Thành tựu văn minh hy lạp cổ đại năm 2024

Văn minh Hy Lạp- La Mã cổ đại tiếp thu các thành tựu của văn minh phương Đông như chữ viết, văn học, tín ngưỡng, tôn giáo, kiến trúc, điêu khắc.

II. Thành tựu văn minh tiêu biểu:

Lĩnh vực

Thành tựu

Chữ viết

- Người Hy lạp: tạo nên hệ thống 24 chữ cái vào khoảng cuối thế kỉ IV TCN

- Người La Mã tạo thành chữ La-tinh, gồm 20 chữ cái. Chữ số La Mã

Văn học

Phong phú gồm nhiều thể loại: thần thoại, thơ ca và văn xuôi (sử thi I-li-át và Ô-đi-xê, ngụ ngôn Ê-dốp), kịch.

Nghệ thuật

- Nhiều công trình kiến trúc như nhà hát, sân vận động, đấu trường…. (Đền Pác-tê-nông, đền thờ thần Dớt, đấu trường Cô-li-dê, Khải hoàn môn Công-xtan-ti-nút,…)

- Điêu khắc hình thể con người. (tượng thần Vệ nữ thành Mi-lô, tượng Lực sĩ ném đĩa, tượng thần Dớt…)

Chữ viết của cư dân Cret – Myxen : Cư dân Cret – Myen đã sáng tạo ra chữ viết, gồm có hai loại. Loại 1 : có niên đại khoảng đầu thiên niên kỷ II TCN, là loại chữ tượng hình thuần túy ; Loại 2 : có dạng thức đơn giản hơn, được cấu tạo bởi một số đường nét khá đều đặn, thống nhất về kiểu thức, nó lại chia ra làm hai loại, trong đó loại A – cổ xưa hơn (1700 – 1400 TCN), chưa dịch được, B – muộn hơn (1400 – 1200 TCN), đã dịch được[1]. Tuy vậy đó là hai thứ chữ không được tiếp tục phát triển.

  • Chữ cái Hi Lạp : Qua quan hệ buôn bán (thế kỷ IX – VIII TCN), họ kế thừa và phát triển từ chữ viết của người Phênixi (Phoenician), một tộc người chuyên về buôn bán đường biển trên Địa Trung Hải. Bảng chữ cái của người Hi Lạp ban đầu có 40 chữ cái, rồi có 24 chữ cái (18 phụ âm, và 6 nguyên âm). Ưu điểm : Tính khái quát hóa cao, với cách ghép linh hoạt, có thể thể hiện mọi kết quả của tư duy. Hệ thống chữ cái Slavơ và Latinh bắt nguồn từ đó, được phần lớn các dân tộc trên thế giới sử dụng

Văn học :

Thần thoại Hi Lạp :

  • Thuật ngữ thần thoại – Mitologia (tiếng Nga), Mythology (tiếng Anh) , Mythologie (tiếng Pháp) xuất phát từ chữ Hi Lạp Mythologos (Mythos : truyền thuyết ; logos : lời nói, truyện kể, học thuyết).
  • Thần thoại Hi Lạp là thể loại văn học ra đời sớm, hình thành chủ yếu trong thời kỳ tan rã của xã hội thị tộc, bộ lạc (thế kỷ XI - IX) và phát triển thành một hệ thống hoàn chỉnh vào thế kỷ VIII TCN – VII TCN.

Thần thoại ra đời trong điều kiện trình độ phát triển của xã hội còn thấp và được thể hiện dưới hình thức truyền thuyết, những câu chuyện hoang đường về giới tự

nhiên, xã hội và con người, song thể phản ánh quá trình nhận thức của con người về thế giới xung quanh, gắn với thực tiễn.

Thần thoại Hi Lạp, cùng với anh hùng ca, thể hiện thời kỳ lịch sử quan trọng của Hi Lạp : chuyển tiếp từ xã hội nguyên thủy sang xã hội có giai cấp và nhà nước. Giữa thần thoại và anh hùng ca vừa đan xen, vừa nối tiếp, trong đó thần thoại là khúc dạo đầu, thể hiện tiến trình lịch sử đầu tiên ấy.

  • Thế giới các thần : đông đảo, với nhiều thế hệ, nhiều mối quan hệ phức tạp. Dưới đây chỉ là các vị thần linh tiêu biểu cho hệ thống thần linh đông đảo ấy

Ban đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn mang Kaốt (Chaos), từ đó sinh ra thần đất mẹ Gaia. Thần Gaia sinh thần bầu trời Uranos. Rồi Gaia và Uranos kết hôn, sinh ra 12 thần khổng lồ Tităng (Titan), gồm 6 nam thần và 6 nữ thần. Đây là thế hệ « các thần già ». Trong các thần đó, thần Cronos đã lật đổ cha mình – Uranos để chiếm ngôi vi chúa tể. Các thần Tităng kết hôn với nhau theo cặp, sinh ra nhiều con.

