Ý kiến nào sau đáy sai khi nổi về phong cách sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng

Ý kiến nào sau đáy sai khi nổi về phong cách sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng

Chào em, em tham khảo nhé:

Vài nét về tác giả Thanh Tịnh

Tiểu sử

- Thanh Tịnh (1911 – 1988) tên khai sinh là Trần Văn Ninh, quê ở xóm Gia Lạc, ven sông Hương, ngoại ô thành phố Huế.

- Từ năm 1933, ông đi làm ở các sở tư rồi vào nghề dạy học và bắt đầu viết văn, làm thơ.

Sự nghiệp văn học

Tác phẩm chính

- Tác phẩm chính: Hận chiến trường (tập thơ, 1937), Quê mẹ (tập truyện ngắn, 1941), Ngậm ngải tìm trầm (tập truyện ngắn, 1943)…

Phong cách nghệ thuật

- Sáng tác của ông đều toát lên vẻ đẹp đằm thắm, êm dịu, trong trẻo.

Giải thưởng

- Ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007.

Vài nét về tác giả Nguyên Hồng

Tiểu sử

- Nguyên Hồng (1918 – 1982). Tên khai sinh của ông là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố Nam Định. Nguyên Hồng sống chủ yếu ở thành phố cảng Hải Phòng, trong một xóm lao động nghèo.

- Ông có tuổi thơ thiếu thốn tình cảm và vật chất, sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh bất hạnh. Ông mồ côi cha từ nhỏ, phải sống với những người cô ruột cay nghiệt. Ngay từ khi còn bé, Nguyên Hồng đã phải lưu lạc, bôn ba cùng mẹ đi khắp nơi để bán hàng kiếm sống.

Sự nghiệp văn học

Tác phẩm chính

- Ông viết nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, thơ.

- Các tác phẩm chính: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938); Những ngày thơ ấu (hồi kí, 1938); Trời xanh (tập thơ, 1960); Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976); Núi rừng Yên Thế (bộ tiểu thuyết lịch sử nhiều tập chưa viết xong); Bước đường viết văn (hồi kí, 1970).
- Trong những tác phẩm của Nguyên Hồng, hình ảnh người phụ nữ và trẻ em trong xã hội cũ được nhà văn dành nhiều niềm yêu thương, đồng cảm.

- Văn bản Trong lòng mẹ được trích từ tập hồi kí Những ngày thơ ấu. Đây được coi là những dòng hồi ức sinh động, chân thực đầy cay đắng về tuổi thơ không êm đềm của nhà văn.

Phong cách nghệ thuật

- Đối tượng sáng tác: những con người nhỏ bé, những lớp người dưới đáy của xã hội thành thị. Ông xứng đáng được coi là nhà văn chân chính của những người khốn khổ. Một tình cảm nhân đạo thiết tha đối với quần chúng lao động nghèo thấm đượm trong toàn bộ sáng tác của nhà văn.

- Được mệnh danh là nhà văn của những người cùng khổ với biệt hiệu “Nhà văn của phụ nữ và trẻ em”.

- Là nhà văn của niềm tin và ánh sáng, luôn đi tìm vẻ đẹp của con người trong khổ đau, khám phá chất thơ của đời sống cần lao.

- Giọng điệu trữ tình vừa bồng bột thiết tha, vừa sôi nổi mãnh liệt.

Giải thưởng

- Với những đóng góp của Nguyên Hồng dành cho nền văn học dân tộc, ông được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.

Vài nét về tác giả Ngô Tất Tố

Tiểu sử

- Ngô Tất Tố (1893 – 1954), quê ở làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, ngoại thành Hà Nội).

- Ông xuất thân là một nhà nho gốc nông dân, là một học giả với nhiều công trình triết học và văn học cổ có giá trị; một nhà báo nổi tiếng với nhiều bài mang khuynh hướng dân chủ tiến bộ và giàu tính chiến đấu; một nhà văn hiện thực xuất sắc chuyên viết về nông thôn trước cách mạng.

- Sau cách mạng nhà văn tận tuỵ trong công tác tuyên truyền văn nghệ phục vụ kháng chiến chống Pháp, ông đã hy sinh trên đường công tác ở sau lưng địch.

