Dđiều lệ công ty cổ phần thanh toán quốc gia năm 2024

Điều lệ là bản thỏa thuận giữa những người sáng lập công ty với các cổ đông và giữa các cổ đông với nhau cùng được soạn căn cứ trên những khuôn mẫu chung của luật pháp (luật doanh nghiệp, luật thuế, luật lao động, luật tài chính, kế toán…) để ấn định cách tạo lập, hoạt động và giải thể của một doanh nghiệp.

Các nội dung chủ yếu trong điều lệ của công ty cổ phần theo quy định pháp luật?

Căn cứ theo quy định tại Điều 24 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về điều lệ như sau:

“Điều 24. Điều lệ công ty
1. Điều lệ công ty bao gồm Điều lệ khi đăng ký doanh nghiệp và Điều lệ được sửa đổi, bổ sung trong quá trình hoạt động.
2. Điều lệ công ty bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; tên, địa chỉ chi nhánh và văn phòng đại diện (nếu có);
b) Ngành, nghề kinh doanh;
c) Vốn điều lệ; tổng số cổ phần, loại cổ phần và mệnh giá từng loại cổ phần đối với công ty cổ phần;
d) Họ, tên, địa chỉ liên lạc, quốc tịch của thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của chủ sở hữu công ty, thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; của cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần. Phần vốn góp và giá trị vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh. Số cổ phần, loại cổ phần, mệnh giá từng loại cổ phần của cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần;
đ) Quyền và nghĩa vụ của thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; của cổ đông đối với công ty cổ phần;
e) Cơ cấu tổ chức quản lý;
g) Số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; phân chia quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong trường hợp công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật;
h) Thể thức thông qua quyết định của công ty; nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ;
i) Căn cứ và phương pháp xác định tiền lương, thù lao, thưởng của người quản lý và Kiểm soát viên;
k) Trường hợp thành viên, cổ đông có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cổ phần đối với công ty cổ phần;
l) Nguyên tắc phân chia lợi nhuận sau thuế và xử lý lỗ trong kinh doanh;
m) Trường hợp giải thể, trình tự giải thể và thủ tục thanh lý tài sản công ty;
n) Thể thức sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty.
3. Điều lệ công ty khi đăng ký doanh nghiệp phải bao gồm họ, tên và chữ ký của những người sau đây:
a) Thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh;
b) Chủ sở hữu công ty là cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu công ty là tổ chức đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
c) Thành viên là cá nhân và người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của thành viên là tổ chức đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên;
d) Cổ đông sáng lập là cá nhân và người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của cổ đông sáng lập là tổ chức đối với công ty cổ phần.
4. Điều lệ công ty được sửa đổi, bổ sung phải bao gồm họ, tên và chữ ký của những người sau đây:
a) Chủ tịch Hội đồng thành viên đối với công ty hợp danh;
b) Chủ sở hữu, người đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu hoặc người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
c) Người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty cổ phần.”

Theo đó, điều lệ công ty cổ phần bao gồm Điều lệ khi đăng ký doanh nghiệp và Điều lệ được sửa đổi, bổ sung trong quá trình hoạt động. Đồng thời điều lệ công ty cổ phần bao gồm các nội dung chủ yếu nêu bên trên.

Dđiều lệ công ty cổ phần thanh toán quốc gia năm 2024

Mẫu mới nhất điều lệ của công ty cổ phần? Điều lệ công ty cổ phần bao gồm các nội dung chủ yếu nào? (Hình từ internet)

