Thơ thất ngôn bát cú đường luật là gì

Ở bài chia sẻ lần trước, chúng mình đã giới thiệu đến các bạn cách làm thơ lục bát. Và trong bài viết này hãy cùng chúng mình tìm hiểu về cách làm thơ thất ngôn bát cú và 50 bài thơ thất ngôn bát cú hay nhé!

Thơ thất ngôn bát cú là gì?

Thơ thất ngôn bát cú đường luật là gì
Thơ thất ngôn bát cú là gì?

Thất ngôn bát cú là thể loại thơ có 8 câu, mỗi câu 7 chữ, gieo vần ở chữ cuối trong các câu 1, 2, 4, 6, 8. Đây là một trong những thể thơ cơ bản của thơ Đường Luật và rất được các nhà thơ Việt Nam như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Bà Huyện Thanh Quan,… ưa thích.

Xem thêm:

  • Cách làm thơ lục bát đơn giản và tổng hợp 50 bài thơ lục bát hay
  • Mẫu content quảng cáo hay

Luật thơ thất ngôn bát cú Đường luật

  • Số chữ, số câu hạn định: Một bài thơ thất ngôn bát cú có tổng cộng có 56 chữ , gồm 8 câu mỗi câu 7 chữ.
  • Luật bằng trắc: làm thơ thất ngôn bát cú phải theo quy luật bằng trắc rất chặt chẽ. Bài thơ sẽ theo luật thanh trắc, nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên trong bài thơ là thanh trắc. Tương tự, nếu là thanh bằng thì bài thơ theo luật bằng. Nếu bài thơ không tuân theo luật bằng trắc thì sẽ gọi là thất luật
    Thơ thất ngôn bát cú đường luật là gì
    Luật thơ thất ngôn bát cú Đường luật
  • Niêm: Chữ thứ 2 của câu thứ 2 trong bài thơ phải cùng nhóm thanh (bằng hoặc trắc) với chữ thứ 2 của câu thứ 3 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 của câu thứ 4. Niêm này cứ tiếp tục như vậy cho đến hết bài thơ. Và nếu trái luật sẽ được gọi là thất niêm.
  • Đối: Khi làm thơ thất ngôn bát cú phải nhớ rằng, các câu 3 – 4 và 5 – 6 đối với nhau từ ý đến từ và thanh theo từng cặp một. Đối phải bao gồm cả đối ý, đối từ và đối thanh.
  • Vần: Vần được gieo ở cuối các câu chẵn của bài thơ thất ngôn bát cú Đường Luật. Vần có 2 loại là chính vận (gồm những chữ có âm giống hệt nhau, chỉ khác phụ âm đầu và dấu giọng) và thông vận (gồm những chữ có âm tương tự nhau)
  • Nhịp điệu: Khi làm thơ thất ngôn bát cú bạn được ngắt nhịp ở chữ thứ 2 hoặc thứ 4 của câu.

Bố cục một bài thơ thất ngôn bát cú

Một bài thơ thất ngôn bát cú có 4 cặp câu tạo thành 4 phần: đề – thực – luận – kết:

Đề: gồm 2 câu đầu. Câu 1 mở bài được gọi là phá đề, còn câu 2 là thừa đề, bổ sung cho câu 1 để cùng nói lên đầu đề của bài . Theo chỗ t�i biết, c� lẽ đ�y l� đ�m thơ đầu ti�n của nh� thơ nữ Ngọc Tuyết. Chị đ� c� c�c tập thơ Giọt Đầy Giọt Vơi, L� Trở, v� Sang M�a được tuần tự xuất bản v�o c�c năm 2005, 2006, 2007. T�i được đọc c�c tập thơ thứ hai v� thứ ba trong số đ�. Điều khiến t�i ch� � trước ti�n trong c�c tập thơ ấy l� những b�i thơ Đường luật thất ng�n b�t c� của chị.

