứng xử khác nhau với tình yêu, chúng ta lại thêm được những cảm nhận và tình cảm khác nhau. Đến với mỗi trang viết là một thế giới mở ra, không lặp lại, không giản đơn. Điều đó làm cho văn học dẫu ra đời từ thời của Homere, Kinh thi nhưng sẽ tồn tại với ta đến ngày tận thế, dù là vật không thể mua cũng chẳng thể bán nhưng lại là thứ không thể thiếu trong đời sống con người để ta sống tốt, sống đẹp hơn. -Bỉ Ngạn-vfo.vn

So sánh bài thơ sóng và vội vàng


BÀI VIẾT SỐ 2 SO SÁNH “SÓNG” VÀ “VỘI VÀNG” hay nhất “Thơ dù viết về ai, cái gì, xét đến cùng vẫn là sự bộc lộ cái tôi nhà thơ.” (Thanh Thảo). Tiếng nói trữ tình trong thơ bao giờ cũng thuộc về ngôi thứ nhất, là tiếng nói bên trong của một cái tôi cá nhân, cá thể của nỗi niềm, tâm trạng. Vì vậy, cùng nói về khát vọng tình yêu, Xuân Quỳnh nói: “Làm sao được tan ra...Để ngàn năm còn vỗ” (Sóng) còn Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng” lại từng bộc bạch: “Ta muốn ôm...Cho no nê thanh sắc của thời tươi” Tình yêu vốn là một đề tài quen thuộc đi về trong thơ ca muôn đời. Ta từng thổn thức trước nỗi nhớ của người con gái trong “Khăn thương nhớ ai”, ta từng đau lòng cho mối tình chớm nở của Kim – Kiều, ta từng xót xa cho sự chờ đợi vò võ canh khuya của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”. Và có lẽ, gắn với tình yêu là muôn ngàn suy ngẫm, muôn ngàn cách nghĩ, muôn vàn khát vọng. Với Xuân Quỳnh – một người phụ nữ với trái tim luôn rực cháy lòng yêu, chị tin vào tình yêu chân chính, chị thể hiện một cái tôi đầy nữ tính, duyên dáng và ý nhị đối với tình cảm thiêng liêng của loài người. Còn với thi sĩ Xuân Diệu, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm “lầu thơ trên mặt đất”, ông khao khát có một tình yêu trọn vẹn và cháy bỏng, muốn đem hết thảy cái dào dạt, mãnh liệt của tâm hồn để chiếm đoạt lấy tình yêu của tạo hóa. Đi về trong hai sáng tác nổi bật là hai cách viết, hai cách thể hiện, mang đậm dấu ấn cá nhân của mỗi người nghệ sĩ, tạo cho thế giới thơ ca những xúc cảm không ngờ, là những “tự truyện của một khát vọng” (J.M.Maulpoix). “Sóng” là sản phẩm của chuyến đi thực tế về vùng biển Diêm Điền của nữ sĩ. Trước sự ào ạt của sóng bể và ngọn gió của muôn trùng biển khơi, nhà thơ đã không nén nổi lòng mình cất lên tiếng hát của nỗi lòng. Để lại trong bài thơ không chỉ có tình yêu, đó còn là khát vọng, là khao khát của một trái tim yêu nồng nàn, mãnh liệt:
  • “Làm sao được tan ra
  • Thành trăm con sóng nhỏ
  • Giữa biển lớn tình yêu
  • Để ngàn năm còn vỗ.”
Hình ảnh sóng hòa vào khát vọng được dâng hiến, hòa mình vào biển lớn tình yêu. Hai chữ “tan ra” thể hiện khát vọng được hóa thân vào sóng để tồn tại trong cái không gian vô tận của biển cả vĩnh hằng. Con sóng lớn ấy muốn hóa thân mình thành trăm ngàn con sóng nhỏ hơn để được hòa mình vào biển khơi vô tận, để trải lòng mình, để quyện hòa và hiến dâng tất cả cho người tình biển khơi. Khát vọng ấy là khát vọng dâng hiến trong tình yêu, muốn dùng tình yêu để nối dài cái hữu hạn, ngắn ngủi của cuộc đời. Khát vọng xem chừng đầy hi sinh đó khiến người đọc nhớ về chuyện nàng tiên cá đã biến mình thành bọt biển. Sự hóa thân ấy dù đau lòng nhưng đó là biểu hiện của sự hi sinh, thà để bản thân tan biến chỉ để cho người mình yêu được hạnh phúc. Phải chăng liên tưởng ấy đã hé mở hình ảnh một người con gái giàu khát vọng hi sinh, sẵn sàng hi sinh tất cả cho tình yêu chân chính? Mục đích của cô gái ấy là gì, phải chăng là:
  • “Giữa biển lớn tình yêu
  • Để ngàn năm còn vỗ”
Sự hóa thân ấy không phải là vô nghĩa, sự hóa thân ấy cũng không phải sự tan biến vĩnh viễn. Sóng sẵn sàng tan ra thành ngàn con sóng nhỏ hơn để hòa mình vào muôn trùng sóng bể, để ngàn năm trôi đi thì những lớp sóng ấy vẫn kéo dài mãi mãi. Những dòng thơ kết lại tác phẩm vẫn mang nhịp đập thổn thức của một trái tim yêu tha thiết và mãnh liệt. Vì vậy, “Sóng” đã trở thành một trong những bản tình ca đẹp nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Trước Xuân Quỳnh, từng có một nhà thơ đã có khao khát mãnh liệt như thế, một nhà thơ Mới với cách viết mới, suy nghĩ mới khiến nhà phê bình Chu Văn Sơn từng phải thốt lên: “Trong bầu khí quyển của tinh thần Xuân Diệu, thời gian chỉ có hai mùa: mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, tình yêu, sự sống, còn mùa thu là màu lá úa, tàn phai, rơi rụng. Cảm nhận thời gian của Xuân Diệu chỉ có hai thì: thì tươi và thì phai”. Khát vọng yêu đương của Xuân Diệu đã từng khắc ghi trong tâm hồn người đọc với những câu thơ giàu khao khát:
  • “Ta muốn ôm
  • Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
  • Ta muốn riết mây đưa và gió lượn;
  • Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
  • Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
  • Và non nước, và cây, và cỏ rạng
  • Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
  • Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Đại từ “ta” được sử dụng nhiều lần như một cách tác giả bày tỏ cái tôi riêng tư của chính mình. Câu thơ như tái hiện lại một cách tay đang ham muốn ôm trọn đất trời, khát khao tận hưởng xuân sắc xuân thì của tạo hóa. Điệp từ “ta muốn” lặp lại kết hợp với các động từ mạnh “ôm, riết, say, thâu” càng thể hiện đậm nét khát khao yêu đương mãnh liệt của “ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu. Có lẽ vì quá đam mê trước cảnh sắc thiên nhiên với sự sống mơn mởn mới chớm nở trên từng cành cây kẽ lá, quá say đắm với mây và gió trời, quá yêu chiều với cánh bướm dập dờn trước gió, cho nên thi sĩ muốn “thâu trong một cái hôn nhiều”. Ông khát khao giao cảm, khát khao chiếm trọn lấy đất trời và cảnh sắc thiên nhiên, để tận hưởng trọn vẹn chúng, để “chếnh choáng” trong hương mật cuộc đời và để ‘đã đầy” trước ánh sáng của tạo hóa ban cho. Đối với Xuân Diệu, không có một tình yêu nào là tình yêu hời hợt. Đã yêu, đã thương, đã say thì phải giao cảm tuyệt đối, phải thực sự quyện hòa vào nhau để được đã đầy và no nê trong hơi men cuộc sống. Nàng Xuân với sắc đẹp và sự trẻ trung của mình đã thu hút được trái tim khao khát của người thi sĩ, khiến ông muốn thâu tóm cả “trời đất, và cây, và cỏ rạng” – sự lặp lại tưởng chừng như thừa thãi đó lại là một màn kết tuyệt đẹp trong khát vọng yêu được mãnh liệt của nhà thơ. Và đúng như Khapchenko từng nói: “Điều còn lại của nhà văn là cái giọng của riêng mình” – Xuân Diệu, thi sĩ của những nỗi niềm tình cảm mãnh liệt, đã gieo vào lòng người những xúc cảm rất mực dào dạt như thế, đã khắc vào lòng người một dấu triện rất riêng. Và rồi lầu thơ của ông cứ cao lên mãi, bởi nó được xây dựng từ khao khát yêu đương và giao cảm, và khao khát đó chưa bao giờ thôi bùng cháy. Tuy văn chương là lĩnh vực của sự sáng tạo, nó không cho phép có sự lặp lại, giống nhau nhưng kì lạ thay giữa những người nghệ sĩ lại có một sự đồng điệu giao cảm. Cả “Sóng” và “Vội vàng” đều là tiếng nói của một cái tôi giàu cảm xúc với khát khao giao cảm với đời, với người. Cùng với đó là khát vọng yêu đương cháy bỏng của những trái tim giàu khao khát yêu đương với cuộc đời, những xúc cảm dào dạt và bùng cháy. Và “không khó lối đi nào chung cho hai nhà thơ cả” – mỗi bài thơ đều mang theo những thông điệp độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân người nghệ sĩ. Nếu như “Sóng” thể hiện một tình yêu đầy nữ tính, khát khao dâng hiến, tận hiến và bất tử hóa với tình yêu thì “Vội vàng” lại đưa ta đến một quan niệm sống rất hiện đại: sống vội vàng, sống cuống quýt để tận hưởng hết thảy mọi vẻ đẹp trên đời và bởi vì tuổi trẻ chẳng có cơ hội thắm lại lần hai. Có thể nói rằng “Sóng” như một bản giao hưởng tình yêu còn “Vội vàng” là khúc vĩ thanh về khát vọng sống vội vã với cuộc đời tươi đẹp. Chẳng hẹn mà gặp, hai người nghệ sĩ đã thổi hồn mình vào những trang thơ với xúc cảm dào dạt và mãnh liệt. Một Xuân Quỳnh với trái tim yêu đầy nữ tính, một Xuân Diệu với sự hối hả và mãnh liệt trong cảm xúc – mỗi người đều đã ghi tên mình vào dòng chảy của thời gian, của lòng người. Những áng thơ của họ sẽ còn sống mãi với thời gian.

-Minh Anh-vfo.vn

  • Chủ đề liên hệ so sanh song voi vang xuân diệu xuân quỳnh