Con chưa thành niên nghĩa là gì

Vị thành niên (chữ Hán: 未成年, nghĩa là "chưa đủ tuổi trưởng thành" hay "chưa là người lớn") là một khái niệm chưa được thống nhất. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) quy định lứa tuổi 10 - 17 tuổi là độ tuổi vị thành niên. Thanh niên trẻ là lứa tuổi 18- 24 tuổi. Chương trình Sức khỏe sinh sản/Sức khỏe tình dục vị thành niên-thanh niên của khối Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) lấy độ tuổi 10 - 17 tuổi.

Trên thế giới, các nước có quy định về độ tuổi thanh niên khác nhau: nhiều nước quy định từ 18 đến 24 tuổi hoặc 15 - 24 tuổi, một số nước quy định từ 15 - 30 tuổi.

Ở nhiều quốc gia, bao gồm Úc, Ấn Độ, Philippines, Brazil, Croatia và Colombia, trẻ vị thành niên được xác định là một người dưới tuổi 18.[1]

Trong khi Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan và Hàn Quốc, trẻ vị thành niên là người dưới 20 tuổi. Pháp luật New Zealand quy định trẻ vị thành niên là người dưới 18 tuổi là thích hợp, nhưng hầu hết các quyền của tuổi trưởng thành được giả định ở độ tuổi thấp hơn: ví dụ, giao kết hợp đồng và có một ý chí là có thể hợp pháp ở tuổi 15.

Tại Việt Nam quy định trẻ em là dưới 16 tuổi (luật bảo vệ trẻ em 2016), thanh niên là từ 16 - 30 tuổi,[2][3] ngoài ra vị thành niên được xem là lứa tuổi từ 10 đến 18 tuổi. Trẻ em được luật pháp bảo vệ chăm sóc giáo dục là dưới 16 tuổi. Về mặt luật pháp vị thành niên là dưới 18 tuổi.

Như vậy có thể thấy rằng độ tuổi vị thành niên còn được quy định chưa thống nhất giữa các nước trên thế giới.

  • Tuổi mới lớn
  • Thanh thiếu niên
  • Tuổi thành niên

  1. ^ http://www.quora.com/Prisons-and-Prison-Life/Juvenile-crime-is-on-the-rise-Is-it-right-or-fair-to-treat-and-charge-juveniles-as-adults
  2. ^ Luật Thanh niên 2005
  3. ^ Đề nghị nâng tuổi thanh niên lên 35, VnExpress, 21/11/2019

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Vị_thành_niên&oldid=67306973”

Mục lục bài viết

  • 1.Ðại diện cho người chưa thành niên
  • 2.Quyền và nghĩa vụ của người đại diện
  • 3.Giám hộ đối với người chưa thành niên
  • 4.Thực hiện quyền đại diện
  • 5.Chấm dứt việc đại diện

1.Ðại diện cho người chưa thành niên

Khái niệm người chưa thành niên. Theo BLDS Điều 18, người đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên; người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên. Trên nguyên tắc, người thành niên có quyền tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự và tự mình thực hiện các nghĩa vụ của mình . Còn người chưa thành niên phải được đại diện hoặc được hỗ trợ trong cuộc sống dân sự. Người chưa thành niên có thể được đại diện hoặc được hỗ trợ bởi cha, mẹ hoặc người giám hộ.

Thứ nhất, tổ chức việc đại diện

Ðại diện đương nhiên

Về đại đương nhiên thì trừ những trường hợp được luật dự kiến, con chưa thành niên đương nhiên được cha, mẹ đại diện trong các quan hệ với người thứ ba, nhất là trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch mà con chưa thành niên không có quyền tự mình xác lập và thực hiện (Luật hôn nhân và gia đình).