Doanh nghiệp chiếm ưu thế lớn nhất về nguồn vốn và năng lực kinh doanh chính là loại hình công ty cổ phần (CTCP), nó được thừa nhận là một phát minh của nền kinh tế thị trường, là nền tảng hình thành nên những công ty siêu quốc gia, những tập đoàn kinh tế lớn và thị trường chứng khoán. Trong pháp luật Việt Nam, loại hình CTCP xuất hiện lần đầu tiên trong Luật Công ty năm 1990, và từ đó, địa vị pháp lý loại hình này được thay đổi nhiều lần do yêu cầu của tiến trình phát triển thông qua việc ban hành văn bản luật của Quốc hội, để điều chỉnh hành vi kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. Trong điều kiện hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới, vấn đề đặt ra là chúng ta phải có một văn bản luật thống nhất bảo đảm quyền tự do lựa chọn loại hình, ngành nghề kinh doanh của các nhà đầu tư và doanh nhân mà không trái với quy luật phát triển kinh tế thị trường. Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời kịp thời khẳng định vị thế pháp lý minh bạch trong quá trình quản lý doanh nghiệp của các cơ quan nhà nước cũng như đảm bảo quyền tự do kinh doanh của mọi công dân. Ngoài ra, nó còn đảm bảo tính nhất quán trong việc thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng ta về địa vị pháp lý của các loại hình doanh nghiệp trong luật pháp, trong đó có loại hình CTCP. Nhưng, nhìn dưới góc độ chế định pháp lý hiện hành, loại hình CTCP - ngoài những mặt tích cực không thể phủ nhận trong nền kinh tế thị trường - vẫn có một số quy định bất cập, chồng chéo, cho nên, trong quá trình triển khai thực hiện thiếu tính thống nhất, cần thiết phải điều chỉnh kịp thời. Xin nêu một số vấn đề sau đây để minh chứng và cùng trao đổi.

Một là, đối với cổ đông phổ thông, quy định tại Điều 80 có hai vấn đề cần phải xem xét, sửa đổi:

- Khoản 1 Điều 80: “Thanh toán đủ số cổ phần đã cam kết mua trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Ở đây có sự nhầm lẫn, bởi lẽ chỉ riêng các cổ đông sáng lập là phải thanh toán đủ số cổ phần phổ thông đăng ký mua trong thời hạn nói trên mà thôi. Đối với các cổ đông khác, trên nguyên tắc họ phải thanh toán đủ một lần khi đăng ký mua, nhưng không nhất thiết phải trong thời hạn 90 ngày như nói trên. Mặt khác, Khoản 4 Điều 84 cho phép công ty có quyền rao bán cổ phần trong thời hạn ba năm sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nếu các cổ đông sáng lập không đăng ký mua hết số cổ phần được quyền chào bán.

- Điểm c Khoản 5 Điều 80: “Cổ đông phổ thông phải chịu trách nhiệm cá nhân khi nhân danh công ty... thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn trước nguy cơ tài chính có thể xảy ra đối với công ty”. Quy định này vô nghĩa và cần phải xem lại để nội dung quy định không xa lạ với thực tiễn tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nhân và các nhà đầu tư. Bởi vì, trong thực tiễn, làm thế nào để một cổ đông phổ thông lại có thể nhân danh công ty thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn của công ty nếu họ không phải là người có thẩm quyền trong cơ cấu quản lý CTCP đó? Thêm nữa, cổ đông phổ thông trong CTCP có thể là tổ chức kinh tế khác tham gia làm cổ đông sáng lập, chứ không hoàn toàn là chỉ có cá nhân tham gia. Nếu là một công ty thì trách nhiệm của nó không phải là trách nhiệm cá nhân được, mà thuộc về tổ chức kinh tế. Rõ ràng, khi đưa ra quy định như trên, các nhà làm luật chưa tiên lượng hết khả năng tham gia làm cổ đông sáng lập đối với CTCP, và quy định như trên thực sự trái với quy định “Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa”[1].

Hai là, vấn đề chuyển nhượng cổ phần phổ thông.

Điều 84, khoản 5 quy định: “Trong thời hạn ba năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của đại hội đồng cổ đông”.

Quy định này không rõ ràng, chồng chéo, có thể dẫn đến các giải thích sai lệch và gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh. Trên thực tế, quy định này chỉ liên quan đến số cổ phần phổ thông tối thiểu 20% trong tổng số cổ phần được quyền chào bán mà các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua khi đăng ký kinh doanh (quy định tại khoản 1 điều 84). Vì thế, chúng tôi kiến nghị sửa đổi vấn đề chuyển nhượng cổ phần phổ thông theo hướng nhất quán số cổ phần này không được tự do chuyển nhượng trong thời hạn ba năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Ngoài số cổ phần tối thiểu này, cổ phần phổ thông khác của cổ đông sáng lập được tự do chuyển nhượng như đối với các cổ đông khác.