C� lẽ Ngọc Tuyết l� một trong số rất hiếm hoi c�c nh� thơ ở th�nh phố m� trong ba năm li�n tục đến nay mỗi năm đều c� t�c phẩm mới ra đời. Nếu coi đ� l� một đặc điểm, th� đặc điểm thứ hai của chị, theo t�i, l� những b�i thơ Đường luật trong c�c tập thơ m� t�i vừa n�i. Hiện nay rất �t nh� thơ c�n l�m thơ Đường luật; số nh� thơ nữ l�m thơ thất ng�n b�t c� lại c�n �t hơn nữa.

Thơ thất ng�n b�t c� từng bị ch� bai b�i b�c trong phong tr�o Thơ Mới v�o những năm 30 của thế kỷ 20, nếu n� c�n l�y lất đến nay cũng chỉ l� �sống r�ng� ở tr�n mức �sống chui�. V� thơ Đường hầu như vắng mặt trong c�c thi phẩm của c�c nh� thơ của ch�ng ta xuất bản h�ng năm. Tuy tại Th�nh phố HCM c� một c�u lạc bộ thơ Đường của tổ chức văn h�a UNESCO m� vừa rồi c� ấn h�nh hai tập thơ thất ng�n b�t c� rất d�y gồm thơ của c�c hội vi�n, mỗi tập c� lẽ khoảng năm � bảy trăm trang, nhưng đ� l� sinh hoạt mang t�nh phong tr�o, kh�ng c� sự tham dự của c�c nh� thơ chuy�n nghiệp. V� vậy, t�i thấy sự c� mặt của thơ thất ng�n Đường luật trong c�c thi phẩm của nh� thơ Ngọc Tuyết l� một điều đặc biệt đ�ng ch� �.

Thơ thất ng�n b�t c� l� một thể thơ cổ của T�u, với c�c đặc t�nh hạn vần, hạn chữ, v� y�u cầu ni�m luật rất khắc khe, n�n kh�ng c�n được nhiều người, nhất l� người trẻ b�y giờ, ưa th�ch. Nếu khoảng nửa đầu thế kỷ trước c�c t�n tuổi như Đ�ng Hồ, Mộng Tuyết, Qu�ch Tấn, B�i Kh�nh Đản� c�n quen thuộc tr�n thi đ�n th� b�y giờ dường như độc giả ở tuổi 40 trở lại kh�ng mấy người nhắc đến thơ Đường luật. Từ sau t�c phẩm �M�a Cổ Điển� của thi sĩ Qu�ch Tấn v�o đầu những năm s�u mươi của thế kỷ 20, m�i đến gần đ�y mới chỉ c� một nh� thơ l�o th�nh Đinh Vũ Ngọc ở Quảng Nam ra mắt tập thơ �Nắng Vườn Xưa� với to�n thể thơ thất ng�n b�t c�, m� người đọc �ng hầu hết l� người lớn tuổi. C�n về c�c nh� thơ nữ th� từ sau khi nữ sĩ Mộng Tuyết xứ H� Ti�n im tiếng tr�n thi đ�n từ hơn nửa thế kỷ trước (B� mới qua đời gần đ�y), cho đến nay dường như chưa c� hay kh�ng c� mấy nh� thơ nữ in thơ Đường luật trong thi phẩm của m�nh � nếu họ c� l�m thơ Đường luật.