Cơ chế đại diện

Việc đại diện theo pháp luật của cha, mẹ đối với con chưa thành niên được chi phối chủ yếu bởi các quy định trong Điều 20, điều 21 Bộ Luật dân sự năm 2015 và trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Nói chung, sự đại diện của cha, mẹ đối với con chưa thành niên cũng giống như sự đại diện của người giám hộ đối với người được giám hộ: việc đại diện mang tính chất toàn phần hay từng phần tuỳ theo con đã đủ hay chưa đủ 6 tuổi. Mặt khác, nếu con có đủ cha và mẹ nhưng một trong hai người không có năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ, thì người còn lại là người có đầy đủ quyền đại diện cho con chưa thành niên.

Tuy nhiên, nếu cha và mẹ cùng đại diện cho con, thì mọi giao dịch xác lập dưới danh nghĩa và vì lợi ích của con đều phải được sự đồng ý của cả cha và mẹ. Luật chưa dự liệu vai trò của Toà án trong trường hợp cha và mẹ không thống nhất ý kiến. Có vẻ như nếu cha, mẹ không thống nhất ý kiến, thì hoặc cha hoặc mẹ đại diện cho con trong các giao dịch thông thường; còn các giao dịch quan trọng sẽ rơi vào chỗ bế tắc.

Mặt khác, luật không ghi nhận vai trò giám sát của Uỷ ban nhân dân địa phương đối với việc thực hiện quyền của cha, mẹ đại diện cho con chưa thành niên, như trong trường hợp giám hộ người chưa thành niên.

Theo khoản 2, điều 647Bộ Luật dân sự năm 2015 thì:” Con chưa thành niên từ đủ 15 tuổi trở lên chỉ có thể lập di chúc với sự đồng ý của cha, mẹ”. Nhưng, con chưa thành niên đủ 15 tuổi có quyền tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý (Luật hôn nhân và gia đình năm 2014). Nói chung, khi con chưa thành niên đủ 15 tuổi, thì vai trò đại diện của cha mẹ, cũng như vai trò của người giám hộ, mất dần tính chất bảo hộ và mang nhiều hơn tính chất hỗ trợ, hướng dẫn.

2.Quyền và nghĩa vụ của người đại diện

Các quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ trong việc đại diện theo luật cho con chưa thành niên được quy định trong các văn bản luật chủ yếu là các quyền và nghĩa vụ về tài sản. Theo Luật hôn nhân và gia đình, trong trường hợp cha mẹ quản lý tài sản riêng của con, thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, có tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên.

Có thể tin rằng cũng như người giám hộ không có quyền tặng cho tài sản của người được giám hộ, cha, mẹ không có quyền tặng cho tài sản của con chưa thành niên. Thế nhưng, cha, mẹ có quyền bán, cầm cố tài sản của con mà không cần xin phép Uỷ ban nhân dân địa phương nơi cư trú như người giám hộ bán, cầm cố tài sản của người được giám hộ. Có thể mở rộng giải pháp này cho tất cả các trường hợp định đoạt có đền bù (có hoặc không có điều kiện) đối với tài sản của con chưa thành niên, như trao đổi, thế chấp bất động sản,… cũng như các trường hợp các giao dịch quan trọng có tính chất quản trị tài sản, như cho thuê, cho vay,… tài sản.

Trong trường hợp con chưa thành niên đủ 15 tuổi tự mình quản lý tài sản, thì có quyền tự mình định đoạt tài sản, dù vai trò đại diện của cha mẹ chưa chấm dứt (Luật hôn nhân và gia đình Điều 46 khoản 2); tuy nhiên, việc định đoạt các tài sản có giá trị lớn hoặc dùng tài sản để kinh doanh phải có sự đồng ý của cha mẹ (cùng điều luật).

3.Giám hộ đối với người chưa thành niên

Định nghĩa. Giám hộ đối với người chưa thành niên là việc cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên (BLDS Ðiều 58 khoản 1).

