Nghị quyết 49 của bộ chính trị về cải cách tư pháp

Tham dự tại điểm cầu trung tâm TANDTC có các thành viên Ban Cán sự đảng, Phó Chánh án TANDTC, thành viên Hội đồng Thẩm phán, lãnh đạo, Thẩm tra viên, Thư kí của các đơn vị thuộc TANDTC. Và hơn 12000 đại biểu thuộc Tòa án quân sự các cấp, TAND các cấp tại hơn 800 điểm cầu của cả nước.

Tại hội nghị, PGS-TS Nguyễn Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, Chánh án TANDTC giới thiệu về định hướng cải cách tư pháp ở Việt Nam, một số nội dung cải cách tư pháp, khẳng định cải cách tư pháp có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là bảo vệ quyền con người. 

Chánh án giới thiệu cụ thể về 5 vấn đề lớn: Sự cần thiết phải cải cách tư pháp; quan điểm mục tiêu cải cách tư pháp; nhiệm vụ và giải pháp; lộ trình thực hiện và các nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp. Trong đó, Chánh án đặc biệt quan tâm tới nội dung xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; vị trí, vai trò của Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Đảng và nhà nước ta đã có những nghị quyết rất sớm về cải cách tư pháp, Nghị quyết chính là Nghị quyết số 49-NQ/TW được đánh giá là thành công.

 Cải cách tư pháp giai đoạn 2005-2020

Những kết quả chủ yếu trong thực hiện chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn 2005-2020 có thể thấy là hoàn thiện thể chế, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động của cơ quan công quyền: Đã đưa vào các nguyên tắc tư pháp rất tiến bộ, lần đầu tiên được hiến định và dựa trên Hiến pháp ban hành trên 70 luật về tư pháp; Hoàn thiện tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ cơ quan Tư pháp; Xây dựng đội ngũ chức danh tư pháp; Hoàn thiện chế định bổ trợ tư pháp; Bảo đảm các điều kiện cho hoạt động của cơ quan tư pháp; Hợp tác quốc tế;  Giám sát của cơ quan dân cử và Nhân dân và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên nhiều nội dung của Nghị quyết số 49-NQ/TW vẫn chưa được thực hiện, chưa đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của thực tiễn, đơn cử như Toà án khu vực...

Cải cách tư pháp đang là xu thế phổ biến của thế giới, nếu không tiếp tục cải cách tư pháp thì sẽ trở nên lạc hậu, nhất là trong xu hướng hội nhập, phát triển khoa học như hiện nay. Bên cạnh đó còn nhiều nhiệm vụ trong Nghị quyết số 49-NQ/TW chưa được thực hiện, nhiều bất cập của nền tư pháp cần được tháo gỡ.

Cải cách tư pháp đáp ứng sự thay đổi của tình hình mới như: Tình hình vi phạm, tội phạm ngày càng gia tăng, phức tạp, nghiêm trọng hơn; trình độ dân trí ngày càng cao, đặt ra yêu cầu cao với tư pháp; nền kinh tế số, kinh tế chia sẻ đòi hỏi sự thay đổi trong tư pháp; phải đưa vào và áp dụng các nguyên tắc tư pháp tiến bộ của thế giới; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin tạo thuận lợi cho người dân, tăng cường minh bạch, nâng cao năng lực Tòa án; chuẩn bị các khung khổ pháp lý, đào tạo cán bộ tư pháp đáp ứng giải quyết các tranh chấp quốc tế.

Tổ chức và hoạt động của Toà án còn lạc hậu so với mặt bằng chung của thế giới, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu và mong muốn của người dân (chưa thuận tiện; tốn kém thời gian; chi phí xã hội còn cao ...); nhận thức về quyền tư pháp chưa đúng (về chủ thể, nội dung, đặc trưng của quyền tư pháp)....

Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tòa án cũng còn nhiều tồn tại: Chưa thực sự độc lập; tổ chức còn gắn với cấp hành chính; tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp chưa cao; Cơ chế nhân dân tham gia xét xử chưa thực chất; Cơ sở vật chất, chế độ chính sách, nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu...

Như vậy đặt ra sự tất yếu phải cải cách tư pháp, để học hỏi kinh nghiệm quốc tế, hoàn thiện thể chế.

Quan điểm, mục tiêu cải cách tư pháp

Quan điểm về cải cách tư pháp được đưa ra gồm 6 nội dung. Đó là tuân thủ nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực; do Đảng lãnh đạo; tăng cường quyền uy tư pháp; Dựa trên yêu cầu phát triển KT-XH; lấy Nhân dân làm trung tâm; tiến hành đồng bộ với cải cách lập pháp, hành pháp; Xác định cơ quan tư pháp là Tòa án, chỉ có Tòa án được Hiến pháp giao thực hiện quyền tư pháp; Tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc pháp quyền XHCN và các nguyên tắc tư pháp cơ bản; Kế thừa truyền thống, thành quả CCTP đã đạt được; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế; Tiến hành CCTP với quyết tâm chính trị cao, khẩn trương, đồng bộ; xác định rõ những nội dung trọng tâm, trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Mục tiêu chung đặt ra là xây dựng nền tư pháp độc lập, chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân để Tòa án hoàn thành sứ mệnh được Đảng và Nhân dân giao phó.

Mục tiêu cụ thể là xây dựng nền tư pháp độc lập, chuyên nghiệp, hiện đại, nghiêm minh. Tòa án có đủ thẩm quyền và năng lực để xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp, bảo đảm quyền tài phán quốc gia. Xây dựng nhân lực của Tòa án trong sạch, liêm chính, vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và nhân ái; Đổi mới và cơ cấu lại các chức danh tư pháp. Đổi mới tổ chức bộ máy, thực hiện đầy đủ chức năng, quyền hạn tư pháp; nâng cao chất lượng và uy tín để Tòa án thực sự là hiện thân của lẽ phải và công lý. Từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất của Tòa án, xây dựng Tòa án điện tử.

Nghị quyết 49 của bộ chính trị về cải cách tư pháp

Các đại biểu ở đầu cầu TANDTC

Nhiệm vụ và giải pháp từ nay đến năm 2030

Chánh án cho hay, có 9 giải pháp lớn.

Xây dựng nền tư pháp vì Nhân dân, bảo vệ quyền uy tư pháp

Xây dựng cơ quan tư pháp vì Nhân dân, bảo vệ quyền uy tư pháp: Tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử; bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; nâng cao niềm tin của người dân đối với hệ thống tư pháp. Tuân thủ nghiêm ngặt thời hạn bảo công lý không bị trì hoãn, kịp thời bảo vệ quyền lợi của Nhân dân

Tăng cường hòa giải, đối thoại để giải quyết tranh chấp trong Nhân dân một cách thân thiện; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để tạo thuận lợi cho Nhân dân trong tiếp cận công lý; Thực hiện công khai tư pháp một cách thực chất để Nhân dân tiếp cận thông tin tư pháp đầy đủ, nhanh chóng và kiểm soát hoạt động tư pháp; Cung cấp ngày càng nhiều các dịch vụ tư pháp công để phục vụ Nhân dân.

Nâng cao hiệu quả của cơ chế Nhân dân tham gia xét xử: Cần phải xây dựng một đạo luật độc lập về Hội thẩm nhân dân: Đổi mới tiêu chuẩn; mở rộng cơ cấu, thành phần, đối tượng tham gia; Hoàn thiện quy định về nhiệm kỳ, tuyển chọn, bầu, miễn nhiệm, chính sách...; cơ chế quản lý.

Thay đổi số lượng Hội thẩm trong HĐXX; Có cơ chế xử lý xung đột về quan điểm giữa Thẩm phán và Hội thẩm

Thay đổi nhiệm vụ, thẩm quyền của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử; Áp dụng quy tắc lựa chọn ngẫu nhiên; Tăng cường Hội thẩm có chuyên môn sâu trong các vụ án chuyên biệt.

Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm; Nghiên cứu, bổ sung chế định Hội thẩm đoàn trong xét xử sơ thẩm án hình sự.

Tăng cuờng sự giám sát của dân và các cơ quan dân cử: Nâng cao hiệu quả, đổi mới cơ chế Nhân dân tham gia xét xử để giám sát trực tiếp và thực chất từ bên trong hoạt động của Tòa án. Xây dựng cơ chế để Nhân dân góp ý và tiếp nhận ý kiến phản ánh của Nhân dân.

Đổi mới việc chất vấn, trả lời chất vấn, báo cáo hoạt động của Tòa án trước cơ quan dân cử để đảm bảo độc lập tư pháp. Tăng cường giám sát theo chuyên đề, giám sát đột xuất của cơ quan dân cử đối với Tòa án. Công khai kết quả giám sát để cử tri biết. Quy phạm hóa hoạt động giám sát tư pháp. Quy định cụ thể sự tham gia của truyền thông tại các phiên tòa và đưa tin về các vụ án đang trong quá trình tố tụng.

 Xác định nội hàm, đặc trưng, chủ thể thực hiện quyền tư pháp

Nội hàm của quyền tư pháp: Quyền xét xử, phán xét đối với các tranh chấp xã hội; Quyền quyết định đến quyền con người, quyền công dân; Quyền quyết định tính hợp hiến, hợp pháp các các văn bản quy phạm.

Đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp ở Việt Nam: Tính độc lập trong cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước do Đảng lãnh đạo; Được thực hiện theo một quy trình tố tụng nghiêm ngặt; Có hiệu lực bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành; Được bảo đảm thi hành bằng quyền lực nhà nước trong phạm vi toàn quốc bởi cơ quan thi hành án chuyên trách; Phán quyết tư pháp không bị thay đổi tùy tiện trừ khi bị chính Tòn án thay đổi, hủy bỏ theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục luật định; Phán quyết tư pháp khi đã tuần thủ đầy đã quy trình tố tụng nhưng có sai sót (không phải do lỗi chủ quan) thì được miễn trừ trách nhiệm.

Chủ thể thực hiện quyền tư pháp: Chỉ có Toà án là cơ quan tư pháp

Hoàn thiện nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy CQTP

Hoàn thiện, đổi mới nhiệm thẩm quyền của Tòa án: Hoàn thiện nhiệm vụ của từng cấp xét xử; Bỏ thủ tục xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC; Hoàn thiện thẩm quyền, thủ tục giải quyết yêu cầu liên quan đến quyền con người.

Đổi mới tổ chức bộ máy của Tòa án: Bổ sung thẩm quyền: giải thích pháp luật thông qua xét xử; tuyên bố văn bản QPPL trái với Hiến pháp, Luật; xử phạt vi phạm hành chính; quyết định việc hạn chế các quyền con người của đương sự trong tố tụng. Đổi mới nhiệm vụ ban hành án lệ; tăng cường bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật. Bỏ một số nhiệm vụ của Tòa án (vốn thuộc chức năng của cơ quan công tố), như khởi tố vụ án hình sự tại phiên tòa, trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự là của bên buộc tội và gỡ tội, không phải của Tòa án; và trong vụ án dân sự, hành chính là của các đương sự nên cần hạn chế trách nhiệm của Tòa án trong thu thập chứng cứ. Nghiên cứu chế định bảo vệ Hiến pháp bằng Tòa án.

-Đổi mới cơ chế quản trị nội bộ Tòa án: Nghiên cứu hình thành cơ quan hành chính chuyên trách tại Tòa án để thực hiện các nhiệm vụ không liên quan đến xét xử (VD: hành chính tư pháp, quản lý cán bộ, quản lý cơ sở vật chất, tiền lương...). Nghiên cứu thành lập Hội đồng Tư pháp Quốc gia do Chủ tịch nước làm Chủ tịch Hội đồng; Chánh án TANDTC làm Phó Chủ tịch và các thành viên do các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp giới thiệu.

