Các thủy điện nhỏ mùa khô phát bao nhiêu 5

Thủy điện ở Việt Nam thuận lợi nhờ có có lượng mưa trung bình hàng năm cao, khoảng 1.800 - 2.000mm và hệ thống sông ngòi dày đặc với hơn 3.450 hệ thống. Ngoài mục tiêu cung cấp điện, các nhà máy thủy điện còn có nhiệm vụ cắt và chống lũ cho hạ du trong mùa mưa bão, đồng thời cung cấp nước phục vụ sản xuất và nhu cầu dân sinh trong mùa khô.

Đập Thủy điện Hòa Bình chặn đường cá mè lên nguồn đẻ trứng.

Hiện thời[sửa | sửa mã nguồn]

Tổng công suất thủy điện của Việt Nam trên lý thuyết vào khoảng 35.000MW, trong đó 60% tập trung tại miền Bắc, 27% phân bố ở miền Trung và 13% thuộc khu vực miền Nam. Đến năm 2013, tổng số dự án thủy điện đã đưa vào vận hành là 268, với tổng công suất 14.240,5 MW. Năm 2014, thủy điện chiếm khoảng 32% trong tổng sản xuất điện. Cho đến nay các vị trí có thể xây dự án thủy điện lớn có công suất trên 100MW hầu như đã được khai thác hết.

Tương lai[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện tại có 205 dự án với tổng công suất 6.198,88 MW đang xây dựng và dự kiến đưa vào vận hành trong giai đoạn 2015-2017. Riêng bốn tỉnh miền Trung cùng hai tỉnh ở Tây Nguyên là Kon Tum và Đắk Nông đã có gần 150 dự án thủy điện lớn nhỏ đã được phê duyệt. Là địa phương có số lượng các nhà máy thủy điện lớn nhất, Quảng Nam có đến 62 dự án thủy điện với tổng công suất lên tới 1.601MW.

Tuy nhiên theo dự báo của Quy hoạch phát triển điện đến các năm 2020 và 2030 thủy điện chỉ còn chiếm khoảng 23% trong tổng sản xuất điện.

Phân loại[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Việt Nam, các nguồn thủy điện có công suất đến 30MW thì được phân loại là thủy điện nhỏ. Các nguồn thủy điện có công suất lớn hơn gọi là thủy điện lớn.

Tuy nhiên, theo Tổ chức thủy điện của Liên hiệp quốc, thì các nguồn thủy điện có công suất từ 200 kW - 10 MW gọi là thủy điện nhỏ, còn các nhà máy có công suất từ 10 MW - 100 MW là thủy điện vừa. Sự phân cấp cũng cho thấy phần nào ảnh hưởng của các nguồn thủy điện đến môi trường và xã hội.

Các thủy điện nhỏ mùa khô phát bao nhiêu 5
Khi thủy điện chặn dòng không trả lại nước cho sông.

Tác động môi trường và xã hội[sửa | sửa mã nguồn]

Đập và hồ chứa thủy điện có tác dụng tích cực là cung cấp nước uống, tạo ra năng lượng thủy điện, tăng nguồn dự trữ nước tưới tiêu, cung cấp nơi nuôi trồng thủy sản, và kiểm soát lũ lụt. Ví dụ như Nhà máy thủy điện Hòa Bình đã góp phần quan trọng vào việc phòng chống lũ lụt cho vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, trong đó có thủ đô Hà Nội. Sau khi nhà máy hoàn thành, trong vòng 30 năm, đồng bằng sông Hồng không còn gặp trận lụt lớn nào, trong khi trước kia cứ vài năm lại có 1 trận lụt lớn.

Tuy nhiên, tác động xấu đến môi trường cũng xảy ra nếu công trình thủy điện không được tính toán cẩn thận khi xây dựng. Cuối tháng 9 năm 2009, thủy điện A Vương ở Quảng Nam xả lũ sau bão số 9 gây ngập úng trên diện rộng. Tháng 9 năm 2016, vụ vỡ ống thủy điện Sông Bung 2 làm nhiều người mất tích. Tháng 10 năm 2016 Thủy điện Hố Hô xả lũ gây ra ngập úng diện rộng trên các xã thuộc huyện Hương Khê - Hà Tĩnh và phía Bắc tỉnh Quảng Bình cộng thêm tình hình mưa kéo dài gây thiệt hại nghiêm trọng tương đương trận lũ lịch sử năm 1999. Tháng 12 cùng năm, 12 hồ thủy điện ở Nam Trung Bộ đồng loạt xả lũ, cùng với mưa lớn gây ngập nặng, ít nhất 3 người chết.

Trách nhiệm[sửa | sửa mã nguồn]

Qua bàn cãi về các vụ xả lũ và hạn hán tại các khu vực hạ lưu Thủy điện An Khê - Kanak, ông Nguyễn Thanh Cao-Chủ tịch Liên hiệp hội Khoa học-Kỹ thuật Kon Tum nêu quan điểm: “Trách nhiệm của lãnh đạo địa phương nơi xây dựng nhà máy thủy điện rất quan trọng. Địa phương cần phải bắt buộc chủ đầu tư cam kết duy trì dòng chảy hạ lưu con sông nơi xây dựng công trình thủy điện để tránh việc trốn trách nhiệm.”

(Báo Quảng Ngãi)- Theo cơ quan khí tượng thủy văn, năm 2015 tình hình thời tiết không thuận lợi. Khu vực miền Trung bị hạn nặng. Ngành điện vừa lo chống hạn cho cây trồng, vừa lo thiếu nước để các thủy điện vận hành. Trước áp lực này, Công ty Điện lực Quảng Ngãi đã xây dựng nhiều phương án đảm bảo đủ điện cung ứng cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh.