Như ch�ng ta đ� biết, nền thi ca Việt Nam đ� v� đang trải qua nhiều bước cải c�ch. Nhiều người c�n đang b�n c�i những bước cải c�ch ấy l� tiến hay l�i, đưa thơ đi s�u v�o l�ng người hay ng�y c�ng rời xa người đọc. Trong qu� tr�nh tự lột x�c li�n tục của thơ, Thơ Mới của phong tr�o Thơ Mới thập ni�n 30 thế kỷ trước đ� bị coi l� cũ; từ khoảng cuối thập ni�n 50 thế kỷ 20, một số nh� thơ ở miền Bắc, trong đ� c� nh� thơ Trần Dần, đ� bắt đầu c�c thể nghiệm c�ch t�n thơ, rồi đầu thập ni�n 60 thế kỷ trước, nh� thơ Thanh T�m Tuyền trong Nam c�ng với một số thi sĩ trong nh�m S�ng Tạo đề xướng Thơ Tự Do kh�ng vần điệu, từ đ� ra đời loại thơ ph� thể, rồi thơ giống văn xu�i � gọi l� thơ xu�i � v�n v�n� v� b�y giờ người ta đang n�i v� l�m thơ t�n h�nh thức, thơ hậu hiện đại, thơ internet�. Vậy m� nh� thơ nữ của ch�ng ta vẫn �hồn nhi�n� l�m thơ thất ng�n Đường luật v� �hồn nhi�n� in thơ Đường luật của m�nh trong c�c thi phẩm ch�nh thức! Như thế l� đặc biệt lắm chớ sao!

Nh� thơ Ngọc Tuyết c� những c�u thơ lục b�t s�u lắng như thế n�y: nhủ l�ng / th�i chớ ho�i mong / c�ng chia / c�ng thiếu / c�ng đong / c�ng đầy / địa đ�ng / �m cả v�o tay / dẫu mai / tim ứa giọt cay / cũng đ�nh�

(Dẫu Mai)

v� chị đ� đưa t�nh cảm dịu d�ng đằm thắm của m�nh v�o thể thơ thất ng�n b�t c� rất hồn nhi�n, khiến người ta kh�ng nhận ra hai thể thơ ấy v� c�c thể thơ kh�c nữa đang nằm b�n nhau trong c�ng thi tập:

L� t�m h�m n�o giấu ở đ�u

M�a thu đục ẩm mắt thu sầu�

(L� T�m)

Hoặc

T�c rối lưng chiều mắt chấm vai

Hồn hoa nghi�ng ngả gọi đ�m d�i

Gi� đưa mằn mặn mầm thương lạ

Cỏ ngậm nồng nồng sợi nhớ sai�

(Nghi�ng Chiều)

Thơ thất ng�n b�t c� thường được coi như một bức tranh d� trữ t�nh hay tả cảnh, m� nếu mỗi c�u thơ được coi như một n�t vẽ, th� trừ c�u ph� đề v� c�u th�c � tức c�u đầu v� c�u cuối - bức tranh chỉ bao gồm kh�ng hơn s�u n�t vẽ. V� vậy mỗi n�t vẽ phải hết sức c� đọng v� h�m s�c � kh�ng thể thừa v� kh�ng được thiếu. Người ta ch� thơ thất ng�n b�t c� ch�nh v� sự �chật chội� đ�. Nhưng sự chật chội trong khu�n khổ b�i thơ vẫn kh�ng g� b� được t�nh cảm của chị gởi v�o thơ. Chẳng hạn b�i thơ c� tựa l� C� dưới đ�y của nh� thơ Ngọc Tuyết:

C�

C� con đường nhỏ c� v�ng tay

C� một chiều mưa ướt đẫm ng�y

C� ph�t hồn nhi�n m�i mắt lịm

C� gi�y kỳ diệu gối chăn đầy

C� đời căng mạch nghe t�nh dậy

C� đất vươn m�nh đợi nắng v�y

C� biển c�ng ta đi ngủ muộn

C� ai nhớ chuyện đ� y�u n�y.