Đổi mới hoạt động của cơ quan tư pháp

Xây dựng chế định tố tụng lấy xét xử là trung tâm: Phân định một cách khoa học về địa vị pháp lý, vai trò của Tòa án và các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng; Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng thành viên HDXX; Hoàn thiện thủ tục tranh tụng, bảo đảm công bằng, bình đẳng; Hoàn thiện chế định chứng cứ, chứng minh: nghĩa vụ thu thập, trách nhiệm giải trình về chứng cứ tại phiên tòa, quy tắc chứng minh, thủ tục loại trừ chứng cứ...; Hoàn thiện cơ chế tố tụng bảo vệ quyền con người.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế hòa giải, đối thoại theo hướng tách biệt với hoạt động tố tụng; tạo thuận lợi và khuyến khích chuyển vụ án từ thủ tục tố tụng sang giải quyết bằng hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Nâng cao hiệu quả của thủ tục tố tụng đảm bảo khả thi, thống nhất, phù hợp. Tư pháp tùy nghi là tư pháp không nghiêm.

Hoàn thiện cơ chế phân quyền nội bộ: Cải cách quy định về thụ lý vụ án, phân án ngẫu nhiên; Ban hành quy định về điều kiện, thủ tục phân án vượt cấp; Cải cách cơ chế hoạt động của Hội đồng Thẩm phán TANDTC

Kiện toàn cơ chế thực thi quyền xét xử độc lập và nâng cao chất lượng xét xử: Xây dựng cơ chế phòng ngừa, xử lý việc can thiệp hoạt động xét xử (VD: lưu hồ sơ mọi văn bản can thiệp; quy định trách nhiệm tổ chức xét xử của Chánh án, Chánh tòa...)

Hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền uy tư pháp: Những vụ án bị hủy, sửa đang trong quá trình tố tụng thì không thanh tra, kiểm tra, báo cáo trước cơ quan dân cử. Không xử lý trách nhiệm Thẩm phán nếu đã tuân thủ đầy đủ quy trình tố tụng hoặc không vi phạm do lỗi chủ quan. Hoàn thiện cơ chế giám sát liêm chính tư pháp theo hướng: Có chế độ xử lý trách nhiệm đối với sai phạm; Quy định rõ quan hệ giữa Thẩm phán và người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng, đặc biệt là Luật sư; Nghiên cứu xây dựng Luật Thẩm phán. Xây dựng cơ chế xử lý hành vi xâm phạm, cản trở tố tụng (tố tụng giả, tố tụng ác ý, đeo bám tố tụng...); truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi không thi hành bản án, coi thường quyền uy tư pháp. Xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng bản án và các văn bản tố tụng của Tòa án. Quy phạm hóa thủ tục xử lý tài sản trong các vụ án. Hoàn thiện chế độ ghi âm, ghi hình phiên tòa, số hóa hồ sơ vụ án.

Xây dựng chế độ xét xử công khai, minh bạch: Tổ chức bộ phận hành chính tư pháp tại các Tòa án; thực hiện Quy chế một cửa liên thông. Công khai 07 nội dung trên Công thông tin điện tử: Hệ thống pháp luật, Nghị quyết HĐTP, án lệ, giải đáp pháp luật; Việc phân công cán bộ thụ lý; Tiến độ thụ lý và giải quyết; Quá trình xét xử tại phiên tòa; Kết quả xét xử; Quá trình thi hành án và kết quả THA; Quá trình và kết quả xét miễn, giảm án. Tăng cường trao đổi nghiệp vụ bằng phương thức trực tuyến.