Trong những trường hợp nào người chưa thành niên cần có người giám hộ ?. Ðược giám hộ, người chưa thành niên nào không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên và có yêu cầu cử giám hộ (Ðiều 58 khoản 2 điểm a). Việc cử người giám hộ là bắt buộc trong trường hợp người chưa thành niên chưa đủ 15 tuổi mà rơi vào các trường hợp nêu ở trên (Ðiều 58 khoản 3). Luật bỏ quên trường hợp cả cha và mẹ của người chưa thành niên đều vắng mặt hoặc bị tuyên bố mất tích. Có thể dùng phương pháp áp dụng tương tự pháp luật đối với Điều 58 khoản 2 điểm a để thừa nhận rằng việc cử người giám hộ cho người chưa thành niên cũng cần thiết trong trường hợp này, đặc biệt là khi người chưa thành niên chưa đủ 15 tuổi. Giám hộ gia đình và giám hộ công. Giám hộ gia đình về mặt hình thức là việc giám hộ được thực hiện bởi một hoặc nhiều người có quan hệ thân thích với người được giám hộ, do mối liên hệ thân thuộc hoặc liên hệ hôn nhân. Về nội dung, giám hộ gia đình là một cơ chế mô phỏng cơ chế quản lý kiều gia đình. Các công việc giám hộ không chỉ liên quan đến tài sản mà còn mang ý nghĩa của việc tạo lập, duy trì và phát triển các mối quan hệ tình cảm gia đình giữa những người có liên quan.

Giám hộ công, về mặt hình thức, là việc giám hộ do một cơ quan nhà nước hoặc một tổ chức xã hội, gọi chung là một thiết chế công, đảm nhận. Giám hộ công mang tính chất của một hoạt động xã hội, từ thiện. Mục đích cao nhất của giám hộ công là bảo vệ tài sản của người được giám hộ và bảo vệ chính người được giám hộ về mặt nhân thân chống lại những rủi ro có thể đến từ người thứ ba do việc lợi dụng khả năng nhận thức non kém của người được giám hộ.

Giám hộ: công việc không thù lao và không được chuyển giao. Giám hộ không phải là một nghề, cũng không được coi là một hoạt động tạo thu nhập. Người giám hộ bỏ sức lao động vì lợi ích của người khác, theo cung cách của một người làm việc tình nguyện, không vụ lợi. Tất nhiên, người giám hộ không bị buộc phải lấy tài sản của mình phục vụ cho người khác; bởi vậy, nếu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám hộ mà người giám hộ phải dùng đến các tài sản của mình, thì người này có quyền yêu cầu hoàn trả theo đúng giá trị. Trái lại, người giám hộ không có quyền yêu cầu trả thù lao , cũng không có quyền yêu cầu bồi hoàn công sức lao động của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Mặt khác, nhiệm vụ của người giám hộ là nhiệm vụ gắn với nhân thân của người này. Trong trường hợp người giám hộ chết, việc giám hộ chấm dứt một cách đương nhiên: những người thừa kế của người giám hộ chỉ có trách nhiệm thanh toán công việc giám hộ của người chết chứ không có trách nhiệm (và cũng không có quyền) tiếp tục các công việc của người này. Tính chất của việc giám hộ đối với người chưa thành niên. Trẻ em, trong điều kiện, hoàn cảnh bình thường, phải là thành viên của một gia đình và sự chăm sóc, giáo dục của gia đình là điều cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của trẻ, trong quá trình chuẩn bị bước vào cuộc sống xã hội trong tư thế một chủ thể đầy đủ