Vận hành tối ưu nguồn điện

Hiện nay, tại Quảng Ngãi lượng nước về các hồ thủy điện Cà Đú, Hà Nang, Sông Riềng, Nước Trong đã giảm mạnh. Hiện tại, thủy điện Sông Riềng (công suất hơn 3MW) chỉ phát khoảng 4-5 giờ/ngày, tương đương 20-30% công suất lắp máy. Thủy điện Cà Đú (công suất nhỏ nhất trong các thủy điện trên địa bàn hiện nay hơn 2MW) phát chưa đến 10% công suất.

Các thủy điện nhỏ mùa khô phát bao nhiêu 5
Vận hành phát điện tại Nhà máy thủy điện Sông Riềng (Tây Trà).

Ông Nguyễn Minh Thùy – Giám đốc Thủy điện Sông Riềng cho biết: Tình hình hạn hán đã làm mực nước giảm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sản lượng điện của nhà máy. Nếu trong những ngày tới không có mưa, thời gian phát điện sẽ tiếp tục hạ xuống chứ không ổn định 4-5 giờ/ngày như hiện nay.

Còn tại thủy điện Cà Đú, lãnh đạo nhà máy cũng rất băn khoăn vì nếu không có mưa thì nhiều khả năng thủy điện sẽ hết nước để hoạt động. Thủy điện Nước Trong, Hà Nang mặc dù hồ chứa còn nước nhưng lượng nước giảm nên khả năng phát điện cũng chỉ còn khoảng 30% công suất thiết kế.

Để đảm bảo cung ứng điện an toàn, liên tục cho các phụ tải trong tỉnh, Công ty Điện lực Quảng Ngãi đã triển khai ngay các giải pháp: Tranh thủ nhận điện từ nguồn hệ thống quốc gia; huy động tối đa các nguồn điện hiện có; tiếp tục hoàn thiện lưới điện nông thôn; xây dựng đường dây trung áp cấp điện cho các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, đặc biệt là khu công nghiệp VSIP; tổ chức sửa chữa lớn, đại tu lưới điện để giảm sự cố, tăng độ tin cậy cung cấp điện. Đặc biệt đảm bảo chế độ vận hành tối ưu nguồn thủy điện hiện có trên địa bàn để huy động hết công suất của các nhà máy thủy điện, đảm bảo đủ điện phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh trong tỉnh.

Ông Nguyễn Thanh – Phó Giám đốc Công ty Điện lực Quảng Ngãi cho biết: “Công việc thường xuyên của Điện lực Quảng Ngãi là tập trung vào công tác quản lý lưới điện, phát quang hành lang tuyến, tăng cường tuyên truyền vận động người dân tham gia bảo vệ lưới điện cao áp; sắp xếp lịch ngừng cấp điện để bảo dưỡng, sửa chữa, thi công lưới điện hợp lý, hạn chế ngừng cấp điện đến mức thấp nhất có thể”.

Tăng cường tiết kiệm điện

Năm 2015, Công ty Điện lực Quảng Ngãi được Tổng công ty Điện lực miền Trung dự kiến phân bổ 812 triệu kWh, tăng hơn 9% so năm 2014. Phương án cấp điện sẽ ưu tiên tuyệt đối cấp điện cho các sự kiện chính trị- xã hội quan trọng theo chỉ đạo của UBND tỉnh như các ngày lễ, kỷ niệm, thi tốt nghiệp… Công ty Điện lực Quảng Ngãi cũng đã có phương án sẽ tiết giảm công suất, sản lượng điện khi hệ thống điện quốc gia thiếu nguồn.

Năm 2015, dự lường trước những khó khăn về nguồn điện, Công ty Điện lực Quảng Ngãi đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ về tiết kiệm điện. Trong đó tập trung tuyên truyền tiết kiệm điện, đặc biệt là việc tiết kiệm điện trong cơ quan công sở, tiết kiệm điện chiếu sáng công cộng, sản xuất kinh doanh. Công ty Điện lực Quảng Ngãi đã làm việc với các khách hàng trọng điểm sản xuất kinh doanh cam kết tiết kiệm ít nhất 10-15% sản lượng điện tiêu thụ trong các tháng khi công ty thông báo tiết giảm điện. Đối với cơ quan công sở tiết kiệm ít nhất 10% chi phí điện năng sử dụng hằng năm.

Năm 2014, tổng sản lượng điện thương phẩm của tỉnh là 744 triệu kWh, tăng 8,6% so năm 2013. Trong năm này, bằng các biện pháp thiết thực, toàn tỉnh đã tiết kiệm được gần 16 triệu kWh, đạt gần 130% kế hoạch giao, tương đương 2% sản lượng điện thương phẩm. Trong đó, khối cơ quan nhà nước tiết giảm được 589.000 kWh; chiếu sáng công cộng gần 10 triệu kWh; tiết kiệm từ sản xuất kinh doanh hơn 5,5 triệu kWh.

Ông Nguyễn Thanh cho biết thêm: “Ngoài việc thực hiện các phương án theo yêu cầu chuyên môn, Công ty Điện lực Quảng Ngãi mong người dân chia sẻ, tạo điều kiện để công ty đảm bảo cung ứng đủ điện, góp phần ổn định, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Đặc biệt trong các tháng 5, 6, 7, 8 Công ty mong muốn mỗi người dân thực hành tiết kiệm điện để đảm bảo việc cấp điện được ổn định, kịp thời, liên tục”.