Nâng cao chất lượng nhân lực của Tòa án đảm bảo số lượng cần thiết tối thiểu, có cơ cấu các chức danh tư pháp hợp lý, chế độ chính sách đặc thù

Nâng cao chất lượng nhân lực của Tòa án chuyên nghiệp và trí tuệ; bản lĩnh và nhân ái; tận tụy và công tâm: Đổi mới cơ cấu chức danh tư pháp: Đổi mới cơ cấu ngạch, bậc Thẩm phán, gồm: Thẩm phán tối cao, Thẩm phán và Thẩm phản dự bị, Thẩm phán các ngạch, bậc được bố trí ở tất cả Tòa án. Tiếp tục hoàn thiện chế định Thẩm phán: Thực hiện chế độ trách nhiệm tư pháp trọn đời; Nâng tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán; Nâng cao đạo đức Thẩm phán; Tách cấp bậc Thẩm phán và cấp bậc hành chính; Hoàn thiện cơ chế xử lý vi phạm, giám sát Thẩm phán; Cải cách chế độ hoạt động của Ủy ban Thẩm phán; Có cơ chế kiểm soát bắt buộc đối với một số loại án cụ thể.

Đổi mới và tăng cường công tác tuyển chọn, bổ nhiệm: Mở rộng nguồn bổ nhiệm; mở rộng nhiệm kỳ. Đổi mới và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng: Chú trọng đào tạo Thẩm phán chuyên sâu về sở hữu trí tuệ, phá sản, môi trường, kỹ năng điều hành tranh tụng, trình độ ngoại ngữ...

Đảm bảo số lượng biên chế và có cơ cấu hợp lý: Đảm bảo số lượng biên chế và có cơ cấu hợp lý: Căn cứ phân bổ chức danh tư pháp: (1) vi trí làm; (2) quy mô dân số, diện tích tự nhiên; (3) quy mô phát triển kinh tế - xã hội; (4) tình hình tranh chấp, vi phạm và tội phạm; (5) chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Đảm bảo chế độ chính sách phù hợp: Chế độ lương, chính sách đãi ngộ; Xây dựng cơ chế bảo vệ Thẩm phán.

 Tăng cường cơ sở vật chất, bảo đảm nguồn lực

Hoàn thiện thể chế: Xây dựng các quy định chế độ, chính sách đặc thù đối với Tòa án.

Tăng cường cơ sở vật chất của hệ thống Tòa án theo hướng đồng bộ, hiện đại, xứng dáng với vị thế của cơ quan tư pháp. Xây dựng hệ thống tài chính chuyên biệt, bảo đảm nguồn lực tài chính đáp ứng yêu cầu công tác của Tòa án.

 Xây dựng Tòa án điện tử

Nhằm nâng cao năng lực quản trị Tòa án trên nền tảng số: Quản lý, theo dõi các hoạt động tố tụng và cập nhật thông tin về tiến độ giải quyết án theo thời gian thực; Quản lý nhân sự, đánh giá cán bộ gắn với việc thực hiện nhiệm vụ được giao nhanh chóng.

Quản lý và lưu trữ hồ sơ, tài liệu trên cơ sở dữ liệu tập trung cho phép khai thác hiệu quả nguồn thông tin; Phục vụ công tác thống kê, quản lý điều hành hệ thống tòa án tức thời, giảm thời gian xử lý thông tin. Hỗ trợ hoạt động quản lý, triển khai công tác nhanh chóng, tiết kiệm, hiệu quả

Nhằm cung cấp các dịch vụ tư pháp công để phục vụ người dân tốt hơn: Gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ; cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng qua giao thức điện tử; Đăng ký trực tuyến cấp sao bản án, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Nộp án phí, lệ phí, tiền phạt trực tuyến; Cung cấp bản án đã được Tòa án xét xử để người dân tham khảo, áp dụng cho tình huống tương tự; Dịch vụ tư vấn pháp lý, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và máy tính để dần thay thế hoạt động của con người.