Ba là, quyền sở hữu tổng số cổ phần.

Điều 86 khoản 4 quy định: “Cổ đông sở hữu từ 5% tổng số cổ phần trở lên phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày được tỷ lệ sở hữu đó”.

Vấn đề đặt ra là, mục đích của việc đăng ký này là gì? Phải chăng để Nhà nước kiểm soát công ty? Nếu thực sự như thế là quy định này đã vô hình trung vi phạm quyền tự chủ của doanh nghiệp được xác nhận tại khoản 1 của điều 8.

Từ việc luật quy định mỗi doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về tài sản và mọi hoạt động của doanh nghiệp mình, theo chúng tôi, nên bỏ khoản 4 quy định tại Điều 84 là phù hợp và góp phần tạo sự thông thoáng của luật, khi chính nó đã loại bỏ sự e ngại của các doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư.

Bốn là, mua, bán cổ phần, trái phiếu của CTCP và vấn đề thanh toán.

Điều 89 quy định: “Cổ phần, trái phiếu của CTCP có thể được mua bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác quy định tại Điều lệ công ty và phải được thanh toán đủ một lần”.

Thực tiễn cho thấy, các cổ đông sáng lập không góp đủ vốn điều lệ và phải rao bán cổ phần sau khi đăng ký kinh doanh là khá phổ biến và đây là một khó khăn trong việc bán các cổ phần, trái phiếu của công ty. Đại hội đồng thành lập chỉ có thể được triệu tập để thiết lập cơ cấu quản lý đầu tiên của công ty khi toàn bộ cổ phần của công ty đã được đăng ký mua. Đối với công ty có vốn điều lệ lớn, nếu buộc người mua cổ phần phải thanh toán đủ một lần khi đăng ký mua thì thời gian rao bán có thể kéo dài và việc triệu tập đại hội đồng thành lập sẽ bị đình trệ, gây thiệt hại cho cổ đông và công ty.

Tham chiếu Luật Kinh doanh của Liên bang Nga[2] và luật của các quốc gia khác, người mua cổ phần không bắt buộc phải thanh toán giá tiền ngay một lần, mà có thể trả trước 50%, số tiền còn lại sẽ thanh toán trong thời hạn quy định tại phiếu đăng ký mua; mọi việc thanh toán chậm trễ sẽ phải chịu lãi và người nào thanh toán không đúng hạn sẽ bắt buộc phải bồi thường thiệt hại cho công ty (nếu có). Như vậy, đại hội đồng sáng lập vẫn có thể được triệu tập ngay sau khi toàn bộ cổ phần của công ty đã được đăng ký mua, mặc dù chưa thanh toán đủ.

Từ kinh nghiệm đó, theo chúng tôi, không nên quy định “phải được thanh toán đủ một lần” như đã quy định trong Điều 86, mà nên chia việc thanh toán làm nhiều giai đoạn khác nhau, nếu việc thanh toán bị chậm trễ thì bắt buộc phải chịu lãi và người nào thanh toán không đúng hạn sẽ phải bồi thường thiệt hại cho công ty (nếu có). Làm như vậy “quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”[3], cũng như mọi hoạt động liên quan đến chế độ vốn và quản lý tài chính đối với loại hình CTCP sẽ thông thoáng để đạt hiệu quả cao.

Năm là,Luật Doanh nghiệp 2005 xác định vốn điều lệ trong CTCP còn khá sơ sài, thiếu chính xác, thiếu thực tế, gây khó khăn trong việc tổ chức quản lý doanh nghiệp.