Sự nghiệp văn học

Tác phẩm chính

Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị thuộc nhiều thể loại tiêu biểu như:

- Các tiểu thuyết: Tắt đèn (1939), Lều chõng (1940) ...

- Các phóng sự: Tập án cái đình (1939); Việc làng (1940) ...

=> Trong đó, Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố.

Phong cách nghệ thuật

- Là nhà văn hiện thực xuất sắc chuyên viết về đề tài nông dân và nông thôn trước Cách mạng. Ông được mệnh danh là nhà văn của nông thôn, của người nông dân lao động Việt Nam.

- Ngòi bút hướng tới khám phá và phát hiện ở nhân dân lao động những đức tính tốt đẹp.

Giải thưởng

Với những đóng góp lớn lao của bản thân cho nền văn học nghệ thuật nước nhà, Ngô Tất Tố đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nghệ thuật đợt 1 năm 1996.

Vài nét cơ bản về tác giả Nam Cao

Tiểu sử 

- Nam Cao (1915/1917 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, đông con ở phủ Lý Nhân, Hà Nam.

- Thuở nhỏ ông học ở trường làng, sau đó được gửi xuống Nam Định học.

- Sau đó do thể chất yếu nên ông về nhà chữa bệnh rồi cưới vợ.

- Năm 18 tuổi ông vào Sài Gòn nhận làm thư kí cho một hiệu may.

- Khi trở ra Bắc ông dạy học tại Hà Nội.

- Năm 1943 ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.

- Năm 1945 ông tham gia cướp chính quyền ở Lý Nhân và được cử làm chủ tịch xã.

- Năm 1946 ông gia Hà Nội hoạt động Hội Văn hóa cứu quốc

- Năm 1948 ông gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam.

- Năm 1950 ông làm việc cho Hội Văn nghệ Việt Nam, tại tạp chí văn nghệ.

=> Cuộc đời Nam Cao mang nhiều nét tiêu biểu cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản nghèo trong xã hội cũ đổi đời trong chế độ mới nhờ ánh sáng Cách mạng.

Sự nghiệp văn học

Quan điểm sáng tác

- Ông theo quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh”: “Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”.

- Ông quan niệm: Tác phẩm "phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công bằng” và "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có”.

Tác phẩm chính

   Ông để lại khối lượng tác phẩm lớn với nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, truyện ký như các tác phẩm: “Sống mòn”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “Giăng sáng”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “Đôi mắt”, ...

Phong cách nghệ thuật

- Đề cao con người tư tưởng: Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá "con người trong con người".

- Đi sâu khám phá nội tâm nhân vật.

- Thường viết về những cái nhỏ nhặt nhưng lại mang ý nghĩa triết lý sâu sắc.

- Ông có phong cách triết lý trữ tình sắc lạnh.

Vị trí và tầm ảnh hưởng

- Là nhà văn lớn, một cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại.

- Là nhà văn hiện thực nhân đạo xuất sắc của thế kỉ XX. Nam Cao đã đưa chủ nghĩa hiện thực lên một bước đột phá: chủ nghĩa hiện thực tâm lí.

- Ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 1996.

Vài nét về tác giả An-đéc-xen

Tiểu sử

- An-đéc-xen (1805 – 1875) là nhà văn Đan Mạch.

- Ông sớm mồ côi cha và phải tự bươn chải kiếm sống. Tuổi thơ ông sớm phải làm nhiều nghề như dệt vải, thợ may, công nhân sau đó làm diễn viên và sau này chuyển sang viết văn. Có lẽ những gì mà ông trải qua trong thời niên thiếu đã trở thành nguồn cảm hứng cho những sáng tác sau này của ông.

- Đời sống tình duyên gặp nhiều trắc trở và đau khổ khi không được đáp trả tình cảm. Nhiều ý kiến cho rằng ông là người đồng tính luyến ái.

Sự nghiệp văn học

- Ông là nhà văn vĩ đại của Đan Mạch thế kỉ XIX, là danh nhân văn hóa thế giới.

- Nổi tiếng với loại truyện kể cho trẻ em.