Thất ng�n b�t c� trước hết l� lối thơ ưa th�ch của c�c nh� tr� thức thời xưa, tức c�c nh� nho. C�c cụ l� người c� học vấn cao v� uy�n b�c; t�m hồn c�c cụ thấm nhuần phong c�ch đĩnh đạc trịnh trọng của c�c vị th�nh hiền, thơ của c�c cụ kh�ng ph� diễn c�c cảm x�c cực đoan gay gắt hay sống sượng th� thiển, cho n�n đ�y l� một thể thơ sang trọng v� tao nh�, v� dường như n� c� vẻ đặc biệt th�ch hợp với phong c�ch trầm tĩnh điềm đạm v� t�nh cảm đằm thắm nhưng chừng mực của Ngọc Tuyết, một nh� thơ vốn từng tốt nghiệp đại học khoa ngữ văn, v� c� lẽ v� vậy đ� c� cơ hội cảm nhận t�nh chất của thể thơ cổ đ� gần gũi v� ph� hợp với t�m t�nh dịu d�ng k�n đ�o của m�nh.

Tuy kh�ng so s�nh được với sự sang trọng v� đĩnh đạc trong thơ thất ng�n b�t c� của vị nữ lưu tiền bối l� B� Huyện Thanh Quan

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ l�u đ�i b�ng tịch dương�

Nhưng nh� thơ Ngọc Tuyết vẫn lu�n giữ được sự chừng mục trong t�nh cảm của m�nh thể hiện trong thơ Đường luật của chị. Dường như nh� thơ c� điều g� đ� kh�ng trọn vẹn trong t�nh cảm đời thường, nhưng trong c�c tập thơ của chị m� t�i đ� đọc, lời thơ kh�ng tỏ ch�t g� dằn vặt khắc khoải v� nỗi đam m� khao kh�t t�nh y�u được thể hiện rất nhẹ nh�ng b�ng bẩy.

V�ng tay nồng thắm tr�i hồn em,

C� thế m� th�i nhớ đến mềm

C�t trắng phơi m�nh chờ biển dạo

Biển bờ đợi gi� đếm chiều l�n�

(S�ng Gọi)

Hoặc c� t�o bạo lắm cũng chỉ đến chừng n�y:

Ước g� trời đất ngừng xoay chuyển

Vũ điệu �i t�nh quấn qu�t trao.

(Vũ Điệu)

Thơ b�t c� Đường luật đ�i hỏi phải c� đối ở hai cặp �thực� l� �luận� l� c�c c�u 3 � 4 v� 5 � 6. Ch�nh c�i việc đối n�y thường l� một th�ch thức như con dao hai lưỡi: n� l� chỗ rất dễ để lộ sự non tay của t�c giả khi c�c c�u đối c� vẻ cũ v� s�o m�n; hoặc n� chứng tỏ bản l�nh vững v�ng của t�c giả với những vế đối mới mẻ, �xuất s�o� v� s�ng tạo, như hai c�u 3 v� 4 trong b�i Ngược Gi�:

Muốn hỏi rằng ai c� khỏe kh�ng

Nhưng sao lại thấy đắng nơi l�ng

Bởi m�y vắng gi� m�y buồn trắng

V� nắng đan mưa nắng kh� hồng�

Hoặc hai c�u 5 v� 6 trong b�i L� T�m:

Bắt nắng cuộc đời va b�i cạn

Tung bờm m�a lũ vượt d�ng đau

Ở tr�n t�i c� n�i thơ b�t c� Đường luật đ�i hỏi phải tu�n theo ni�m luật rất khắc khe. Ngo�i luật bằng trắc, vần v� đối, nh� thơ phải để � đến qui định:

Nhất tam ngũ bất luận

Nh� tứ lục ph�n minh

Nghĩa l� �m của c�c chữ thứ nhất, thứ ba v� thứ năm trong c�u thơ th� kh�ng nhất thiết phải theo luật bằng trắc, nhưng c�c chữ thứ hai, thứ tư v� thứ s�u của mỗi c�u phải tu�n thủ �m bằng trắc r� r�ng. Như thế gọi l� đ�ng ni�m. C�u thơ sai �m bằng trắc ở c�c chữ đ� th� gọi l� c�u thơ thất ni�m.

V� c�u thơ cuối c�ng n�y trong b�i thơ Ta Với Ta của chị l� một c�u thơ thất ni�m.

Đời m�i rẽ ng�y ho�i trống vắng

Cuối vườn y�u thương nhớ chưa qua.