Về mặt lý luận, người ta thừa nhận CTCP là loại hình công ty “mở”. Bởi vậy, vốn điều lệ của công ty cũng phải được xác định từ đầu và rõ ràng phải được ghi vào trong điều lệ của công ty. Nhưng có sự khác biệt giữa vốn điều lệ của CTCP và vốn điều lệ của công ty TNHH, nếu như vốn điều lệ của công ty TNHH là một con số “thực” thì vốn điều lệ trong CTCP khi mới thành lập công ty có phần nào đó mang tính “ảo”. Cụ thể, Điều 84 Luật Doanh nghiệp qui định: “Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Điều này có nghĩa là, nếu như vốn điều lệ của công ty là một tỷ đồng thì theo yêu cầu của Điều 84 Luật Doanh nghiệp, các cổ đông sáng lập chỉ cần góp hoặc cam kết góp 200 triệu đồng (giả định rằng, công ty chỉ phát hành cổ phần phổ thông) mà không phải là toàn bộ số vốn điều lệ. Như vậy, ta thấy có một khoảng cách giữa số vốn điều lệ của công ty và phần vốn mà các cổ đông sáng lập đăng ký mua. Phần vốn còn thiếu không phải là kết quả của một toan tính gian dối trong quá trình vi phạm pháp luật về đăng ký kinh doanh, mà nó trở thành một quyền đặc trưng của CTCP trong việc huy động vốn bằng hình thức bán cổ phần có quyền chào bán. Nói cách khác, các cổ đông sáng lập “kê khai” vốn của công ty là một tỷ đồng và đã được Nhà nước (cơ quan đăng ký kinh doanh) ghi nhận vào giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nhưng các cổ đông không thực hiện hết thì phần vốn còn thiếu cũng đã được nhìn nhận là một phần không tách rời của số vốn kê khai ở trên. Và việc huy động phần vốn còn “thiếu” kia là có thời hạn. Giới hạn luật định trong trường hợp này là ba năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau ba năm mà công ty không huy động đủ số vốn đã đăng ký thì công ty phải giảm vốn điều lệ tương ứng với phần vốn mà công ty thực tế huy động được.

Nhưng trong trường hợp, nếu chưa góp đủ số vốn cam kết mà công ty đã quyết định chuyển đổi sang các loại hình doanh nghiệp khác, thì có được chuyển đổi không? Nếu cho phép chuyển đổi thì vốn điều lệ của công ty chuyển đổi được xác định trên cơ sở nào và quyền của người thứ ba được pháp luật bảo vệ như thế nào? Câu trả lời này vẫn chưa được giải đáp cụ thể. Trong khi đó, khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 lại đưa ra khái niệm về vốn điều lệ khá sơ sài như sau: “Vốn điều lệ là số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty”. Có thể nói, khái niệm này làm cho việc xác định vốn điều lệ rất mơ hồ, khó có thể xác định được một cách chính xác. Mặt khác, trước khi Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp có hiệu lực và khoản 4 Điều 40 Nghị định này quy định: “Vốn điều lệ CTCP không bao gồm giá trị của số cổ phần được quyền chào bán”, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho CTCP vẫn xác định vốn điều lệ bằng 100% số cổ phần chào bán chứ không xem xét tỷ lệ số vốn thực tế các cổ đông mua là bao nhiêu. Thêm nữa, khi giải quyết tranh chấp về quyền biểu quyết, tòa án cũng chỉ quan tâm đến số cổ phần mà cổ đông sáng lập cam kết mua hoặc số cổ phần mà cổ đông đang sở hữu mà thôi. Điều này cho ta thấy ranh giới giữa phần vốn góp (đăng ký ban đầu) và số cổ phần đang sở hữu của các cổ đông sáng lập trong loại hình này không được quy định rõ ràng và chặt chẽ, từ đó dễ phát sinh mâu thuẫn trong nội bộ doanh nghiệp, gây nhiều cản trở khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Và trên thực tế, các mâu thuẫn này đã phát sinh khá nhiều.

Tóm lại, những thành tựu trong việc thực thi các quy định về loại hình CTCP trong Luật Doanh nghiệp 2005 đến nay đã chứng minh sứ mạng của CTCP. Và Luật Doanh nghiệp 2005 đã có các quy định rất khoa học, phù hợp với khả năng thích ứng và hội nhập nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Nhưng còn những quy định chưa phù hợp, đã được khẳng định nhiều lần trong thực tiễn, cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung, nhằm hoàn thiện khung pháp lý đối với loại hình doanh nghiệp này ở nước ta trong giai đoạn tới./.