- Nhiều truyện ông biên soạn lại từ truyện cổ tích, nhưng cũng có những truyện do ông hoàn toàn sáng tạo ra.

Tác phẩm chính: Cô bé bán diêm, Bầy chim thiên nga, Nàng tiên cá, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Nàng công chúa và hạt đậu…

Phong cách sáng tác

- Truyện của ông nhẹ nhàng, toát lên lòng yêu thương con người, đượm màu sắc hư ảo và thơ mộng, thể hiện niềm tin vào sự thắng lợi cuối cùng của cái tốt đẹp trên thế gian.

Vài nét cơ bản về tác giả Xéc-van-téc

Tiểu sử

 - Miguel de Cervantes Saavedra (1547 – 1616), sinh ra tại thị trấn gần thủ đô Mađrít (Tây Ban Nha) trong một gia đình quý tộc nhỏ, đã sa sút. Ông thân sinh ra Xec-van-tec làm nghề thầy thuốc, phải lang thang từ tỉnh này sang tỉnh khác để kiếm tiền nuôi sống bảy đứa con

- Trong hoàn cảnh gia đình sống nay đây mai đó, Xec-van-tec không thể theo học một trường nào đến đầu đến đũa. Có thời kỳ ông học tại một viện của thầy dòng, thời kỳ sau ông lại theo học một học giả nổi tiếng ở Mađrít .Tuy nhiên, bù đắp vào sự thiếu sót đó, Xec-van-tec có trí thông minh, óc nhận xét và tính ham đọc sách. Sự nghiệp văn chương của ông mở đầu bằng một bài thơ làm vào dịp hoàng hậu Tây Ban Nha tạ thế. Năm đó, ông 21 tuổi (1568).

- Năm 1571, Xec-van-tec bị trọng thương, bàn tay trái bị nghiền nát. Năm 1572, ở bệnh viện ra, Xec-van-tec lại gia nhập quân đội. Trong ba năm tại ngũ, ông đã qua nhiều nơi .

- Ngày 26 tháng 9, trên đường về Tây Ban Nha, tàu của ông bị bọn cướp biển tấn công và ông bị bắt giải về bị cầm tù Arhêl (1575 - 1580), ông luôn luôn có ý chí đấu tranh, khuyến khích bạn bè giữ vững tinh thần tìm cơ hội thoát thân. Cũng trong thời gian này, ông đã nhiều lần cầu cứu những nhân viên cao cấp Tây Ban Nha giải thoát cho ông, song đều vô hiệu. Cuối cùng, chính gia đình ông phải lo liệu tiền nong và, với sự giúp đỡ của Nhà dòng, chuộc được ông về nước.

- Ông trở về Tây Ban Nha, bước đường công danh lận đận, lại gặp những khó khăn kinh tế, Xec-van-tec bắt đầu viết sách để kiếm thêm tiền nuôi sống gia đình, ông sống một cuộc đời cực nhọc, âm thầm mãi cho đến lúc công bố tiểu thuyết Đôn- ki- hô-tê.

=> Xec-van-tec là một thiên tài hội tụ và kết tinh những truyền thống quý báu của văn học TBN. Trước khi trở thành nhà văn lớn ông đã phải trải qua một cuộc sống với nhiều nghịch cảnh. Ông là một người không gặp may trong công danh sự nghiệp, nhưng cũng vì thế mà vốn sống, vốn đời của ông trở thành một thiên tài chói lọi.

Sự nghiệp văn học

Tác phẩm chính

- Galatêa, Cuộc du ngoạn lên đỉnh núi Pacnanxơ, Truyện làm gương, Đôn ki hô tê.

Phong cách nghệ thuật

- Xec-van-tec được xem là người khai sinh ra tiểu thuyết hiện đại, đặc biệt là loại tiểu thuyết phiêu lưu.

- Ông sáng tạo ra kiểu nhân vật lưỡng diện: vừa điên rồ, vừa sáng suốt, dùng tiếng cười và thủ pháp lạ hóa điêu luyện trong việc bóc trần những thói hư, tật xấu của con người và xã hội.

- Văn phong giàu chất hiện thực, ngợi ca phần trong trẻo tốt lành, phẩm hạnh của tầng lớp bình dân.