Nhằm hỗ trợ Thẩm phán nâng cao hiệu quả: Giới thiệu hệ thống pháp luật có liên quan đến vấn đề đang cần giải quyết; Cung cấp các tình huống pháp lý tương tự đã được HĐTP TANDTC giải đáp. Đưa ra các án lệ có liên quan; Cung cấp các bản án về tính huống tương tự đã được các Tòa án khác giải quyết. Hỗ trợ phát hiện các sai sót trong bản án, quyết định của Tòa án trong phân tích, kiểm tra các chứng cứ, phát hiện các yêu cầu tố tụng bị bỏ sót, các lỗi kỹ thuật về áp dụng pháp luật...

Nhằm triển khai các hoạt động tố tụng trực tuyến: Thực hiện Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về tổ chức phiên tòa trực tuyến. Cho phép người dân thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong tố tụng qua giao thức trực tuyến. Triển khai hệ thống công nghệ và các ứng dụng chuyên ngành để tiến tới thực hiện toàn bộ các hoạt động tố tụng bằng phương thức trực tuyến. 

Nhằm góp phần tăng tính công khai, minh bạch trong hoạt động Tòa án: Công khai hệ thống quy phạm pháp luật, án lệ, giải đáp pháp luật; Công khai quá trình xét xử tại phiên tòa; Công khai kết quả xét xử và thi hành án

Nhằm kết nối với các nền tảng số khác: Cổng thông tin điện tử quốc gia; Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; Cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thống kê; Cơ sở dữ liệu của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Tăng cường hợp tác quốc tế

Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm kiện toàn hệ thống pháp luật về hợp tác quốc tế; Đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu hội nhập; Tăng cường trao đổi, tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực tư pháp; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong xây dựng Tòa án điện tử; Nâng cao vai trò của Tòa án trong việc thực hiện các Điều ước quốc tế.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

Mô hình tổ chức đảng:

Đảng bộ TANDTC, cơ cấu tổ chức gồm: TANDTC +TAND Cấp cao + TAND sơ thẩm chuyên biệt; Ban cán sự đảng TANDTC chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị

Đảng bộ TAND phúc thẩm, cơ cấu tổ chức gồm: TAND phúc thẩm + TAND sơ thẩm khu vực trên địa bàn; Đảng bộ TAND phúc thẩm trực thuộc Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Nhân sự của các cấp ủy đảng

Quan điểm: Bố trí Chánh án các cấp tham gia cấp ủy cùng cấp với cương vị cao hơn hiện tại, phù hợp với địa bàn. Chánh án TANDTC là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư.

Chánh án TAND cấp cao là ủy viên BCH Đảng bộ TANDTC

Chánh án TAND phúc thẩm là Ủy viên Ban thường vụ Đảng ủy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đối với những nơi có quy mô dân số đông, trung tâm phát triển kinh tế-xã hội, văn hóa của đất nước; các trường hợp còn lại là Ủy viên BCH Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc TW

Chánh án TAND sơ thẩm và TAND chuyên biệt là ủy viên BCH Đảng bộ TAND phúc thẩm.

Lộ trình từ nay đến năm 2030, tiến hành hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật về tư pháp, tổ chức Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; Hoàn thiện nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp; Đổi mới nhiệm vụ ban hành án lệ, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; Xây dựng chế độ xét xử công khai, minh bạch; Nâng cao chất lượng nhân lực, đặc biệt là Thẩm phán; đảm bảo số lượng cần thiết tối thiểu, cơ cấu phù hợp; Đảm bảo cơ sở vật chất, nguồn lực để xây dựng Tòa án hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Xây dựng Tòa án điện tử, bước dầu hình thành phương thức tố tụng điện tử; Tăng cường hợp tác quốc tế.

Buổi chiều cùng ngày, Hội đồng Thẩm phán TANDTC tiến hành đối thoại, trao đổi, giải đáp những vướng mắc, khó khăn trong trong công tác xét xử với hơn 40 vấn đề về hình sự, dân sự, hành chính…

Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình phát biểu tại Hội nghị