Chữ thương l� chứ thứ tư, �m bằng, trong khi theo c�u thơ n� phải l� �m trắc.

Tuy nhi�n ch�nh sự thất ni�m cố � n�y đ� tạo hiệu ứng cho c�u thơ, khiến c�u thơ bảy chữ gồm năm �m bằng trở n�n một lời than tiếc kh�ng ngu�i, chớ kh�ng phải lời ph�t biểu một sự kiện đơn giản v� kh� khan.

Giả dụ t�c giả thay từ thương bằng một từ n�o đ� c� �m trắc, từ �nỗi�, chẳng hạn, c�u thơ sẽ l�

Cuối vườn y�u nỗi nhớ chưa qua

Th� c�u thơ đ�ng ni�m luật, nhưng đ� l� một c�u thơ thật b�nh thường như kể một sự kiện m� th�i, kh�ng c� hiệu ứng khiến người nghe cảm nhận được sự than tiếc của t�c giả. Ch�nh thủ thuật n�y cho thấy nh� thơ đ� rất chắc tay trong xử l� ni�m luật thơ Đường.

Khi mới tập đi xe đạp, ch�ng ta thường bấu chặt hai b�n tay v�o �ghi đ�ng� xe, m� xe vẫn cứ ng�. Sau khi đ� đi thạo, ch�ng ta kh�ng c�n nhớ đến việc phải giữ chặt �ghi đ�ng� xe nữa, đ�i khi ch�ng ta c� thể chỉ cầm l�i một tay, hoặc thậm ch� c� thể bu�ng cả hai tay m� xe vẫn chạy băng băng. L�m thơ Đường luật dường như cũng phần n�o tương tự như vậy. Khi luật thơ đ� h�a nhập v�o hồn thơ rồi, nh� thơ kh�ng c�n bấu chặt tay v�o ni�m luật nữa.

Trước đ�y nh� thơ Xu�n Diệu đ� từng tấm tắc t�m đắc với một từ thất ni�m trong c�u thơ Nguyễn Tr�i:

Tuổi gi� t�c bạcc�i r�u bạc

Nh� ngặt đ�n xanh con mắt xanh

�C�i r�u bạc� to�t l�n một c�i g� đ� c� vẻ ngang t�ng kh� kh�i, hơn l� �Ch�m r�u bạc� rất hiền hậu, y�n th�n.

C�u đầu v� c�u thứ ba trong b�i thơ tuyệt t�c Ho�ng Hạc L�u của Th�i Hiệu đều thất ni�m. C�u thứ ba th� trong bảy chữ đ� s�u chữ mang �m trắc:

T�ch nh�n dĩ thừa ho�ng hạc khứ

Thử địa kh�ng dư ho�ng hạc l�u

Ho�ng hạc nhất khứ bất phục phản

C�u thơ to�n �m trắc kh�c khắc gập ghềnh như thể t�c giả tuyệt vọng v� hạc v�ng đ� bay mất từ xưa kh�ng bao giờ trở lại nữa.

N�i d�i d�ng như thế, t�i kh�ng hề c� � thổi phồng phỉnh nịnh nh� thơ Ngọc Tuyết l�m thơ Đường luật c� t�i năng ngang h�ng với Nguyễn Tr�i, nh� văn h�a lớn của Việt Nam, v� thi h�o Th�i Hiệu đời Đường của nước T�u cổ. Dĩ nhi�n nếu khắc khe một ch�t người ta c� thể t�m thấy đ�y đ� trong những b�i thơ Đường luật của chị những chỗ c� lẽ c�n chưa vừa � với ch�nh t�c giả của ch�ng. Chẳng hạn, c�ng với nhiều n�t mới v� s�ng tạo, trong thơ Đường luật của chị thỉnh thoảng c� một đ�i chỗ chưa tr�nh được những từ qu� cũ hay những � khu�n s�o. V� dụ:

Ai l�m con tạo ngược vần xoay�

(Nợ)

Hoặc

Từ độ trăng về qua lối mộng

Bao lần b�o nổi cuộn hồn hoa�

(Ta Với Ta)

Nhưng m� ở đời c� ai to�n b�ch đ�u? Vả lại sự nghiệp thơ của chị c�n rất d�i, nếu mỗi năm chị vẫn đều đều c� t�c phẩm mới ra mắt người y�u thơ th� chắc g� người ta c�n dịp gặp lại những n�t chưa tinh lọc đ� nữa. Trong b�i thơ Ngược Gi� của chị c� c�u:

V� nắng đan mưa nắng kh� hồng

Ba từ nắng đan mưa vẽ một c�ch rất mới cảnh trời vừa mưa vừa nắng, v� cảnh l�ng với niềm vui buồn đan xen nhau, thật đắt.

V� c�u cuối trong b�i thơ L� T�m, t�c giả viết:

Mặn ch�t t�nh ta b�ng bạc m�u,

Với ph�t hiện b�ng bạc m�u chị đ� thật sự đ�ng g�p th�m một n�t s�ng tạo rất mới trong thơ.

Trong c�c tập thơ của Ngọc Tuyết m� t�i được đọc, chị s�ng t�c với nhiều thể loại thơ rất phong ph�, từ thơ ba c�u, bốn c�u, t�m c�u; thơ hai chữ, ba chữ, bốn chứ, năm chữ, bảy chữ, lục b�t, thất ng�n Đường luật, v� cả thơ văn xu�i, trong đ� những b�i thơ thất ng�n Đường luật của chị đ� �chung sống h�i h�a� với c�c thể thơ kh�c, v� c�ng thể hiện một t�m hồn thơ nữ đằm thắm, dịu d�ng, phản �nh phong c�ch điềm đạm v� chừng mực của chị trong cuộc sống đời thường.

Xin ch�c chị ng�y c�ng đạt được nhiều th�nh tựu hơn nữa trong nghệ thuật.

C�m ơn qu� vị v� c�c bạn đ� lắng nghe.

Thiếu Khanh.


Đến nay chị đ� c� th�m c�c thi phẩm Nh�p (Nxb Thanh Ni�n, 2009), v� M�t (Nxb Hội Nh� Văn, 2011)

Khái niệm thơ Đường là gì?

Thơ Đường hay Đường thi (chữ Hán: 唐詩) là toàn bộ thơ ca đời Đường được các nhà thơ người Trung Quốc sáng tác trong khoảng từ thế kỉ 7 - 10 (618 - 907). Các sáng tác của hàng nghìn nhà thơ đời Đường được bảo tồn trong cuốn Toàn Đường thi gồm 48.900 bài.

Niệm trong thơ thất ngôn bát cú Đường luật là gì?

Trong thơ Đường luật, có khái niệm niêm. Chẳng hạn, ở thể thất ngôn bát cú, tiếng thứ 2 của các dòng 1 và 8, 2 và 3, 4 và 5, 6 và 7 phải cùng một thanh (cùng bằng hoặc cùng trắc). Người ta gọi đó là niêm, tức “phép dính nhau”. Không tuân thủ điều này bị gọi là thất niêm, tức “mất đi sự kết dính”.

Thể thơ ngũ ngôn Đường luật là gì?

Thơ ngũ bài [五排] (hay ngũ ngôn bài luật) là loại thơ không hạn định về số câu nhưng ít nhất phải trên 8 câu (bài luật), mỗi câu có 5 tiếng (ngũ ngôn) được làm theo quy định của luật thơ Đường luật.

Thể thơ thất ngôn là gì?

Thất ngôn tứ tuyệt (七言四絶) là thể thơ mỗi bài có 4 câu và mỗi câu 7 chữ, trong đó các câu 1, 2, 4 hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Thể thơ này ra đời vào thế kỉ XII vào Nhà Đường, ở Trung Quốc.