Việc giám hộ đối với người chưa thành niên, tức là đối với trẻ em, không ngoài mục đich thay thế sự chăm sóc, giáo dục mang tính chất gia đình mà người được giám hộ đã không có, cũng nhằm mục đích bảo đảm các điều kiện phát triển bình thường cho người đó. Bởi vậy, người giám hộ được chỉ định theo thứ tự ưu tiên được thiết lập dựa vào mức độ thân thuộc giữa người giám hộ và người được giám hộ.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng giám hộ không thể thay thế một cách hoàn hảo vai trò của cha mẹ. Người giám hộ không phải là người trực tiếp tạo ra người được giám hộ; bởi vậy, không thể trông đợi ở người giám hộ sự chăm sóc, giáo dục như là kết quả sự thôi thúc của một thiên hướng tự nhiên, như trong trường hợp của người giám hộ tự nhiên, là cha mẹ. Đặc biệt sự giám hộ công mang tính chất bảo trợ xã hội đối với sự phát triển của chủ thể hơn là sự thay thế gia đình trong việc chăm sóc, giáo dục người được giám hộ.

4.Thực hiện quyền đại diện

Về nguyên tắc

Nguyên tắc, thực hiện chung và trực tiếp. Dù không có quy định rõ ràng của luật viết, vẫn có thể khẳng định rằng trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam cha mẹ có quyền ngang nhau trong việc đại diện cho con chưa thành niên và phải cùng nhau thực hiện quyền này.

Ngang quyền, cha mẹ, trên nguyên tắc, phải thống nhất ý chí trong hoạt động đại diện. Trong trường hợp ngược lại, thì, về mặt lý thuyết, việc đại diện sẽ sa vào chỗ bế tắc. Còn trên thực tế, người nào nắm quyền lực mạnh hơn sẽ có tiếng nói áp đảo. Thông thường, đó là người cha.

Các trường hợp đặc biệt

Trường hợp cha hoặc mẹ bị hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên. Theo Luật hôn nhân và gia đình, trong trường hợp một trong hai người là cha mẹ bị Toà án hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên, thì người kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con. Không có văn bản nào chi phối việc thực hiện quyền cha mẹ trong trường hợp này; bởi vậy, có thể thừa nhận rằng người còn lại có toàn quyền của cha mẹ.

Trường hợp cha hoặc mẹ chết. Khi giải quyết vấn đề đại diện cho con chưa thành niên, luật không dự kiến tình huống cha hoặc mẹ chết. Tuy nhiên, như đã biết, việc đại diện cho con chưa thành niên chỉ được thực hiện theo một trong hai chế độ: đại diện theo pháp luật của cha mẹ hoặc giám hộ. Thế mà, luật chủ động dự kiến các trường hợp cần đặt người chưa thành niên dưới chế độ giám hộ; trong các trường hợp ấy không có tình huống cha hoặc mẹ của người chưa thành niên chết. Dùng phương pháp loại suy, ta xác định rằng khi cha hoặc mẹ chết, thì quyền đại diện cho con thuộc về người còn lại.

Trường hợp cha mẹ ly hôn. Trong trường hợp cha và mẹ ly hôn, thì con chưa thành niên sẽ được giao cho một trong hai người trông nom, nuôi dưỡng. Luật hôn nhân và gia đình, khi giải quyết vấn đề giao con chưa thành niên cho cha hoặc mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, không đề cập đến việc đại diện cho con. Tuy nhiên, có thể tin rằng người đại diện rtoàn quyền của con phải là người trực tiếp nuôi con; người còn lại chỉ có quyền giám sát.

5.Chấm dứt việc đại diện

Việc đại diện theo luật của cha, mẹ đối với con chưa thành niên chấm dứt khi con thành niên hoặc chết. Nếu con không có năng lực hành vi dân sự, dù đã thành niên, thì việc đại diện theo luật cũng chấm dứt và được thay thế bằng chế độ giám hộ đương nhiên của cha, mẹ (Bộ Luật dân sự Ðiều 62 khoản 3).

Luật không quy định việc thanh toán tài sản giữa cha mẹ và con chưa thành niên sau khi việc đại diện chấm dứt. Hẳn, mọi chuyện được giải quyết theo tục lệ.

Luật Minh Khuê ( sưu tầm và biên tập)