Các thần con của Tităng gọi là thế hệ « các thần trẻ ». Một trong số đó, thần Dớt (Zeus), con trai của Crônốt (Cronos), đã lãnh đạo các thần trẻ đánh bại « các thần già » và cai trị thế giới, ngự trên đỉnh Ôlympơ (Olympe, một ngọn núi ở Bắc Hi Lạp, phân biệt với thành phố Olimpia, nơi tổ chức thế vận hội Olimpic, nằm trên bán đảo Pêlôpône). Trong thế giới thần linh đông đúc ấy có 12 thần tiêu biểu do Dớt đứng đầu (Một số vị thần già tham gia phe Dớt cũng tiếp tục cai quản thế giới, như thần Mặt trời Hêliốt)

Thần Dớt (Zeus) : thần tối cao, « cha của các thần » và của con người và thần sấm sét

Thần Đêmêtê : chị ruột Dớt, nữ thần nông nghiệp, tạo ra sự phì nhiêu

Thần Hađét : anh ruột Dớt, thần cai quản thế giới âm phủ

Thần thoại Hi Lạp có nét đặc trưng : hình ảnh, cuộc sống, những đặc điểm vê tâm lý, tính cách gần gũi với con người. Đó là sự « thần thánh hóa » con người, hội tụ những nét đẹp của con người (dũng cảm, hảo hiệp, vì nghĩa lớn, yêu chân lý và cái đẹp) cũng như những khiếm khuyết của con người (sự độc ác, tính tị hiềm, ghen tuông,...).

Nhà thơ Hê-đi-ốt, sống khoảng cuối thế kỷ VIII, đầu thế kỷ VII TCN đã viết « Gia phả các thần », phân rõ ba triều đại thần linh, sắp xếp nên một hệ thống thần linh hoàn chỉnh.

Thơ ca :

Sử thi : Iliad và Odysse

Iliát (Iliad) : 15 câu thơ, chia ra 24 khúc ca, kể về 49 ngày cuối cùng trong năm thứ 10 của cuộc chiến tranh thành Tơroa (Troy)[2], cũng gọi là thành Iliông (Ilion), một thành bang ven bờ Tiểu Á, giữa các thành bang Hi Lạp do Agamemnông (Agamemnon, vua của Myxen - Mycenae) thống lĩnh. Nội dung chính là mối bất hòa giữa Asin (Achillse), vị tướng giỏi nhất của quân Hi Lạp và Agamemnông vì nàng Brêdêit (Brideis). Cuối cùng Asin chết trong chiến trận, kết thúc với lễ hỏa táng của Hector, hoàng tử và là tướng chỉ huy của Tơroa.

Ôđixê (Odyssey) : 12 câu thơ, gồm 24 khúc ca, kể về cuộc hành trình kéo dài 10 năm của Uylixơ (Uylisses, tức Odysseus), người đã nghĩ ra mưu kế « Con ngựa thành Tơroa », sau chiến tranh Tơroa, trải qua sóng gió mới trở về quê hương Itác (Ithaca) bên người vợ chung thủy Pêlênốp và con trai. Hai vợ chồng nhận ra nhau qua chi tiết chiếc giường trong phòng ngủ có một chân vốn là một gốc cây được đẽo nên không di chuyển được.

Hai bộ sử thi đồ sộ này vừa là những kiệt tác văn học, vừa phản ánh một thời kỳ lịch sử của người Hi Lạp, tức thời kỳ tan rã của xã hội nguyên thủy Hi Lạp – Thời đại Hôme (thế kỷ XI – IX TCN), tương truyền do thi sĩ Hôme, người thi sĩ bị mù chuyên đi kể chuyện tại các thành phố. Hai bộ sử thi ấy còn thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa thần thoại và tính chất anh hùng ca trong thần thoại và sử thi Hi

Lạp. Đây là niềm tự hào của nền văn minh Hi Lạp và là tác phẩm phổ biến nhất trong di sản văn học Hi Lạp.

Thơ trữ tình :

Nhà thơ xác thực đầu tiên là Hêđiốt, khoảng nửa sau thế kỷ VIII TCN, đầu thế kỷ VII TCN, tác giả của « Nguồn gốc các vị thần » và « Lao động và ngày tháng ». “Nguồn gốc các vị thần” là văn bản viết đầu tiên về thế giới thần thoại Hi Lạp, hệ thống hóa những câu chuyện kể dân gian và do đó đôi khi có những khác biệt so với truyền thuyết, sử thi (ví dụ: về nguồn gốc của nữ thần tình yêu Aphrôđit, theo Hôme là do thần Dớt sinh ra, nhưng theo ông là do bọt biển sinh ra)

Các thi sĩ khác : Thế kỷ VII – VI TCN xuất hiện nhiều nhà thơ, tiêu biểu như Ackhilốc (Archiloque), Ankây (Alcaeus), Saphô (Sappho)...

Nữ thi sĩ Sa phô (Sappho), được người Hi Lạp xưng tụng là nàng thơ thứ 10 của thơ ca Hi Lạp (theo quan niệm của người Hi Lạp, có 9 nàng tiên bảo trợ cho hoạt động thi ca). Bà để lại 9 tập thơ, thể hiện sâu sắc và tinh tế những sắc thái tình cảm sâu sắc của con người.

Kịch thơ : Bi kịch và hài kịch

Kịch thơ là một trong thể loại văn học rất phát triển ở Hi Lạp cổ đại, vừa là một loại hình nghệ thuật sân khấu, một đóng góp lớn vào kho tàng văn hóa nhân loại.

Chính kịch ra đời bắt nguồn từ các hoạt động ca hát, kể chuyện trong lễ hội tôn vinh thần rượu nho Dionisos, nhất là khoảng thế kỷ VI TCN, được trình diễn lần đầu tiên năm 534 TCN. Thế kỷ VI – V TCN là thời kỳ hoàng kim của kịch cổ điển Hi Lạp. Các chủ nô tài trợ nhiều cho hoạt động sáng tác và trình diễn, chẳng hạn như tổ chức thi và trao giải hàng năm.